intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hình thành và củng cố tri thức thể loại trong dạy học đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10 Trung học phổ thông theo chương trình 2018

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:99

25
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm hướng đến việc góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động đọc văn bản trong dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực của HS.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hình thành và củng cố tri thức thể loại trong dạy học đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10 Trung học phổ thông theo chương trình 2018

  1. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Giáo dục nước ta hiện nay đã và đang không ngừng đổi mới về  chương   trình, phương pháp, về tư duy trong dạy và học để thích nghi với thế giới đang   rất nhiều biến động. Dạy và học môn Ngữ văn cũng nằm trong xu thế đổi mới   ấy. Các nhà nghiên cứu, các nhà giáo dục, những người yêu văn chương luôn đặt  ra câu hỏi phải làm thế nào để đưa môn Ngữ văn trở về với vị trí xứng đáng của   nó? Giáo sư Phan Trọng Luận luôn trăn trở: "Vấn đề thứ nhất là chương trình   một  môn học thay  đổi như  thế  nào chứ  không phải là có  nên thay  đổi hay   không?". Như mọi người đều biết, chương trình dạy học văn đã thay đổi từ  ba  phân môn được xây dựng tách rời, độc lập đến chương trình Ngữ văn mới được  xây dựng theo nguyên tắc tích hợp. Tích hợp  ở  đây được hiểu là sự  gắn kết,   phối hợp các lĩnh vực tri thức gần nhau của các phân môn Đọc­văn, Tiếng Việt,   Làm văn nhằm hình thành và rèn luyện tốt các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe cho  học sinh. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 thực hiện ở cả 3 cấp học được   xây dựng theo hình thức cuốn chiếu và năm học tới 2022­2023 sẽ thực hiện cho   học sinh lớp 10 THPT. Theo tinh thần của chương trình GDPT 2018 được xây dựng theo trục  Đọc­ Viết­ Nói và Nghe  nhằm hình thành cho các em năng lực ngôn ngữ  ở  tất  cả các hình thức: đọc, viết, nói và nghe, trong đó bao gồm cả năng lực tìm kiếm   và xử  lí thông tin từ  nhiều nguồn khác nhau để  viết và nói; giúp HS sử  dụng  tiếng Việt chính xác, mạch lạc, có hiệu quả  và sáng tạo với những mục đích   khác nhau trong nhiều ngữ cảnh đa dạng.  Số  tiết dạy đọc hiểu văn bản  ở  cả  chương trình hiện hành và chương   trình GDPT 2018 thực hiện  ở năm học tới chiếm tỉ  lệ  lớn vì thế  khi dạy đọc­   hiểu văn bản cho học sinh  ở  trường THPT giáo viên phải vận dụng một cách   tổng hợp các tri thức và kĩ năng không chỉ  của Ngữ  Văn mà còn huy động các  kiến thức và kĩ năng của các môn học khác nhằm đáp  ứng yêu cầu về  sự  tăng  lên của khối lượng tri thức ngày càng cao của cuộc sống hiện đại. Trọng tâm vẫn là thông qua những văn bản văn học đặc sắc, giúp HS phát   triển năng lực thẩm mỹ, nhạy cảm và tinh tế  với các sắc thái của tiếng Việt,   giúp HS biết đọc và có hứng thú đọc các tác phẩm văn học, biết viết, thảo luận   và có hứng thú viết, thảo luận về các văn bản cùng thể  loại nhờ  đó các em có  cơ  hội khám phá bản thân và thế  giới xung quanh, thấu hiểu con người, có cá  tính và đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn. Giúp HS phát triển năng lực tư  duy, đặc biệt là tư  duy suy luận, phản   biện, biết đánh giá tính hợp lí và ý nghĩa của những thông tin và ý tưởng được   tiếp nhận; giúp HS phát triển năng lực tưởng tượng và sáng tạo, sự tự tin, năng   lực tự lập, năng lực hợp tác và tinh thần cộng đồng. 1
  2. Giúp HS hình thành và phát triển phương pháp học tập, nhất là phương  pháp tự học để có thể tự học suốt đời và biết ứng dụng những kiến thức và kĩ  năng học được vào cuộc sống. Nhờ được trang bị kiến thức, kĩ năng và có kinh   nghiệm đọc nhiều kiểu văn bản (VB) khác nhau trong nhà trường, khi trưởng  thành, HS có thể  tự đọc sách để  không ngừng nâng cao vốn tri thức và văn hóa  cần thiết cho cuộc sống và công việc. Trang bị cho HS những kiến thức phổ thông, cơ bản và hiện đại về tiếng  Việt và văn học, góp phần phát triển vốn tri thức căn bản của một người có văn  hóa. Giúp HS có được hiểu biết về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn học với   đời sống xã hội.  Bồi dưỡng cho HS có thái độ  tích cực và tình yêu đối với tiếng Việt và   văn học, qua đó biết trân trọng, giữ  gìn và phát triển các giá trị  văn hóa Việt   Nam, có thói quen và niềm vui đọc sách, có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hóa   của nhân loại, có khả  năng hội nhập quốc tế, trở  thành những công dân toàn  cầu, nhưng luôn có ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Ngoài ra chương trình Ngữ văn ở bậc trung học phổ thông, môn Ngữ văn còn có  thêm mục tiêu trang bị  kiến thức và kĩ năng theo định hướng nghề  nghiệp của   HS. Chẳng hạn, những HS có xu hướng học đại học những ngành nghề có liên   quan trực tiếp đến Ngữ văn thì được học sâu hơn dưới hình thức các chuyên đề  tự chọn. Chương trình Ngữ  văn 2018 được xây dựng theo trục Đọc Viết­nói Và  Nghe nhưng Đọc hiểu văn bản là nội dung dạy học then chốt của môn Ngữ văn. Thứ nhất,  giáo viên cần xác định rõ vị trí của dạy học đọc hiểu văn bản  nhìn từ cấu trúc chương trình:  ­ Đọc hiểu văn bản là nội dung dạy học quan trọng bậc nhất, khi chương   trình đã xác định rõ hai trục chính của dạy học Ngữ văn là đọc văn và làm văn. ­ Thời gian dành cho dạy học đọc hiểu văn bản chiếm phần lớn thời gian   dạy học toàn môn học.  ­ Phần cung cấp dữ liệu phục vụ trực tiếp cho dạy học đọc hiểu văn bản   chiếm phần lớn số trang của sách giáo khoa Ngữ văn cả trong chương trình hiện  hành và SGK chương trình giáo dục phổ thông 2018 . Thứ hai, giáo viên dạy Ngữ văn cũng cần xác định thêm vị trí của dạy học  đọc hiểu văn bản nhìn từ mục tiêu của môn Ngữ văn. Dạy học đọc hiểu văn bản  đảm bảo phần lớn mục tiêu bồi dưỡng “tri thức ngữ văn” cho học sinh (tri thức  ngữ  văn là một thuật ngữ  mang tính quy  ước, dùng để  chỉ  các loại tri thức mà  môn Ngữ văn có nhiệm vụ đưa đến/bồi dưỡng/ củng cố cho học sinh hoặc giúp   học sinh tự kiến tạo cho mình trong quá trình học). Thứ ba, vị trí của dạy học đọc hiểu văn bản nhìn từ hoạt động kiểm tra, đánh   giá. 2
  3. ­ Nội dung kiến thức của dạy học đọc hiểu cũng là nội dung chính của  kiểm tra, đánh giá (không chỉ đối với học sinh mà còn đối với cả giáo viên). ­ Phương pháp dạy học đọc hiểu là thước đo chính để đánh giá việc thực  hiện đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên Ngữ văn. ­ Năng lực dạy học đọc hiểu là tham số quan trọng nhất để đánh giá năng  lực dạy học của giáo viên Ngữ văn (trong những kỳ thi giáo viên giỏi, giáo viên  gần như  bắt buộc phải dạy một “bài” đọc hiểu văn bản, ngoài những “bài”  khác, hoặc làm văn, hoặc tiếng Việt). Trong chương trình SGK Ngữ văn 2018 đã rất chú ý vấn đề dạy đọc.   Đọc là một trong bốn kĩ năng chính cần xác lập cho người học trong chương  trình giáo dục phổ thông  mới. Như  vậy mục tiêu cốt lõi của hoạt động đọc là giúp học sinh nắm được  cách đọc, rèn được cách đọc, từ  đó có năng lực đọc, chiếm lĩnh cách đọc, có  được những tri thức cần thiết về cách đọc để khi học sinh tiếp nhận với bất kì  văn bản nào cùng loại thì vẫn đọc hiểu được. Nhằm giúp học sinh ở cấp THPT  được trang bị  thật kĩ lưỡng những kĩ năng quan trọng, cần thiết, các em cần   được giáo dục để  trở  thành những thanh niên mạnh dạn, tự  tin, chủ  động và   sáng tạo trong giao tiếp và công việc, có khả  năng giải quyết vấn đề  một cách  độc lập trong nhiều tình huống.  Chúng ta còn nhớ  cố  thủ  tướng Phạm Văn  Đồng từng phát biểu quan điểm chỉ  đạo việc đổi mới dạy học văn trong nhà  trường phổ  thông: "Ngày nay, sự  hiểu biết của con người luôn luôn đổi mới.  Cho nên dù học được trong nhà trường bao nhiêu chăng nữa cũng chỉ là rất hạn   chế. Thế  thì cái gì là quan trọng? Cái quan trọng là rèn luyện bộ  óc, rèn luyện   phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập, phải tìm tòi phương pháp vận   dụng kiến thức, phải vận dụng tốt nhất bộ óc của mình...". Như  vậy dạy học   văn là một quá trình rèn luyện toàn diện cho nên giáo viên phải không ngừng trăn   trở đổi mới về phương pháp dạy học bộ môn nói chung, phương pháp dạy đọc   hiểu văn bản nói riêng. Việc hình thành và củng cố kiến thức thể loại vào dạy  học đọc hiểu văn bản cũng đồng thời đáp  ứng được yêu cầu trên. Theo định   hướng của Chương trình giáo dục phổ  thông môn Ngữ  văn 2018, việc hình   thành kiến thức ngôn ngữ và văn học cho học sinh (HS) phải được tích hợp với   các hoạt động đọc, viết, nói và nghe. Từ  định hướng đó, sách giáo khoa (SGK)   Ngữ  văn sẽ  được  thiết kế  theo mô hình tổ  chức hoạt động  thay cho mô hình  cung cấp kiến thức. Làm thế nào để qua các hoạt động, HS có thể có được một  nền tảng kiến thức vững vàng, đó là một vấn đề  hiện nay cần được đặc biệt  chú ý nghiên cứu. Muốn thực hành đọc tốt văn bản (VB), người đọc phải có được những  kiến thức cơ bản về loại, thể loại. Nhưng hiện nay, trong khi Chương trình và  SGK không bố  trí những tiết học riêng (mang tính lí thuyết) về  loại, thể  loại   VB, giáo viên (GV) cần phải làm gì  để cuộc tiếp xúc của HS với VB được diễn   ra thuận lợi? Rõ ràng đây là một câu hỏi khó cần được tìm hiểu, giải đáp. 3
  4. Kiến thức về thể loại VB vốn rất phong phú, nhưng trong nhà trường phổ  thông, phạm vi kiến thức đó cần được xác định theo nguyên tắc nào và và việc  xây dựng quy trình tiếp nhận kiến thức đó phải đảm bảo điều kiện gì? Với một   GV Ngữ văn, điều này gây không ít băn khoăn. Xuất phát từ những câu hỏi khoa học nêu trên đồng thời đáp ứng yêu cầu  của dạy học hiện đại và góp một chút nhỏ tăng thêm tình yêu đối với môn Ngữ  văn là động lực giúp tôi lựa chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Hình thành và  củng cố tri thức thể loại trong dạy học đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10  Trung học phổ thông theo chương trình 2018”.  Trong khuôn khổ của sáng  kiến kinh nghiệm này, tôi xin định hướng một số biện pháp hình thành, củng cố  kiến thức về thể loại vào dạy học đọc­ hiểu Văn bản Ngữ văn 10 THPT theo  định hướng chương trình mới 2018. 2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu 2.1.Mục đích nghiên cứu Sáng kiến kinh nghiệm hướng đến việc góp phần nâng cao chất lượng của  hoạt động đọc văn bản trong dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông theo hướng  phát triển phẩm chất và năng lực của HS. 2.2. Đối tượng nghiên cứu  Như tên đề tài đã xác định rõ, đối tượng nghiên cứu của sáng kiến kinh  nghiệm là vấn đề hình thành và củng cố kiến thức về thể loại cho HS lớp 10  qua hoạt động đọc VB theo Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn  2018. 3. Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Phạm vi nghiên cứu Hiện nay, SGK theo Chương trình giáo dục phổ  thông môn Ngữ  văn 2018  đang được biên soạn theo hình thức cuốn chiếu. Trong năm học tới 2021­2022,   SGK Ngữ  văn 10 sẽ  chính thức được dạy học trong nhà trường trung học phổ  thông (THPT). Chúng tôi may mắn có được điều kiện thuận lợi là nghiên cứu   trước chương trình SGK Ngữ Văn 10 trên bản mềm theo chương trình giáo dục  phổ thông 2018.  Để tạo thuận lợi cho việc khai thác tài liệu và triển khai hoạt   động dạy học trong năm học tới 2022­2023, sáng kiến kinh nghiệm của chúng  tôi chỉ tập trung bàn về vấn đề hình thành và củng cố kiến thức về thể loại cho  HS lớp 10. ­ Nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chung. ­   Nghiên   cứu   dựa   trên   thực   tiễn   giảng   dạy   và   quá   trình   giảng   dạy   tại  trường THPT Yên Thành 3 và các trường THPT trên địa bàn huyện Yên Thành. 4
  5. ­ Phạm vi nghiên cứu  và triển khai thực hiện: Để  thực hiện được đề  tài  này, tôi dựa vào SGK Ngữ  văn lớp 10 (Ban cơ  bản) chương trình hiện hành và  SGK Ngữ văn 10 chương trình GDPT mới 2018.  ­ Đối tượng nghiên cứu: Là học sinh lớp lớp 10 trường THPT Yên Thành 3  và HS lớp 10 các trường THPT trên địa bàn huyện Yên Thành. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu – Khái quát tình hình nghiên cứu vấn đề hình thành và củng cố kiến thức về  thể loại cho HS qua hoạt hoạt động đọc VB. – Thuyết minh về các khái niệm cơ sở của đề tài. – Xây dựng hệ  thống nguyên tắc và biện pháp hình thành, củng cố  kiến   thức thể loại cho HS lớp 10 qua hoạt động đọc VB. – Tiến hành thực nghiệm để  xác nhận tính hiệu quả  của những biện pháp   dạy học đã đề xuất. 4. Phương pháp nghiên cứu Để  thực hiện các nhiệm vụ  nghiên cứu nêu trên, chúng tôi phối hợp sử  dụng nhiều phương pháp thuộc hai nhóm: nghiên cứu lý thuyết (tài liệu) và  nghiên cứu thực tiễn. Cụ thể, các phương pháp chính được sử dụng là:  ­ Phân tích và tổng hợp lý thuyết (tài liệu);  ­ Phương pháp quan sát;  ­ Phương pháp điều tra;  ­ Phương pháp chuyên gia;  ­ Phương phápThực nghiệm.  5. Đóng góp của đề tài sáng kiến kinh nghiệm Sáng kiến kinh nghiệm đã nêu được một hệ thống biện pháp mang tính khả  thi nhằm xác lập cho HS một nền tảng kiến thức cơ bản về thể loại, giúp cho   việc tổ chức hoạt động đọc văn bản đạt được kết quả tích cực, đảm bảo định   hướng phát triển năng lực và phẩm chất của người học. 6. Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm      Phần I. Đặt vấn đề 1. Lý do chọn đề tài 2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu 3. Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm Phần II. Nội dung nghiên cứu Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài . 5
  6.   1.1.Cơ sở lý luận của đề tài   1.2.Cơ sở thực tiễn của đề tài Chương 2. Một số nguyên tắc và biện pháp hình thành, củng cố  kiến thức về thể loại cho học sinh lớp 10 qua hoạt động đọc văn bản.   2.1. Nguyên tắc hình thành, củng cố kiến thức về thể loại cho học sinh  lớp 10 qua hoạt động đọc văn bản. 2.2. Các biện pháp hình thành, củng cố kiến thức về thể loại cho học sinh  lớp 10 qua hoạt động đọc văn bản.   Chương 3. Thiết kế giáo án thực nghiệm.   Phần III. Kết luận và kiến nghị 6
  7. Phần II. NỘI DUNG 1. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Cơ sở lý luận: 1.1.1.Thế nào là dạy học Đọc ­ hiểu văn bản? Thuật ngữ đọc hiểu văn bản được dùng phổ biến từ khi bộ sách giáo khoa  Ngữ văn tích hợp ra đời (cuốn đầu tiên là Ngữ văn 6, xuất bản năm 2002 và Ngữ  văn 10, xuất bản năm 2006). Ở phạm vi hẹp hơn, thuật ngữ này đã được dùng   chính thức trong chương trình Ngữ  văn tổng thể, biên soạn năm 2000. Thuật  ngữ đọc hiểu được dùng song song với thuật ngữ đọc văn, tuy nhiên vẫn có sự  phân biệt. Để  gọi tên một loại giờ  mà đối tượng khám phá ­ chiếm lĩnh của   thầy và trò là văn bản văn học, người ta có thể dùng thay thế lẫn nhau hai thuật   ngữ đọc hiểu văn bản và đọc văn. Nhưng thuật ngữ đọc văn khá quen dùng chưa  cho thấy rõ tính hướng đích của giờ học (hay hoạt động) khám phá văn bản văn  học. Đọc ở đây không bó hẹp trong đọc diễn cảm mà phải gắn liền với sự hiểu  ­ hiểu theo nghĩa toàn diện. Rõ ràng, trong hệ  thống thuật ngữ  của môn Ngữ  văn, đọc hiểu không đơn giản chỉ là nắm bắt một cách đại cương về văn bản. Với tên gọi đọc hiểu, giờ  giảng văn hay phân tích tác phẩm văn học hay   dạy học tác phẩm văn chương trước đây đã mang một tính chất khác. Thuật ngữ  mới trong trường hợp này cần được nhìn nhận ở chiều sâu quan niệm, gắn với   nỗ lực đổi mới một loại hình hoạt động có lịch sử lâu đời nhưng cách tổ  chức,  vận hành nó đã tỏ  ra lỗi thời khi mục tiêu dạy học văn nói riêng, dạy học nói  chung đã đổi khác. Trong  Chương trình Ngữ  văn THPT  do GS. Trần Đình Sử  làm trưởng tiểu ban biên soạn, 2002, khái niệm – thuật ngữ  đọc hiểu được  thuyết minh như  sau: “Đó là một quá trình bao gồm việc tiếp xúc với văn bản,   thông hiểu cả nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa hàm ẩn cũng như thấy được vai trò,   tác dụng của các hình thức, biện pháp nghệ  thuật ngôn từ, các thông điệp tư  tưởng, tình cảm, thái độ của người viết và cả các giá trị tự thân của hình tượng   nghệ thuật. Đọc ­ hiểu là hoạt động duy nhất để học sinh tiếp xúc trực tiếp với  các giá trị văn học. Đọc hiểu bắt đầu từ đọc chữ, đọc câu, hiểu nghĩa của từ và   sắc thái biểu cảm, hiểu nghĩa của hình thức câu, hiểu mạch văn, bố cục và nắm  được ý chính, cũng như  chủ đề  của tác phẩm. Lý giải những đặc sắc về  nghệ  thuật và ý nghĩa xã hội nhân văn của tác phẩm trong ngữ cảnh của nó. Trong quá  trình học đọc, HS sẽ biết cách đọc để tích lũy kiến thức, đọc để lý giải, đọc để  đánh giá và đọc sáng tạo, phát hiện. HS sẽ học cách trích câu hay, trích chi tiết,  trích ý, học cách thuyết minh, thuật lại nội dung văn bản đã học”. Khi mới xuất hiện, trong thuật ngữ đọc hiểu có dấu nối giữa đọc và hiểu  (đọc ­ hiểu). Dấu nối đó có thể  được xem như  một tín hiệu gây chú ý, buộc   người tiếp nhận/sử dụng phải có tư  duy mới về thuật ngữ. Nhưng giờ đây khi  7
  8. thuật ngữ đã được dùng phổ biến và đã được hiểu một cách toàn diện, việc đặt  dấu nối này không còn cần thiết nữa. 1.1.2 “Đọc” trong dạy học đọc ­ hiểu Đọc là một năng lực thiết yếu của người học sinh, là một kỹ  năng sống   cần được rèn luyện không ngừng. Theo Chương trình đánh giá học sinh quốc tế   PISA (The Programme for International Student Assessment) của Tổ chức hợp tác   và phát triển kinh tế thế giới OECD  (Organization for Economic Cooperation and  Development), trình độ  đọc hiểu là một trong ba lĩnh vực chủ  yếu để  xác định  năng lực học sinh  ở giai đoạn cuối của giáo dục bắt buộc (hai lĩnh vực khác là   toán học và khoa học). Đọc hiểu chứa đựng những đòi hỏi nhiều mặt. OECD   đưa ra định nghĩa như  sau về trình độ  đọc hiểu (reading literacy): “Đọc hiểu là  sự  hiểu biết, sử dụng và phản hồi lại trước một văn bản viết, nhằm đạt được  mục đích, phát triển tri thức và tiềm năng cũng như việc tham gia hoạt động của   một ai đó trong xã hội1”. Trong định nghĩa này, biết đọc bao hàm sự biết giải mã   (decoding) và sự thấu hiểu (comprehension) tư liệu, mà sự thấu hiểu thì gồm có  hiểu  (understanding),  sử  dụng  (using) và  phản hồi  (reflecting) về  những thông  tin với nhiều mục. Theo quan niệm của GS Đỗ  Ngọc Thống, “Đọc ­ hiểu không chỉ  là một  yêu cầu của suốt thời kỳ  học tập trong nhà trường phổ  thông, mà nó còn trở  thành một nhân tố  quan trọng trong việc xây dựng, mở  rộng những kiến thức,   kỹ  năng, chiến lược của mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời khi họ  tham gia vào   các hoạt động ở những tình huống khác nhau, trong mối quan hệ với người xung   quanh, cũng như trong cả cộng đồng rộng lớn” (Theo Đỗ Ngọc Thống, Chương   trình Ngữ văn trong nhà trường phổ thông Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam,  tr. 357) 1.1.3 “Hiểu” trong dạy học đọc hiểu văn bản * “Hiểu” trong quan niệm thông thường: Hiểu là sự nhận bi ết một tri th ức. Hi ểu nghĩa là nắm đượ c các tri thức   về  đối tượ ng và biết cách vận dụng chúng để  chiếm lĩnh đố i tượ ng, chiếm   lĩnh thực t ại khách quan.  Hiểu văn bản có nhiều mức: hiểu nghĩa đen của từ, câu, sự kiện được kể;  hiểu nghĩa hàm  ẩn của các yếu tố  cấu thành văn bản; nắm bắt được chủ  đề,  thông điệp của tác phẩm; có xúc cảm và hành động tương  ứng với những gì  được gợi lên từ văn bản. * Quan niệm về “hiểu” trong dạy học đọc hiểu văn bản hiện nay  Hiểu không đối lập với cảm mà ngược lại, trong hiểu có cảm – một thứ  cảm có chiều sâu, có căn cứ  nhưng không hề  loại bỏ  trực giác. Nói cách khác,   nhấn mạnh vấn đề hiểu cũng chính là một hình thức thể hiện sự đòi hỏi rất cao  1 8
  9. đối với cảm, cụ thể ở đây là cảm thụ nghệ thuật. Về điều này, các nhà nghiên   cứu từ lâu đã nói tới. Trong Giảng văn Chinh phụ ngâm, Đặng Thai Mai có viết:  “...   cảm   tình   nếu   được   cả   một   lực   lượng   của   sự   hiểu,   của   ngộ   tính   (entendment) làm hậu thuẫn, bao giờ cũng sẽ khỏe khoắn hơn, dồi dào hơn (...).  Cảm thấy hay, chưa đủ. Có hiểu là hay, sự  thưởng thức mới có nghĩa lý, tác  dụng” ( Theo Đặng Thai Mai tác phẩm, tập 1, nhà xuất bản văn học, 1978, tr  363­364). Như  vậy “Hiểu” không đơn giản là sự  nắm bắt (tiếp thu, ghi nhớ) một   nguồn tri thức nào đó mang hình thức cố  định, xác định được đưa đến từ  bên   ngoài. Từ quan niệm này, cần thấy được: ­ Giữa sự hiểu của thầy và sự hiểu của trò không có sự đồng nhất. ­ Học sinh là người chủ động tìm biết và kiến tạo tri thức dưới sự gợi ý,  chỉ  dẫn của thầy (thầy không thể làm cho hiểu nếu trò không có được sự  tích  cực trong hoạt động học tập, nhận thức, không tự  khơi dậy nhu cầu hiểu của   mình).  ­ Hiểu là một quá trình, gắn liền với việc tái cấu trúc toàn bộ  năng lực   của người học. Một giờ học thành công là giờ học đưa đến được sự  kích thích  cho hoạt động hiểu của học sinh. Quá trình đó có thể  diễn ra trong suốt cuộc   đời, không hề ngừng lại khi giờ học kết thúc. ­ Để  đánh giá sự  hiểu của học sinh, không thể  vội vàng, cũng không thể  chỉ dựa vào điểm số của các thi bài hay kiểm tra, dù chúng có ý nghĩa quan trọng.   Biểu hiện của hiểu có thiên hình vạn trạng, không thể  lấy một hình thức duy   nhất làm thước đo. Ở Việt Nam, trong khoảng 20 năm trở lại đây, đọc hiểu đã trở thành một  khái niệm xuất hiện khá phổ  biến trong sách giáo khoa Ngữ  văn và các công  trình nghiên cứu về phương pháp dạy học văn. Giờ giảng văn trong nhà trường   giờ  đã thay thế  bằng giờ  đọc hiểu văn bản. Điều đáng nói  ở  đây là không chỉ  thay đổi về cách gọi tên mà còn cả bản chất của vấn đề.  1.2. Dạy học bám sát kiến thức thể loại Bộ  môn Ngữ  văn là một môn học công cụ  mang tính nhân văn sâu sắc.  Môn Ngữ  Văn  ở  trường THPT nhằm phát triển phẩm chất, năng lực HS: như  năng lực tư  duy sáng tạo, năng lực hợp tác giao tiếp, năng lực giải quyết vấn   đề... Năng lực đặc thù là năng lực sử  dụng ngôn ngữ  và năng lực văn chương  ( cảm thụ  thẩm mĩ). Thông qua những văn bản văn học đặc sắc, qua các hình   tượng nghệ thuật, qua ngôn ngữ nghệ thuật, cảm xúc, tư tưởng, quan điểm của   nhà văn,… giúp HS phát triển năng lực thẩm mĩ, cảm nhận được cái hay cái đẹp  từ trong mỗi tác phẩm nghệ thuật được nhà văn sáng tạo. Từ đó HS sẽ có hứng   thú học tập, thảo luận trong hoạt động học tập và có cơ hội khám phá bản thân  và thế  giới xung quanh, thấu hiểu về  đời sống tâm hồn phong phú của người  dân Việt Nam, có thái độ sống tích cực với xã hội, với cộng đồng, có quan niệm   9
  10. sống và ứng dụng vào thực tiễn một cách nhân văn. Môn Ngữ văn giúp HS hình   thành tình cảm và nhân cách biết hướng tới Chân­ Thiện­ Mỹ.  Để phát triển phẩm chất, năng lực cho HS qua dạy học  đọc hiểu văn bản  môn Ngữ văn phải bám sát đặc trưng thể loại  không biến Ngữ Văn thành một  giờ  dạy học Giáo dục công dân, giáo dục đạo đức đơn thuần. Vì vậy, dạy học  đọc hiểu văn bản  trong chương trình Ngữ  Văn 10 theo hướng phát triển phẩm  chất, năng lực HS cần phải bám sát đặc trưng thể  loại của từng văn bản. Qua   hình  ảnh, ngôn ngữ  hình tượng, cảm xúc, cấu tứ… để  liên hệ, đối chiếu giáo  dục phát triển phẩm chất, năng lực HS. Không biến dạy học  trong môn Ngữ  Văn thành một hoạt động mang tính xã hội, cổ  động, tuyên truyền một cách  cứng nhắc, thô thiển. Phải qua những tri thức về ngôn ngữ, hình ảnh, cảm xúc,   cấu tứ,…của tác phẩm để  lồng ghép, tích hợp, thực hiện mục tiêu phát triển  phẩm chất, năng lực HS. Không thể  gò ép, chính trị  hóa, đạo đức hóa các hình   ảnh, cấu tứ, nghệ  thuật, ngôn ngữ,   không những bóp chết tác phẩm mà còn   không đạt được chất lượng, hiệu quả trong việc phát triển phẩm chất, năng lực  HS. 1.3 Dạy học đọc hiểu văn bản để hình thành và củng cố kiến thức về thể  loại Như  đã nói, có rất nhiều nhà nghiên cứu đề  cập đến vấn đề  này, người   viết đặc biệt quan tâm đến nghiên cứu của một số tác giả sau: Tác giả Nguyễn   Thanh Hùng với bài viết: “Đọc hiểu văn chương” (tạp chí Giáo dục số  29,  7/2004) và bài: “Những khái niệm then chốt của vấn đề  đọc hiểu văn chương”  (Tạp chí Giáo dục số 100, 11/2004) đã chỉ rõ: “Đọc hiểu là một khái niệm khoa  học chỉ mức độ cao nhất của hoạt động đọc, đọc hiểu đồng thời cũng chỉ  năng  lực văn học của người đọc” đồng thời ông cũng đã nêu ra một số nội dung cần   hiểu sau khi đọc văn bản. Tác giả  Trần Đình Sử  qua bài viết: “Đọc hiểu văn  bản – một khâu đột phá trong nội dung và phương pháp dạy văn hiện nay” đã  nhấn mạnh: “Đề  xuất vấn đề  đọc hiểu văn bản như  một khâu đổi mới trong  dạy học Ngữ văn …. Là một yêu cầu bức thiết đối với việc đào tạo nguồn nhân  lực cho đất nước tiến theo các nước tiên tiến và góp phần khắc phục lối học cũ:   thầy trò đọc chép rồi thi theo trí nhớ  của học sinh về các bài đã học thuộc góp   phần khắc phục tệ  nạn sao chép trong các kì thi”.  Nguyễn Trọng Hoàn đã đề  cập trong bài “Dạy đọc hiểu văn bản ngôn ngữ  ở  trung học cơ sở”: “Đọc hiểu  văn bản không chỉ  nhằm để  tiếp nhận giá trị  của riêng một bài văn cụ  thể  mà   còn tạo ra được nền tảng kiến thức để  học sinh có thể  vận dụng và phát triển   chúng trong phân môn tiếng Việt và Tập làm văn… Đọc hiểu văn bản là hoạt  động có tính chất đầu mối của một quy trình dạy học tích hợp Ngữ văn hướng   tới sự phát triển đồng bộ”.  Từ  việc đọc và nghiên cứu các bài viết, giáo viên Ngữ  văn có thể  vận  dụng vào dạy học đọc hiểu văn bản  ở  trường phổ  thông. Ví dụ  khi dạy đọc  hiểu truyện thường được các nhà nghiên cứu quan tâm dựa trên đặc trưng về  10
  11. thể  loại, điển hình là tác giả  Nguyễn Thanh Bình trong tài liệu  Dạy học đọc   hiểu tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể  loại trong nhà trường THPT đã  nhấn mạnh: “Đọc hiểu là một nội dung khoa học mới, có ý nghĩa và giá trị  phương pháp được chính thức đưa vào chương trình sách giáo khoa Ngữ văn cấp  trung học cơ  sở  và trung học phổ  thông, giáo viên và các quản lí giáo dục cần   nắm vững.” Trong công trình nghiên cứu này, tác giả  đã đề  xuất việc dạy học   đọc hiểu tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại để phát huy năng lực cho   học sinh và theo từng thể loại học sinh sẽ nắm rõ được các đặc trưng của từng   thể loại tác phẩm văn học đó. 2. Cơ sở thực tiễn: Để phục vụ cho sáng kiến kinh nghiệm này được tốt hơn, tôi đã tiến hành   khảo sát cụ  thể  về  chương trình học theo sách giáo khoa: Thời lượng chương  trình dành cho bài học, câu hỏi hướng dẫn chuẩn bị bài trong sách giáo khoa ngữ  văn 10 chương trình hiện hành(2006) và Sách giáo khoa Ngữ  văn 10 chương  trình GDPT 2018 và hai đối tượng trung tâm của quá trình dạy học là giáo viên  và học sinh. 2.1. Chương trình học theo sách giáo khoa. 2.1.1 Chương trình hiện hành 2006 Chương trình môn Ngữ văn THPT, đã được xây dựng theo quan điểm tích   hợp dựa trên trục đồng tâm do Bộ  GD&ĐT chỉ  đạo: “Lấy quan điểm tích hợp   làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương trình, biên soạn SGK và lựa  chọn các phương pháp giảng dạy.”  “Nguyên tắc tích hợp phải được quán triệt  trong toàn bộ  môn học, từ  Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong  mọi khâu của quá trình dạy học; quán triệt trong mọi yếu tố của hoạt động học  tập; tích hợp trong chương trình; tích hợp trong SGK; tích hợp trong phương   pháp dạy học của GV và tích hợp trong hoạt động học tập của HS; tích hợp  trong các sách đọc thêm, tham khảo.”  Thực tế cho thấy chương trình Ngữ văn có sự tích hợp khá linh hoạt giữa   ba phân môn Đọc văn­Tiếng Việt­ Làm văn mà chúng ta vẫn quen gọi là tích hợp  dọc hay tích hợp nội môn. Hơn nữa chương trình được xây dựng theo trục lịch  sử và thể loại, mỗi thể loại có 2­3 văn bản được đưa vào SGK. Trong SGK hiện  hành, tri thức thể loại được học tách riêng, trong quá trình đọc hiểu văn bản Gv  có hướng dẫn đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại không còn tùy thuộc vào  mức độ  chuẩn bị bài của người dạy, thường kiến thức về thể loại Gv rút ra ở  cuối mỗi bài học với những câu lệnh quen thuộc: Qua đọc hiểu văn bản ở trên,   em hãy rút ra cách đọc hiểu một văn bản truyện/ thơ/ kí/ kịch..... Mục tiêu chương trình hiện hành 2006 coi trọng kiến thức cần cung cấp   cho học sinh, vì vậy, chương trình hiện hành xem văn bản là “đối tượng” để  khai thác, chiếm lĩnh kiến thức, giáo viên là người truyền thụ­học sinh là người  tiếp thu thụ động những tri thức về ngôn ngữ và văn học đóng khung trong một  11
  12. văn bản cụ thể. 2.1.2. Chương trình giáo dục phổ thông 2018  Chương trình giáo dục phổ thông 2018 xác định mục tiêu dạy học là hình   thành và phát triển cho học sinh phẩm chất và năng lực, vì thế  chương trình   SGK Ngữ văn 2018 xem văn bản là “công cụ” để  hình thành và phát triển năng   lực cho học sinh. Để hình thành và củng cố  kiến thức về thể loại cho HS qua các tiết dạy  đọc hiểu văn bản, GV trước tiên phải nắm vững, bám sát mục tiêu và yêu cầu  cần đạt trong dạy học bộ môn. Điều này có vai trò quan trọng trong dạy học nói   chung và dạy học văn bản nói riêng. Mục tiêu là thành tố  đầu tiên trong kế  hoạch dạy học, có vai trò định hướng việc hình thành phẩm chất, năng lực  người học từ  đó chọn nội dung, phương pháp, hình thức dạy học cũng như  phương pháp kiểm tra, đánh giá phù hợp. Khi xác định được mục tiêu và yêu cầu  cần đạt, người giáo viên sẽ nghiên cứu, lựa chọn và sắp xếp nội dung dạy học   cũng như tìm phương pháp hiệu quả nhất, tối ưu nhất để đạt được mục tiêu đó.   Đồng thời, cũng căn cứ vào mục tiêu và yêu cầu cần đạt đặt ra, người giáo viên  sẽ đánh giá chính xác sự tiến bộ của người học qua sự đối chiếu với mục tiêu.   Vai trò của mục tiêu và yêu cầu cần đạt còn đặc biệt quan trọng đối với người  học. Học sinh cần và phải nắm rõ mục tiêu để  từ  đó tự  tổ  chức quá trình học   tập của bản thân theo một định hướng rõ ràng, biết lựa chọn cách học, cách đọc   văn bản sao cho phù hợp, hiệu quả, biết tự  đánh giá mức độ  tiến bộ  của bản   thân, có thể  vận dụng vào quá trình tự  học, tự  đánh giá khi đọc hiểu một văn   bản cùng thể loại ngoài chương trình SGK. Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập nhằm khơi   dậy khả  năng tìm kiếm, giải quyết vấn  đề  của người học, giúp người học   không chỉ  chiếm lĩnh tri thức văn bản được học mà còn có năng lực vận dụng   những kiến thức ấy để giải quyết các tình huống thực tiễn. Do đó, việc thay đổi   mục tiêu dạy học văn bản (từ  mục tiêu dạy học tiếp cận nội dung sang mục   tiêu tiếp cận năng lực) sẽ dẫn đến việc thay đổi các thành tố khác của kế hoạch   dạy học như: nội dung, phương pháp, kiểm tra đánh giá… Cụ thể: về nội dung,  với mục tiêu hình thành và phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh,văn bản sẽ  được khai thác theo trục đọc­viết­nói­nghe; về phương pháp, để  đảm bảo mục  tiêu phát triển năng lực, phương pháp dạy học sẽ phải phù hợp với từng kĩ năng  (đọc ­ viết ­ nói ­ nghe) cũng như  từng kiểu văn bản cụ  thể. Dù là sử  dụng   phương pháp truyền thống hay hiện đại, các phương pháp đều nhằm một mục   tiêu duy nhất: dạy cho học sinh cách đọc­viết­nói­nghe về văn bản.Về kiểm tra   đánh giá, kiểm tra đánh giá sẽ  được tiến hành trong quá trình học, với nhiều   hình thức, tập trung vào bốn kĩ năng đọc ­ viết ­ nói ­ nghe của học sinh.   2.2.Ma trận thể  loại của văn bản đọc trong chương trình giáo dục phổ  thông môn Ngữ văn 2018. 12
  13. * Đặc điểm chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018  Chương trình giáo  dục  phổ  thông  môn Ngữ  Văn  là  một  bộ   phận của  chương trình tổng thể, tuân thủ  các quy định của chương trình đồng thời có  những đặc điểm riêng, mang tính đặc thù bộ môn được xây dựng trên cơ sở kế  thừa và phát huy những  ưu điểm của các chương trình Ngữ văn đã có, đặc biệt   là chương trình hiện hành. Về  quan điểm dạy học, chương trình dạy học tiếp   cận nội dung cho rằng học là quá trình tiếp thu và lĩnh hội tri thức qua đó hình  thành kĩ năng thì chương trình dạy học theo định hướng phát triển năng lực xác  định: học là quá trình kiến tạo, học sinh tự tìm tòi, khám phá, phát hiện, tự hình   thành hiểu biết. Về  mục tiêu môn học, chương trình giáo dục phổ  thông môn  Ngữ văn 2018 xác định mục tiêu là phát triển năng lực giao tiếp với 04 kĩ năng   đọc ­ viết ­ nói ­ nghe. Thông qua việc hình thành và phát triển năng lực giao   tiếp mà giáo dục tâm hồn, nhân cách và kĩ năng sáng tạo văn học của học sinh,   đồng thời góp phần phát triển các năng lực khác như năng lực thẩm mĩ, năng lực  tự chủ, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo mà chương trình tổng thể đã đề  ra. Trong đó năng lực giao tiếp ngôn ngữ  là trục tích hợp để  xây dựng xuyên  suốt cả  ba cấp học. Về nội dung dạy học, căn cứ  vào những phẩm chất, năng  lực học sinh cần đạt, cũng như  mức độ  năng lực  ở  mỗi lớp, mỗi cấp mà xác  định nội dung cần 10 dạy. Do đó, chương trình chỉ  lựa chọn những kiến thức  giúp cho việc phát triển năng lực hiệu quả  để  đưa vào giảng dạy theo một hệ  thống từ lớp 1 đến lớp 12.  Nếu như nội dung chương trình hiện hành được tổ chức theo trục lịch sử  văn học hay kiểu văn bản nhằm tạo thuận lợi cho học sinh lĩnh hội kiến thức thì  nội dung chương trình ngữ văn 2018 sẽ được tích hợp thông qua các kĩ năng đọc   ­ viết ­ nói ­ nghe đồng thời phục vụ  cho các kĩ năng này. Chính vì chú trọng  năng lực  ứng dụng vào thực tiễn nên chương trình không đóng khung trong nội   dung bắt buộc của sách giáo khoa mà được xây dựng theo hướng mở, nghĩa là  chỉ  quy định một số  nội dung cốt lõi và một số  tác phẩm bắt buộc (06 tác  phẩm), còn lại đưa ra một danh sách gợi ý để các tác giả sách giáo khoa và giáo   viên tự  chọn sao cho phù hợp với điều kiện và đối tượng người học, phát huy   được sự  sáng tạo. Về  phương pháp dạy học, môn Ngữ  văn sẽ  chuyển từ  việc  giáo viên là người truyền thụ  tri thức, là trung tâm của quá trình dạy học, học   sinh tiếp thu thụ  động những tri thức được quy định sang việc giáo viên trở  thành người tổ  chức, hướng dẫn học sinh đọc tác phẩm để  học sinh biết cách   đọc và có thể tự đọc.  Hiệu quả  của giờ  dạy không chỉ   ở  những kiến thức cụ  thể  về  văn bản   học sinh lĩnh hội được mà quan trọng hơn là sau khi học xong, học sinh nắm   được phương pháp tiếp cận tác phẩm để có thể tự đọc các tác phẩm tương tự.  Về hình thức dạy học, chương trình mới khuyến khích tổ chức hình thức  học tập đa dạng; chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, trải nghiệm sáng tạo;   đẩy mạnh  ứng dụng công nghệ  thông tin và truyền thông trong dạy học. Về  13
  14. phương pháp kiểm tra đánh giá, thay vì đánh giá mức độ học sinh ghi nhớ và tái  hiện được những nội dung đã học (càng nhiều càng tốt) thì chương trình Ngữ  văn mới sẽ đánh giá mức độ năng lực Ngữ văn của học sinh (năng lực ngôn ngữ  và năng lực văn học).  * Đặc điểm phần văn bản trong chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ  văn 2018.   Như  trên đã nói, mặc dù chương trình được xây dựng theo hướng mở,  giao quyền lựa chọn văn bản cho các tác giả  sách giáo khoa và giáo viên, tuy  nhiên các văn bản được lựa chọn phải tuân thủ một số quy định nhất định: Thứ  nhất, các văn bản phải đạt các yêu cầu sau:  ­ Phục vụ trực tiếp cho việc phát triển các phẩm chất và năng lực, trước  hết là năng lực giao tiếp (đọc ­ viết ­ nói ­ nghe) cho học sinh.  ­ Phù hợp với học sinh ở từng cấp học, lớp học.  ­ Có giá trị tiêu biểu về phương diện nội dung, nghệ thuật.  ­ Phản ánh được thành tựu về tư tưởng, văn học, văn hóa dân tộc và nhân  loại.  ­ Tăng dần về mức độ khó của văn bản qua các cấp học. Thứ hai, các loại  hình văn bản bao gồm: Văn bản văn học; văn bản nghị luận; văn bản thông tin.  Mỗi loại hình văn bản lại định hướng những thể  loại cụ  thể, có thể  thấy rõ  điều đó qua bảng thống kê sau:  Thống kê các thể loại văn bản trong chương trình Ngữ văn trung học phổ  thông Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12. * Thể loại văn bản văn học : ­ Thần thoại  ­ Truyện thơ dân gian, truyện ngắn, tiểu thuyết  ­ Thơ trữ tình   ­ Sử thi  ­ Truyện ngắn  ­Tiểu thuyết hiện đại  ­ Thơ, truyện thơ Nôm  ­ Bi kịch  ­ Truyện truyền kì, truyện ngắn và tiểu thuyết hiện đại  ­ Thơ trữ tình hiện đại   ­ Kịch bản chèo hoặc tuồng  ­ Truyện kí, tuỳ bút hoặc tản văn 14
  15.   ­ Hài kịch  * Thể loại văn bản nghị luận  ở cả 3 khối 10,11,12; ­ Nghị luận văn học  ­ Nghị luận xã hội * Thể loại văn bản thông tin  ­ Báo cáo nghiên cứu; văn bản thuyết minh có sử  dụng các yếu tố  như  biểu cảm, nghị luận, miêu tả, tự sự.  ­ Nội quy, văn bản hướng dẫn  ­ Thuyết minh có sử  dụng các yếu tố như biểu cảm, nghị luận, miêu tả,   tự sự.  ­ Báo cáo nghiên cứu  ­ Thuyết minh có sử  dụng các yếu tố  như  biểu cảm, nghị luận, miêu tả,  tự sự.  ­ Báo cáo nghiên cứu, thư trao đổi công việc. Các mạch kiến thức văn học, Lí luận văn học: một số  vấn đề  về  lí luận  văn học thiết thực, có liên quan nhiều đến đọc hiểu văn bản văn học và thể loại  văn học: bao gồm thơ, truyện, kí, kịch… Các yếu tố của văn bản văn học: câu chuyện, cốt truyện, nhân vật, không  gian, thời gian, người kể chuyện, điểm nhìn, vần, nhịp... Ở cấp trung học phổ thông, mạch kiến thức văn học là: những hiểu biết  về  một số  thể loại, tiểu loại ít thông dụng, đòi hỏi kĩ năng đọc cao hơn (thần  thoại, sử thi, chèo hoặc tuồng, truyện và thơ hiện đại; tiểu thuyết hiện đại, hậu  hiện đại); một số  kiến thức lịch sử  văn học, lí luận văn học có tác dụng thiết   thực đối với việc đọc và viết văn bản văn học (câu chuyện, người kể  chuyện   toàn tri, người kể chuyện hạn tri, người kể chuyện và sự dịch chuyển, phối hợp   điểm nhìn, cách kể, tứ thơ, đặc trưng của hình tượng văn học.  Về ngữ liệu văn bản, căn cứ vào tiêu chí lựa chọn văn bản và yêu cầu lựa   chọn văn bản, chương trình xây dựng danh mục văn bản gợi ý lựa chọn  ở  các   lớp mục. Về  năng lực, các văn bản sẽ  được khai thác thông qua tổ  chức 4 hoạt  động đọc ­ viết ­ nói ­ nghe nhằm hình thành và phát triển năng lực ngôn ngữ và  năng lực văn học cho học sinh,  ở  mỗi kĩ năng, chương trình đưa ra những yêu  cầu cụ thể:  Về đọc hiểu: các văn bản sẽ được đọc hiểu ở 04 phương diện:  + Đọc hiểu nội dung văn bản thể  hiện qua chi tiết, đề  tài, chủ  đề, tư  tưởng, thông điệp... 15
  16.   + Đọc hiểu hình thức thể  hiện qua đặc điểm các kiểu văn bản và thể  loại, các thành tố  của mỗi kiểu văn bản và thể  loại (câu chuyện, cốt truyện,   truyện kể, nhân vật, không gian, thời gian, người kể  chuyện, điểm nhìn, vần   thơ, nhịp thơ, lí lẽ, bằng chứng...), ngôn ngữ biểu đạt…  + Liên hệ, so sánh giữa các văn bản, kết nối văn bản với bối cảnh lịch sử,   văn hoá, xã hội, kết nối văn bản với trải nghiệm cá nhân người đọc; đọc hiểu  văn bản đa phương thức…  + Đọc mở rộng, học thuộc lòng một số đoạn, văn bản văn học chọn lọc.  Về kĩ năng viết: trên cơ sở đọc hiểu văn bản, học sinh sẽ được học về quy trình   tạo lập văn bản và yêu cầu thực hành viết theo đặc điểm của kiểu văn bản vừa   học. Về kĩ năng nói ­ nghe: học sinh sẽ chuyển thể văn bản viết thành văn bản   nói, từ đó thực hành nói; nghe và nói ­ nghe tương tác. Trong dạy học định hướng phát triển năng lực, mục tiêu không chỉ  là kết   quả mà giáo viên mong muốn người học đạt được sau bài giảng mà đó còn là cái   đích người học phải đạt được; hơn thế, mục tiêu bài giảng còn là tuyên bố  về  những gì mà người học phải hiểu rõ, phải nắm vững và phải làm được sau bài  dạy của người thầy; mục tiêu bài giảng còn nói về việc người học sẽ học như  thế nào hoặc có khả năng làm được gì sau khi kết thúc một bài học. Về  nhân tố  con người . Dạy học theo định hướng phát triển năng lực   không chỉ là một xu hướng giáo dục quốc tế mà đã triển khai ở giáo dục nước ta  (chương trình 2018). Tuy nhiên, để chương trình triển khai một cách rộng rãi, để  các nhà quản lí, giáo viên, học sinh nắm vững chương trình cần phải có một quá  trình tập huấn kĩ lưỡng. Đến thời điểm này, việc tập huấn vẫn đang được tiến   hành nhưng tiến độ chậm. Nhiều giáo viên vẫn nhận thức cảm tính, mơ  hồ  về  dạy học theo định hướng phát triển năng lực, cộng với thói quen, lối tư  duy   dạy­ học tiếp cận nội dung  ở  cả  giáo viên và học sinh khiến cho việc thực   nghiệm đề tài gặp không ít khó khăn. Chúng tôi xác định những khó khăn này là  không thể tránh khỏi khi chương trình mới đưa vào thực tiễn “vạn sự khởi đầu  nan”. Nhưng điều đó không phủ nhận những tín hiệu vui mà chúng tôi thu nhận  được trong và sau những giờ học thể nghiệm. Đa số học sinh đã biết cách “đọc”   một văn bản nghị luận theo từng cấp độ: từ  đọc kĩ thuật đến đọc hiểu; từ  đọc   hiểu nội dung, đọc hiểu hình thức, đọc liên hệ, so sánh, đối chiếu để  từ  đó có   thể tự mình “đọc” những tác phẩm tương tự (đọc mở rộng). Học sinh biết cách   “viết” một đoạn văn, bài văn nghị  luận (nghị  luận xã hội hoặc nghị  luận văn  học) đúng quy trình, thể hiện rõ quan điểm của bản thân, biết dùng luận điểm,  luận cứ, lập luận chặt chẽ, thuyết phục. Khi tiến hành hoạt động nói­ nghe,   nhiều em khá tự  tin thể  hiện bản thân khi thuyết trình, biết sử  dụng phương   tiện giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ như ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ… để làm  cho bài thuyết trình của mình thêm thuyết phục. Đồng thời, biết lắng nghe, nắm  bắt nội dung, quan điểm của người khác cũng như  biết tương tác với bạn bè,   giáo viên về một vấn đề  còn chưa thống nhất. Giờ học cũng vì thế mà sôi nổi,   16
  17. hấp dẫn, hứng thú hơn, không nặng về đọc­ chép, mức độ  năng lực được phát  triển toàn diện trên cả  bốn kĩ năng đọc ­ viết ­ nói ­ nghe. Việc kiểm tra đánh  giá được đo bằng các rubric sau mỗi hoạt động cũng làm cho học sinh hào hứng  hơn, các em “thấy” được năng lực bản thân một cách cụ thể  trong cả tiến trình  học, từ đó biết điều chỉnh cũng như cố gắng để phát triển năng lực bản thân 2.3. Khảo sát hệ thống câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu văn bản và luyện tập  của Sách giáo khoa. * Câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu văn bản và luyện tập của Sách giáo khoa   Ngữ văn 10 chương trình hiện hành 2006. ­ Sách giáo khoa Ngữ Văn cơ bản theo thống kê của chúng tôi phần lớn là  đưa ra câu hỏi mang định hướng tích hợp kiến thức vào bài học. Có thể thấy, cả  ở sách giáo khoa cơ bản và nâng cao đã định hướng tới việc vận dụng kiến thức  trong quá trình tiếp cận tác phẩm và thực sự trở thành một vấn đề được ý thức   là cốt yếu khi đọc hiểu văn bản. Thế nhưng trong thực tế dạy học giáo viên vẫn  chưa chú trọng một cách thỏa đáng. * Câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu văn bản và luyện tập của Sách giáo khoa   Ngữ văn 10 chương trình GDPT 2018. Cả 3 bộ sách SGK Ngữ văn 10 mới đều ó các câu hỏi xây dụng theo định   hướng phát triển phẩm hất, năng lực HS, chú trọng vào đặc trưng thể  laoij của   văn bản. 2.4. Kết quả khảo sát và những tồn tại trong dạy và học: *Về phía giáo viên­ Thực trạng nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng   của vấn đề hình thành, củng cố kiến thức thể loại cho HS qua hoạt động  đọc. 1. Lâu nay, việc dạy học đọc hiểu các văn bản trong chương trình Ngữ  văn 10 thì hầu như  chưa được toàn thể  giáo viên chú trọng, thiếu sự  chuẩn bị  chu đáo. Việc dạy đọc hiểu văn bản ở trường phổ thông hiện nay mới chỉ dừng   lại ở việc chuyển giao những hiểu biết của GV cho HS về một văn bản nào đó.   Với vai trò chuyển giao này, GV là người chủ  yếu có nhiệm vụ  cung cấp,  truyền thụ kiến thức cho HS. Trong quan niệm dạy học chuyển giao, truyền th ụ  kiến thức, việc dạy  học đọc hiểu văn bản  ở  trường phổ  thông hiện nay vẫn  đang sử  dụng phương pháp truyền thụ  một chiều, “Độc tôn vị  trí của người  thầy”. Phương pháp dạy học này đề  cao vai trò của người thầy và chưa chú   trọng đến đối tượng chính của hoạt động dạy học là học sinh. Điều này sẽ  khiến HS mất dần dần đi sự  chủ  động trong việc tiếp thu, lĩnh hội kiến thức.  Chương trình giáo dục hiện hành (chương trình 2006) được xây dựng theo trục  lịch sử và thể loại đã bộc lộ nhiều hạn chế, không còn phù hợp vì thế nhất thiết   phải thay đổi đặc biệt là trong bối cảnh GD mới hiện nay. Đặc biệt chương   trình Ngữ  văn 10 hiện hành chủ  yếu là các văn bản thuộc giai đoạn văn học  Trung đại. Thậm chí có giáo viên khi đến lớp còn dạy sơ  sài, dạy cho xong bài  17
  18. học, đặc biệt là việc dạy học một số  văn bản mà văn bản đó là đại diện duy   nhất/ tiêu biểu cho thể loại văn học Trung đại được đưa vào chương trình sách   giáo khoa như thể loại Hịch, Cáo, Chiếu, Phú....Giáo viên thường xem nhẹ  nên  học sinh không thấy được sức nặng của bài học.                            2.  Ở  nhiều giáo viên từ  khâu soạn bài đến việc vận dụng phương pháp  dạy học, đặc biệt là những văn bản "khó" chưa được đầu tư  nhiều vì giáo án  phần lớn đã copy sẵn trên mạng mà những kiến thức về  bài học lại cần phải   suy nghĩ kết hợp với việc tìm tòi phương pháp truyền tải cho học sinh dễ hiểu.   Một thực tế là ngoài trường chuyên, lớp chọn luôn được đầu tư học kĩ phần văn  học Trung đại nhằm phục vụ cho các kì thi học sinh giỏi tỉnh, thi học sinh giỏi  quốc gia thì  ở  các trường THPT và các lớp thường thì công việc dạy văn học   Trung đại chưa được giáo viên ý thức sâu sắc về ý nghĩa, chưa nhận thức được  tầm quan trọng, vị  trí của nó trong chương trình. Đa phần giáo viên chỉ  đầu tư  thiết kế phần đọc – hiểu văn bản thơ mà sơ sài trong chuẩn bị cho các tiết dạy  thể loại ít văn bản trong chương trình. Điều này khiến nhiều tiết học ở một số  thể loại ít văn bản như Phú, Chiếu, Biểu, ... trở  nên khô khan, nặng nề, không  có hiệu quả  dẫn  đến học sinh học xong thường không hứng thú, không  ấn  tượng nên nhanh chóng quên kiến thức đã học. 3.Về  phương pháp dạy học văn bản Bạch Đằng giang phú, người dạy   chủ  yếu vận dụng phương pháp diễn giảng là chính để  diễn giảng nhằm giúp  học sinh hiểu rõ ý nghĩa của những từ  ngữ  khó, những điển tích, điển cố, bố  cục thể loại...Thực tế đó dẫn đến học sinh khó lĩnh hội kiến thức bài học hoặc   học sinh ngồi đón nhận nhưng không có sự  quan tâm, yêu thích, thiếu hứng thú  nên kết quả học tập không cao. Qua dự giờ­ thăm lớp một số đồng nghiệp cùng  bộ  môn tôi nhận thấy một số  giáo viên đã có sự  đổi mới về  phương pháp dạy   học như bám vào đặc trưng thể loại Phú, cho học sinh thảo luận nhóm,... nhưng  vẫn còn nặng về  cung cấp kiến thức mà ít chú ý đến bồi dưỡng năng lực cho  học sinh và không chú trọng đến việc ứng dụng những kiến thức liên môn vừa  vận dụng phương pháp mới vào dạy học vừa kích thích được sự  tìm tòi, hào  hứng cho việc chuẩn bị  cũng như  tiếp nhận văn bản trong giờ  học được tốt   hơn.  4. Thực tế cho thấy, đa phần giáo viên còn coi nặng việc truyền thụ kiến   thức được hướng dẫn tìm hiểu trong sách giáo khoa. Ít vận dụng kiến thức liên  môn, chủ  đề  tích hợp giáo dục trong quá trình dạy học bởi phải trang bị  thêm  nhiều mặt về  kiến thức liên quan đến môn học mà mình đang dạy. Mặt khác   còn phải chuẩn bị về phương pháp, phương tiện, đồ dùng dạy học phù hợp với  chủ đề tích hợp nên nhiều khi vấn đề tích hợp kiến thức chỉ là hình thức không  thực sự  tâm huyết. Chính điều đó dẫn đến tiết dạy kém hấp dẫn, không phát   huy được năng lực của học sinh. Quá trình dạy học dễ sa vào lối dạy đọc chép,   truyền thụ kiến thức một chiều. 18
  19. *Về phía học sinh­ Thực trạng đọc văn bản của Hs liên quan đến vấn đề  tích lũy kiến thức về thể loại văn bản 1. Khi tiếp cận các văn bản văn học ở sách Ngữ văn 10 trong chương trình   hiện hành, chủ  yếu là văn học dân gian và văn học Trung đại. Đặc biệt là các  văn bản văn học Trung đại với những thể  loại cổ xưa vốn khô khan, khó hiểu  nên nhiều khi quá trình tiếp nhận văn bản của HS còn mơ hồ. Một trong những   khó khăn lớn nhất đó là do thời đại khác nhau nên việc nắm bắt và hiểu được tư  tưởng, tình cảm của tác giả  thời Trung đại so với học sinh hiện nay là không  dễ.  2. Đứng trước yêu cầu của thực tế  dạy học hiện đại lấy học sinh làm  trung tâm, học sinh được tham gia tích cực, chủ động vào các hoạt động học tập   thì phẩm chất và năng lực cá nhân mới được hình thành và phát triển toàn diện.   Tính năng động, sáng tạo là những phẩm chất cần thiết trong cuộc sống hiện   đại cần phải được hình thành ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường. Thế nhưng   trên thực tế quá trình tiếp nhận, tích lũy kiến thức về thể loại của học sinh đối   với những văn bản  trong chương trình Ngữ  văn 10 chưa đáp ứng yêu cầu của  thời đại.  3. Tiếp nhận, hình thành và củng cố kiến thức về thể loại là cả  một quá  trình  ở  các cấp học nhưng với học sinh THPT hiện nay đang quen với lối mòn  cũ, học những kiến thức mà thầy cô truyền thụ sẵn, ít tích cực tích lũy đề  hình   thành kiến thức nền về thể loại để  có thể  chủ  động, tích cực đọc hiểu những  văn bản cùng thể  loại ngoài chương trình. Việc vận dụng kiến thức thể  loại   vào quá trình học tập, kiểm tra, đánh giá, thi cử đã được triển khai trong những  năm học vừa qua nhưng đối với học sinh vẫn còn nhiều hạn chế. Một số  giáo  viên vận dụng chưa linh hoạt nên học sinh còn ghi nhớ  kiến thức thể loại một   cách máy móc, việc nắm được đặc trưng, mối quan hệ, giao thoa giữa các thể  loại văn bản chưa thực sự thấu đáo.  Để  quá trình dạy học đọc hiểu văn bản  Ngữ  văn 10 theo trong chương   trình GDPT 2018 được hiệu quả hơn, trong phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm  này, tôi đã kết hợp hình thành và củng cố  kiến thức thể  loại cho học sinh qua  các giờ đọc hiểu văn bản. Với mong muốn góp một phần nhỏ  vào dạy học bộ  môn Ngữ văn nhằm xóa bớt đi sự nhàm chán, khơi dậy tình yêu văn học của học   sinh hiện nay. Qua tìm hiểu thực tế  đọc­ hiểu văn bản Ngữ  văn 10 từ  góc độ  hình thành và củng cố kiến thức thể loại, tôi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu về  phía học sinh. Cụ  thể, tôi đã phát câu hỏi cho 39 học sinh  ở  lớp 10A1 trường  THPT Yên Thành 3. Từ việc xử lý phiếu điều tra, chúng tôi có kết quả như sau: Nội dung câu hỏi là:  Câu 1.Theo em việc cung cấp kiến thức về thể loại trước khi đọc hiểu văn bản  ở bộ môn Ngữ văn 10 có cần thiết hay không? + 35/39 học sinh (chiếm ) trả lời: Có. 19
  20. + 4/39 học sinh (chiếm   %) trả lời: Không. Câu 2.Theo em, việc tìm hiểu đặc điểm thể loại/ hình thành kiến thức thể loại/  trong quá trình đọc hiểu văn bản ở bộ môn Ngữ văn 10 có cần thiết hay không? + 20/39 học sinh (chiếm 51,2%) trả lời: Có. + 19/39 học sinh (chiếm 48,8%) trả lời: Không. Câu 3. Em có thích được giáo viên củng cố  tri thức về  phương pháp đọc hiểu  văn bản ở cuối mỗi bài đọc hiểu văn bản không? + 33/39 học sinh (chiếm 84,6%) trả lời: Có. + 6/39 học sinh (chiếm 15,4%) trả lời: Không. Câu 4. Theo em, sau khi đọc văn bản có cần thiết vận dụng kiến thức thể loại  đã học để  vận dụng đọc hiểu văn bản cùng thể  loại khác  ở  trong cũng như  ngoài SGK  không? + 34/39 học sinh (chiếm 87,1%) trả lời: Có. + 5/39 học sinh (chiếm 12,9 %) trả lời: Không. Như vậy, đa số học sinh hiểu sự cần thiết của việc cung cấp, hình thành,   tích lũy và củng cố kiến thức thể loại khi đọc hiểu văn bản trong các tiết đọc   hiểu văn bản trong SGK Ngữ văn 10. Tuy nhiên, do dung lượng tiết học hạn chế  nên các em chưa được cung cấp kiến thức và kĩ năng cần thiết để chủ động tìm  hiểu vấn đề. Giáo viên phải dặn dò để  học sinh tìm hiểu trước kiến thức về  thể loại trược khi vào bài học. * Về kiểm tra, đánh giá.   Việc dạy học và kiểm tra đánh giá là hai quá trình có quan hệ  mật thiết   với nhau, thế nhưng hầu hết là ở các bài viết (kiểm tra) trong chương trình Ngữ  văn 10 hiện hành và các đề thi học kì ít khi kiểm tra, đánh giá về kiến thức thể  loại, đặc trưng của thể  loại. Những câu hỏi  ở  phần Đọc hiểu trong các đề  thi  trước đây thường chỉ  hỏi đơn giản về  Thể  Thơ, hỏi về  hình  ảnh, từ  ngữ  đặc   sắc trong văn bản/đoạn trích. Trong những năm gần đây Bộ đã yêu cầu đổi mới  kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực HS nên  ở  các bài kiểm tra, các đề  thi đã có những chuyển mình ít văn bản như  đã nói  ở  trên mà thường tập trung vào các văn bản thơ  và truyện Trung đại vốn nhiều  văn bản hơn và được xem là "dễ học" hơn. Thi tốt nghiệp, đại học từ trước tới   nay chú chú trọng phần văn học Việt Nam hiện đại vì thế nên kiến thức về văn  học Trung đại ở học sinh THPT cuối cấp gần như đã lãng quên. Chỉ ở những kỳ  thi học sinh giỏi cấp Tỉnh và học sinh giỏi quốc gia thì văn học Trung đại mới  được đề  cập đến và những văn bản "khó" mới được nâng lên thành những  chuyên đề có đầu tư về chiều sâu, nhưng cũng chỉ là ở những lớp chọn hay một   số học sinh trong đội tuyển học sinh giỏi mà thôi. Vậy nên, các văn bản ít kiểm   tra, đánh giá thì ít chú trọng, không thi thì không học kỹ. Phần lớn học sinh mang   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2