Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hình thành và củng cố tri thức thể loại trong dạy học đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10 Trung học phổ thông theo chương trình 2018
lượt xem 11
download
Sáng kiến kinh nghiệm hướng đến việc góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động đọc văn bản trong dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực của HS.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hình thành và củng cố tri thức thể loại trong dạy học đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10 Trung học phổ thông theo chương trình 2018
- PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Giáo dục nước ta hiện nay đã và đang không ngừng đổi mới về chương trình, phương pháp, về tư duy trong dạy và học để thích nghi với thế giới đang rất nhiều biến động. Dạy và học môn Ngữ văn cũng nằm trong xu thế đổi mới ấy. Các nhà nghiên cứu, các nhà giáo dục, những người yêu văn chương luôn đặt ra câu hỏi phải làm thế nào để đưa môn Ngữ văn trở về với vị trí xứng đáng của nó? Giáo sư Phan Trọng Luận luôn trăn trở: "Vấn đề thứ nhất là chương trình một môn học thay đổi như thế nào chứ không phải là có nên thay đổi hay không?". Như mọi người đều biết, chương trình dạy học văn đã thay đổi từ ba phân môn được xây dựng tách rời, độc lập đến chương trình Ngữ văn mới được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp. Tích hợp ở đây được hiểu là sự gắn kết, phối hợp các lĩnh vực tri thức gần nhau của các phân môn Đọcvăn, Tiếng Việt, Làm văn nhằm hình thành và rèn luyện tốt các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe cho học sinh. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 thực hiện ở cả 3 cấp học được xây dựng theo hình thức cuốn chiếu và năm học tới 20222023 sẽ thực hiện cho học sinh lớp 10 THPT. Theo tinh thần của chương trình GDPT 2018 được xây dựng theo trục Đọc Viết Nói và Nghe nhằm hình thành cho các em năng lực ngôn ngữ ở tất cả các hình thức: đọc, viết, nói và nghe, trong đó bao gồm cả năng lực tìm kiếm và xử lí thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để viết và nói; giúp HS sử dụng tiếng Việt chính xác, mạch lạc, có hiệu quả và sáng tạo với những mục đích khác nhau trong nhiều ngữ cảnh đa dạng. Số tiết dạy đọc hiểu văn bản ở cả chương trình hiện hành và chương trình GDPT 2018 thực hiện ở năm học tới chiếm tỉ lệ lớn vì thế khi dạy đọc hiểu văn bản cho học sinh ở trường THPT giáo viên phải vận dụng một cách tổng hợp các tri thức và kĩ năng không chỉ của Ngữ Văn mà còn huy động các kiến thức và kĩ năng của các môn học khác nhằm đáp ứng yêu cầu về sự tăng lên của khối lượng tri thức ngày càng cao của cuộc sống hiện đại. Trọng tâm vẫn là thông qua những văn bản văn học đặc sắc, giúp HS phát triển năng lực thẩm mỹ, nhạy cảm và tinh tế với các sắc thái của tiếng Việt, giúp HS biết đọc và có hứng thú đọc các tác phẩm văn học, biết viết, thảo luận và có hứng thú viết, thảo luận về các văn bản cùng thể loại nhờ đó các em có cơ hội khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, có cá tính và đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn. Giúp HS phát triển năng lực tư duy, đặc biệt là tư duy suy luận, phản biện, biết đánh giá tính hợp lí và ý nghĩa của những thông tin và ý tưởng được tiếp nhận; giúp HS phát triển năng lực tưởng tượng và sáng tạo, sự tự tin, năng lực tự lập, năng lực hợp tác và tinh thần cộng đồng. 1
- Giúp HS hình thành và phát triển phương pháp học tập, nhất là phương pháp tự học để có thể tự học suốt đời và biết ứng dụng những kiến thức và kĩ năng học được vào cuộc sống. Nhờ được trang bị kiến thức, kĩ năng và có kinh nghiệm đọc nhiều kiểu văn bản (VB) khác nhau trong nhà trường, khi trưởng thành, HS có thể tự đọc sách để không ngừng nâng cao vốn tri thức và văn hóa cần thiết cho cuộc sống và công việc. Trang bị cho HS những kiến thức phổ thông, cơ bản và hiện đại về tiếng Việt và văn học, góp phần phát triển vốn tri thức căn bản của một người có văn hóa. Giúp HS có được hiểu biết về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn học với đời sống xã hội. Bồi dưỡng cho HS có thái độ tích cực và tình yêu đối với tiếng Việt và văn học, qua đó biết trân trọng, giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa Việt Nam, có thói quen và niềm vui đọc sách, có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, có khả năng hội nhập quốc tế, trở thành những công dân toàn cầu, nhưng luôn có ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Ngoài ra chương trình Ngữ văn ở bậc trung học phổ thông, môn Ngữ văn còn có thêm mục tiêu trang bị kiến thức và kĩ năng theo định hướng nghề nghiệp của HS. Chẳng hạn, những HS có xu hướng học đại học những ngành nghề có liên quan trực tiếp đến Ngữ văn thì được học sâu hơn dưới hình thức các chuyên đề tự chọn. Chương trình Ngữ văn 2018 được xây dựng theo trục Đọc Viếtnói Và Nghe nhưng Đọc hiểu văn bản là nội dung dạy học then chốt của môn Ngữ văn. Thứ nhất, giáo viên cần xác định rõ vị trí của dạy học đọc hiểu văn bản nhìn từ cấu trúc chương trình: Đọc hiểu văn bản là nội dung dạy học quan trọng bậc nhất, khi chương trình đã xác định rõ hai trục chính của dạy học Ngữ văn là đọc văn và làm văn. Thời gian dành cho dạy học đọc hiểu văn bản chiếm phần lớn thời gian dạy học toàn môn học. Phần cung cấp dữ liệu phục vụ trực tiếp cho dạy học đọc hiểu văn bản chiếm phần lớn số trang của sách giáo khoa Ngữ văn cả trong chương trình hiện hành và SGK chương trình giáo dục phổ thông 2018 . Thứ hai, giáo viên dạy Ngữ văn cũng cần xác định thêm vị trí của dạy học đọc hiểu văn bản nhìn từ mục tiêu của môn Ngữ văn. Dạy học đọc hiểu văn bản đảm bảo phần lớn mục tiêu bồi dưỡng “tri thức ngữ văn” cho học sinh (tri thức ngữ văn là một thuật ngữ mang tính quy ước, dùng để chỉ các loại tri thức mà môn Ngữ văn có nhiệm vụ đưa đến/bồi dưỡng/ củng cố cho học sinh hoặc giúp học sinh tự kiến tạo cho mình trong quá trình học). Thứ ba, vị trí của dạy học đọc hiểu văn bản nhìn từ hoạt động kiểm tra, đánh giá. 2
- Nội dung kiến thức của dạy học đọc hiểu cũng là nội dung chính của kiểm tra, đánh giá (không chỉ đối với học sinh mà còn đối với cả giáo viên). Phương pháp dạy học đọc hiểu là thước đo chính để đánh giá việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên Ngữ văn. Năng lực dạy học đọc hiểu là tham số quan trọng nhất để đánh giá năng lực dạy học của giáo viên Ngữ văn (trong những kỳ thi giáo viên giỏi, giáo viên gần như bắt buộc phải dạy một “bài” đọc hiểu văn bản, ngoài những “bài” khác, hoặc làm văn, hoặc tiếng Việt). Trong chương trình SGK Ngữ văn 2018 đã rất chú ý vấn đề dạy đọc. Đọc là một trong bốn kĩ năng chính cần xác lập cho người học trong chương trình giáo dục phổ thông mới. Như vậy mục tiêu cốt lõi của hoạt động đọc là giúp học sinh nắm được cách đọc, rèn được cách đọc, từ đó có năng lực đọc, chiếm lĩnh cách đọc, có được những tri thức cần thiết về cách đọc để khi học sinh tiếp nhận với bất kì văn bản nào cùng loại thì vẫn đọc hiểu được. Nhằm giúp học sinh ở cấp THPT được trang bị thật kĩ lưỡng những kĩ năng quan trọng, cần thiết, các em cần được giáo dục để trở thành những thanh niên mạnh dạn, tự tin, chủ động và sáng tạo trong giao tiếp và công việc, có khả năng giải quyết vấn đề một cách độc lập trong nhiều tình huống. Chúng ta còn nhớ cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng phát biểu quan điểm chỉ đạo việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường phổ thông: "Ngày nay, sự hiểu biết của con người luôn luôn đổi mới. Cho nên dù học được trong nhà trường bao nhiêu chăng nữa cũng chỉ là rất hạn chế. Thế thì cái gì là quan trọng? Cái quan trọng là rèn luyện bộ óc, rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập, phải tìm tòi phương pháp vận dụng kiến thức, phải vận dụng tốt nhất bộ óc của mình...". Như vậy dạy học văn là một quá trình rèn luyện toàn diện cho nên giáo viên phải không ngừng trăn trở đổi mới về phương pháp dạy học bộ môn nói chung, phương pháp dạy đọc hiểu văn bản nói riêng. Việc hình thành và củng cố kiến thức thể loại vào dạy học đọc hiểu văn bản cũng đồng thời đáp ứng được yêu cầu trên. Theo định hướng của Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018, việc hình thành kiến thức ngôn ngữ và văn học cho học sinh (HS) phải được tích hợp với các hoạt động đọc, viết, nói và nghe. Từ định hướng đó, sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn sẽ được thiết kế theo mô hình tổ chức hoạt động thay cho mô hình cung cấp kiến thức. Làm thế nào để qua các hoạt động, HS có thể có được một nền tảng kiến thức vững vàng, đó là một vấn đề hiện nay cần được đặc biệt chú ý nghiên cứu. Muốn thực hành đọc tốt văn bản (VB), người đọc phải có được những kiến thức cơ bản về loại, thể loại. Nhưng hiện nay, trong khi Chương trình và SGK không bố trí những tiết học riêng (mang tính lí thuyết) về loại, thể loại VB, giáo viên (GV) cần phải làm gì để cuộc tiếp xúc của HS với VB được diễn ra thuận lợi? Rõ ràng đây là một câu hỏi khó cần được tìm hiểu, giải đáp. 3
- Kiến thức về thể loại VB vốn rất phong phú, nhưng trong nhà trường phổ thông, phạm vi kiến thức đó cần được xác định theo nguyên tắc nào và và việc xây dựng quy trình tiếp nhận kiến thức đó phải đảm bảo điều kiện gì? Với một GV Ngữ văn, điều này gây không ít băn khoăn. Xuất phát từ những câu hỏi khoa học nêu trên đồng thời đáp ứng yêu cầu của dạy học hiện đại và góp một chút nhỏ tăng thêm tình yêu đối với môn Ngữ văn là động lực giúp tôi lựa chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Hình thành và củng cố tri thức thể loại trong dạy học đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10 Trung học phổ thông theo chương trình 2018”. Trong khuôn khổ của sáng kiến kinh nghiệm này, tôi xin định hướng một số biện pháp hình thành, củng cố kiến thức về thể loại vào dạy học đọc hiểu Văn bản Ngữ văn 10 THPT theo định hướng chương trình mới 2018. 2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu 2.1.Mục đích nghiên cứu Sáng kiến kinh nghiệm hướng đến việc góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động đọc văn bản trong dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực của HS. 2.2. Đối tượng nghiên cứu Như tên đề tài đã xác định rõ, đối tượng nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là vấn đề hình thành và củng cố kiến thức về thể loại cho HS lớp 10 qua hoạt động đọc VB theo Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018. 3. Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Phạm vi nghiên cứu Hiện nay, SGK theo Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018 đang được biên soạn theo hình thức cuốn chiếu. Trong năm học tới 20212022, SGK Ngữ văn 10 sẽ chính thức được dạy học trong nhà trường trung học phổ thông (THPT). Chúng tôi may mắn có được điều kiện thuận lợi là nghiên cứu trước chương trình SGK Ngữ Văn 10 trên bản mềm theo chương trình giáo dục phổ thông 2018. Để tạo thuận lợi cho việc khai thác tài liệu và triển khai hoạt động dạy học trong năm học tới 20222023, sáng kiến kinh nghiệm của chúng tôi chỉ tập trung bàn về vấn đề hình thành và củng cố kiến thức về thể loại cho HS lớp 10. Nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chung. Nghiên cứu dựa trên thực tiễn giảng dạy và quá trình giảng dạy tại trường THPT Yên Thành 3 và các trường THPT trên địa bàn huyện Yên Thành. 4
- Phạm vi nghiên cứu và triển khai thực hiện: Để thực hiện được đề tài này, tôi dựa vào SGK Ngữ văn lớp 10 (Ban cơ bản) chương trình hiện hành và SGK Ngữ văn 10 chương trình GDPT mới 2018. Đối tượng nghiên cứu: Là học sinh lớp lớp 10 trường THPT Yên Thành 3 và HS lớp 10 các trường THPT trên địa bàn huyện Yên Thành. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu – Khái quát tình hình nghiên cứu vấn đề hình thành và củng cố kiến thức về thể loại cho HS qua hoạt hoạt động đọc VB. – Thuyết minh về các khái niệm cơ sở của đề tài. – Xây dựng hệ thống nguyên tắc và biện pháp hình thành, củng cố kiến thức thể loại cho HS lớp 10 qua hoạt động đọc VB. – Tiến hành thực nghiệm để xác nhận tính hiệu quả của những biện pháp dạy học đã đề xuất. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, chúng tôi phối hợp sử dụng nhiều phương pháp thuộc hai nhóm: nghiên cứu lý thuyết (tài liệu) và nghiên cứu thực tiễn. Cụ thể, các phương pháp chính được sử dụng là: Phân tích và tổng hợp lý thuyết (tài liệu); Phương pháp quan sát; Phương pháp điều tra; Phương pháp chuyên gia; Phương phápThực nghiệm. 5. Đóng góp của đề tài sáng kiến kinh nghiệm Sáng kiến kinh nghiệm đã nêu được một hệ thống biện pháp mang tính khả thi nhằm xác lập cho HS một nền tảng kiến thức cơ bản về thể loại, giúp cho việc tổ chức hoạt động đọc văn bản đạt được kết quả tích cực, đảm bảo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất của người học. 6. Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm Phần I. Đặt vấn đề 1. Lý do chọn đề tài 2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu 3. Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm Phần II. Nội dung nghiên cứu Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài . 5
- 1.1.Cơ sở lý luận của đề tài 1.2.Cơ sở thực tiễn của đề tài Chương 2. Một số nguyên tắc và biện pháp hình thành, củng cố kiến thức về thể loại cho học sinh lớp 10 qua hoạt động đọc văn bản. 2.1. Nguyên tắc hình thành, củng cố kiến thức về thể loại cho học sinh lớp 10 qua hoạt động đọc văn bản. 2.2. Các biện pháp hình thành, củng cố kiến thức về thể loại cho học sinh lớp 10 qua hoạt động đọc văn bản. Chương 3. Thiết kế giáo án thực nghiệm. Phần III. Kết luận và kiến nghị 6
- Phần II. NỘI DUNG 1. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Cơ sở lý luận: 1.1.1.Thế nào là dạy học Đọc hiểu văn bản? Thuật ngữ đọc hiểu văn bản được dùng phổ biến từ khi bộ sách giáo khoa Ngữ văn tích hợp ra đời (cuốn đầu tiên là Ngữ văn 6, xuất bản năm 2002 và Ngữ văn 10, xuất bản năm 2006). Ở phạm vi hẹp hơn, thuật ngữ này đã được dùng chính thức trong chương trình Ngữ văn tổng thể, biên soạn năm 2000. Thuật ngữ đọc hiểu được dùng song song với thuật ngữ đọc văn, tuy nhiên vẫn có sự phân biệt. Để gọi tên một loại giờ mà đối tượng khám phá chiếm lĩnh của thầy và trò là văn bản văn học, người ta có thể dùng thay thế lẫn nhau hai thuật ngữ đọc hiểu văn bản và đọc văn. Nhưng thuật ngữ đọc văn khá quen dùng chưa cho thấy rõ tính hướng đích của giờ học (hay hoạt động) khám phá văn bản văn học. Đọc ở đây không bó hẹp trong đọc diễn cảm mà phải gắn liền với sự hiểu hiểu theo nghĩa toàn diện. Rõ ràng, trong hệ thống thuật ngữ của môn Ngữ văn, đọc hiểu không đơn giản chỉ là nắm bắt một cách đại cương về văn bản. Với tên gọi đọc hiểu, giờ giảng văn hay phân tích tác phẩm văn học hay dạy học tác phẩm văn chương trước đây đã mang một tính chất khác. Thuật ngữ mới trong trường hợp này cần được nhìn nhận ở chiều sâu quan niệm, gắn với nỗ lực đổi mới một loại hình hoạt động có lịch sử lâu đời nhưng cách tổ chức, vận hành nó đã tỏ ra lỗi thời khi mục tiêu dạy học văn nói riêng, dạy học nói chung đã đổi khác. Trong Chương trình Ngữ văn THPT do GS. Trần Đình Sử làm trưởng tiểu ban biên soạn, 2002, khái niệm – thuật ngữ đọc hiểu được thuyết minh như sau: “Đó là một quá trình bao gồm việc tiếp xúc với văn bản, thông hiểu cả nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa hàm ẩn cũng như thấy được vai trò, tác dụng của các hình thức, biện pháp nghệ thuật ngôn từ, các thông điệp tư tưởng, tình cảm, thái độ của người viết và cả các giá trị tự thân của hình tượng nghệ thuật. Đọc hiểu là hoạt động duy nhất để học sinh tiếp xúc trực tiếp với các giá trị văn học. Đọc hiểu bắt đầu từ đọc chữ, đọc câu, hiểu nghĩa của từ và sắc thái biểu cảm, hiểu nghĩa của hình thức câu, hiểu mạch văn, bố cục và nắm được ý chính, cũng như chủ đề của tác phẩm. Lý giải những đặc sắc về nghệ thuật và ý nghĩa xã hội nhân văn của tác phẩm trong ngữ cảnh của nó. Trong quá trình học đọc, HS sẽ biết cách đọc để tích lũy kiến thức, đọc để lý giải, đọc để đánh giá và đọc sáng tạo, phát hiện. HS sẽ học cách trích câu hay, trích chi tiết, trích ý, học cách thuyết minh, thuật lại nội dung văn bản đã học”. Khi mới xuất hiện, trong thuật ngữ đọc hiểu có dấu nối giữa đọc và hiểu (đọc hiểu). Dấu nối đó có thể được xem như một tín hiệu gây chú ý, buộc người tiếp nhận/sử dụng phải có tư duy mới về thuật ngữ. Nhưng giờ đây khi 7
- thuật ngữ đã được dùng phổ biến và đã được hiểu một cách toàn diện, việc đặt dấu nối này không còn cần thiết nữa. 1.1.2 “Đọc” trong dạy học đọc hiểu Đọc là một năng lực thiết yếu của người học sinh, là một kỹ năng sống cần được rèn luyện không ngừng. Theo Chương trình đánh giá học sinh quốc tế PISA (The Programme for International Student Assessment) của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế thế giới OECD (Organization for Economic Cooperation and Development), trình độ đọc hiểu là một trong ba lĩnh vực chủ yếu để xác định năng lực học sinh ở giai đoạn cuối của giáo dục bắt buộc (hai lĩnh vực khác là toán học và khoa học). Đọc hiểu chứa đựng những đòi hỏi nhiều mặt. OECD đưa ra định nghĩa như sau về trình độ đọc hiểu (reading literacy): “Đọc hiểu là sự hiểu biết, sử dụng và phản hồi lại trước một văn bản viết, nhằm đạt được mục đích, phát triển tri thức và tiềm năng cũng như việc tham gia hoạt động của một ai đó trong xã hội1”. Trong định nghĩa này, biết đọc bao hàm sự biết giải mã (decoding) và sự thấu hiểu (comprehension) tư liệu, mà sự thấu hiểu thì gồm có hiểu (understanding), sử dụng (using) và phản hồi (reflecting) về những thông tin với nhiều mục. Theo quan niệm của GS Đỗ Ngọc Thống, “Đọc hiểu không chỉ là một yêu cầu của suốt thời kỳ học tập trong nhà trường phổ thông, mà nó còn trở thành một nhân tố quan trọng trong việc xây dựng, mở rộng những kiến thức, kỹ năng, chiến lược của mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời khi họ tham gia vào các hoạt động ở những tình huống khác nhau, trong mối quan hệ với người xung quanh, cũng như trong cả cộng đồng rộng lớn” (Theo Đỗ Ngọc Thống, Chương trình Ngữ văn trong nhà trường phổ thông Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam, tr. 357) 1.1.3 “Hiểu” trong dạy học đọc hiểu văn bản * “Hiểu” trong quan niệm thông thường: Hiểu là sự nhận bi ết một tri th ức. Hi ểu nghĩa là nắm đượ c các tri thức về đối tượ ng và biết cách vận dụng chúng để chiếm lĩnh đố i tượ ng, chiếm lĩnh thực t ại khách quan. Hiểu văn bản có nhiều mức: hiểu nghĩa đen của từ, câu, sự kiện được kể; hiểu nghĩa hàm ẩn của các yếu tố cấu thành văn bản; nắm bắt được chủ đề, thông điệp của tác phẩm; có xúc cảm và hành động tương ứng với những gì được gợi lên từ văn bản. * Quan niệm về “hiểu” trong dạy học đọc hiểu văn bản hiện nay Hiểu không đối lập với cảm mà ngược lại, trong hiểu có cảm – một thứ cảm có chiều sâu, có căn cứ nhưng không hề loại bỏ trực giác. Nói cách khác, nhấn mạnh vấn đề hiểu cũng chính là một hình thức thể hiện sự đòi hỏi rất cao 1 8
- đối với cảm, cụ thể ở đây là cảm thụ nghệ thuật. Về điều này, các nhà nghiên cứu từ lâu đã nói tới. Trong Giảng văn Chinh phụ ngâm, Đặng Thai Mai có viết: “... cảm tình nếu được cả một lực lượng của sự hiểu, của ngộ tính (entendment) làm hậu thuẫn, bao giờ cũng sẽ khỏe khoắn hơn, dồi dào hơn (...). Cảm thấy hay, chưa đủ. Có hiểu là hay, sự thưởng thức mới có nghĩa lý, tác dụng” ( Theo Đặng Thai Mai tác phẩm, tập 1, nhà xuất bản văn học, 1978, tr 363364). Như vậy “Hiểu” không đơn giản là sự nắm bắt (tiếp thu, ghi nhớ) một nguồn tri thức nào đó mang hình thức cố định, xác định được đưa đến từ bên ngoài. Từ quan niệm này, cần thấy được: Giữa sự hiểu của thầy và sự hiểu của trò không có sự đồng nhất. Học sinh là người chủ động tìm biết và kiến tạo tri thức dưới sự gợi ý, chỉ dẫn của thầy (thầy không thể làm cho hiểu nếu trò không có được sự tích cực trong hoạt động học tập, nhận thức, không tự khơi dậy nhu cầu hiểu của mình). Hiểu là một quá trình, gắn liền với việc tái cấu trúc toàn bộ năng lực của người học. Một giờ học thành công là giờ học đưa đến được sự kích thích cho hoạt động hiểu của học sinh. Quá trình đó có thể diễn ra trong suốt cuộc đời, không hề ngừng lại khi giờ học kết thúc. Để đánh giá sự hiểu của học sinh, không thể vội vàng, cũng không thể chỉ dựa vào điểm số của các thi bài hay kiểm tra, dù chúng có ý nghĩa quan trọng. Biểu hiện của hiểu có thiên hình vạn trạng, không thể lấy một hình thức duy nhất làm thước đo. Ở Việt Nam, trong khoảng 20 năm trở lại đây, đọc hiểu đã trở thành một khái niệm xuất hiện khá phổ biến trong sách giáo khoa Ngữ văn và các công trình nghiên cứu về phương pháp dạy học văn. Giờ giảng văn trong nhà trường giờ đã thay thế bằng giờ đọc hiểu văn bản. Điều đáng nói ở đây là không chỉ thay đổi về cách gọi tên mà còn cả bản chất của vấn đề. 1.2. Dạy học bám sát kiến thức thể loại Bộ môn Ngữ văn là một môn học công cụ mang tính nhân văn sâu sắc. Môn Ngữ Văn ở trường THPT nhằm phát triển phẩm chất, năng lực HS: như năng lực tư duy sáng tạo, năng lực hợp tác giao tiếp, năng lực giải quyết vấn đề... Năng lực đặc thù là năng lực sử dụng ngôn ngữ và năng lực văn chương ( cảm thụ thẩm mĩ). Thông qua những văn bản văn học đặc sắc, qua các hình tượng nghệ thuật, qua ngôn ngữ nghệ thuật, cảm xúc, tư tưởng, quan điểm của nhà văn,… giúp HS phát triển năng lực thẩm mĩ, cảm nhận được cái hay cái đẹp từ trong mỗi tác phẩm nghệ thuật được nhà văn sáng tạo. Từ đó HS sẽ có hứng thú học tập, thảo luận trong hoạt động học tập và có cơ hội khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu về đời sống tâm hồn phong phú của người dân Việt Nam, có thái độ sống tích cực với xã hội, với cộng đồng, có quan niệm 9
- sống và ứng dụng vào thực tiễn một cách nhân văn. Môn Ngữ văn giúp HS hình thành tình cảm và nhân cách biết hướng tới Chân Thiện Mỹ. Để phát triển phẩm chất, năng lực cho HS qua dạy học đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn phải bám sát đặc trưng thể loại không biến Ngữ Văn thành một giờ dạy học Giáo dục công dân, giáo dục đạo đức đơn thuần. Vì vậy, dạy học đọc hiểu văn bản trong chương trình Ngữ Văn 10 theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực HS cần phải bám sát đặc trưng thể loại của từng văn bản. Qua hình ảnh, ngôn ngữ hình tượng, cảm xúc, cấu tứ… để liên hệ, đối chiếu giáo dục phát triển phẩm chất, năng lực HS. Không biến dạy học trong môn Ngữ Văn thành một hoạt động mang tính xã hội, cổ động, tuyên truyền một cách cứng nhắc, thô thiển. Phải qua những tri thức về ngôn ngữ, hình ảnh, cảm xúc, cấu tứ,…của tác phẩm để lồng ghép, tích hợp, thực hiện mục tiêu phát triển phẩm chất, năng lực HS. Không thể gò ép, chính trị hóa, đạo đức hóa các hình ảnh, cấu tứ, nghệ thuật, ngôn ngữ, không những bóp chết tác phẩm mà còn không đạt được chất lượng, hiệu quả trong việc phát triển phẩm chất, năng lực HS. 1.3 Dạy học đọc hiểu văn bản để hình thành và củng cố kiến thức về thể loại Như đã nói, có rất nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến vấn đề này, người viết đặc biệt quan tâm đến nghiên cứu của một số tác giả sau: Tác giả Nguyễn Thanh Hùng với bài viết: “Đọc hiểu văn chương” (tạp chí Giáo dục số 29, 7/2004) và bài: “Những khái niệm then chốt của vấn đề đọc hiểu văn chương” (Tạp chí Giáo dục số 100, 11/2004) đã chỉ rõ: “Đọc hiểu là một khái niệm khoa học chỉ mức độ cao nhất của hoạt động đọc, đọc hiểu đồng thời cũng chỉ năng lực văn học của người đọc” đồng thời ông cũng đã nêu ra một số nội dung cần hiểu sau khi đọc văn bản. Tác giả Trần Đình Sử qua bài viết: “Đọc hiểu văn bản – một khâu đột phá trong nội dung và phương pháp dạy văn hiện nay” đã nhấn mạnh: “Đề xuất vấn đề đọc hiểu văn bản như một khâu đổi mới trong dạy học Ngữ văn …. Là một yêu cầu bức thiết đối với việc đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước tiến theo các nước tiên tiến và góp phần khắc phục lối học cũ: thầy trò đọc chép rồi thi theo trí nhớ của học sinh về các bài đã học thuộc góp phần khắc phục tệ nạn sao chép trong các kì thi”. Nguyễn Trọng Hoàn đã đề cập trong bài “Dạy đọc hiểu văn bản ngôn ngữ ở trung học cơ sở”: “Đọc hiểu văn bản không chỉ nhằm để tiếp nhận giá trị của riêng một bài văn cụ thể mà còn tạo ra được nền tảng kiến thức để học sinh có thể vận dụng và phát triển chúng trong phân môn tiếng Việt và Tập làm văn… Đọc hiểu văn bản là hoạt động có tính chất đầu mối của một quy trình dạy học tích hợp Ngữ văn hướng tới sự phát triển đồng bộ”. Từ việc đọc và nghiên cứu các bài viết, giáo viên Ngữ văn có thể vận dụng vào dạy học đọc hiểu văn bản ở trường phổ thông. Ví dụ khi dạy đọc hiểu truyện thường được các nhà nghiên cứu quan tâm dựa trên đặc trưng về 10
- thể loại, điển hình là tác giả Nguyễn Thanh Bình trong tài liệu Dạy học đọc hiểu tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại trong nhà trường THPT đã nhấn mạnh: “Đọc hiểu là một nội dung khoa học mới, có ý nghĩa và giá trị phương pháp được chính thức đưa vào chương trình sách giáo khoa Ngữ văn cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông, giáo viên và các quản lí giáo dục cần nắm vững.” Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã đề xuất việc dạy học đọc hiểu tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại để phát huy năng lực cho học sinh và theo từng thể loại học sinh sẽ nắm rõ được các đặc trưng của từng thể loại tác phẩm văn học đó. 2. Cơ sở thực tiễn: Để phục vụ cho sáng kiến kinh nghiệm này được tốt hơn, tôi đã tiến hành khảo sát cụ thể về chương trình học theo sách giáo khoa: Thời lượng chương trình dành cho bài học, câu hỏi hướng dẫn chuẩn bị bài trong sách giáo khoa ngữ văn 10 chương trình hiện hành(2006) và Sách giáo khoa Ngữ văn 10 chương trình GDPT 2018 và hai đối tượng trung tâm của quá trình dạy học là giáo viên và học sinh. 2.1. Chương trình học theo sách giáo khoa. 2.1.1 Chương trình hiện hành 2006 Chương trình môn Ngữ văn THPT, đã được xây dựng theo quan điểm tích hợp dựa trên trục đồng tâm do Bộ GD&ĐT chỉ đạo: “Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy.” “Nguyên tắc tích hợp phải được quán triệt trong toàn bộ môn học, từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học; quán triệt trong mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong chương trình; tích hợp trong SGK; tích hợp trong phương pháp dạy học của GV và tích hợp trong hoạt động học tập của HS; tích hợp trong các sách đọc thêm, tham khảo.” Thực tế cho thấy chương trình Ngữ văn có sự tích hợp khá linh hoạt giữa ba phân môn Đọc vănTiếng Việt Làm văn mà chúng ta vẫn quen gọi là tích hợp dọc hay tích hợp nội môn. Hơn nữa chương trình được xây dựng theo trục lịch sử và thể loại, mỗi thể loại có 23 văn bản được đưa vào SGK. Trong SGK hiện hành, tri thức thể loại được học tách riêng, trong quá trình đọc hiểu văn bản Gv có hướng dẫn đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại không còn tùy thuộc vào mức độ chuẩn bị bài của người dạy, thường kiến thức về thể loại Gv rút ra ở cuối mỗi bài học với những câu lệnh quen thuộc: Qua đọc hiểu văn bản ở trên, em hãy rút ra cách đọc hiểu một văn bản truyện/ thơ/ kí/ kịch..... Mục tiêu chương trình hiện hành 2006 coi trọng kiến thức cần cung cấp cho học sinh, vì vậy, chương trình hiện hành xem văn bản là “đối tượng” để khai thác, chiếm lĩnh kiến thức, giáo viên là người truyền thụhọc sinh là người tiếp thu thụ động những tri thức về ngôn ngữ và văn học đóng khung trong một 11
- văn bản cụ thể. 2.1.2. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 Chương trình giáo dục phổ thông 2018 xác định mục tiêu dạy học là hình thành và phát triển cho học sinh phẩm chất và năng lực, vì thế chương trình SGK Ngữ văn 2018 xem văn bản là “công cụ” để hình thành và phát triển năng lực cho học sinh. Để hình thành và củng cố kiến thức về thể loại cho HS qua các tiết dạy đọc hiểu văn bản, GV trước tiên phải nắm vững, bám sát mục tiêu và yêu cầu cần đạt trong dạy học bộ môn. Điều này có vai trò quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học văn bản nói riêng. Mục tiêu là thành tố đầu tiên trong kế hoạch dạy học, có vai trò định hướng việc hình thành phẩm chất, năng lực người học từ đó chọn nội dung, phương pháp, hình thức dạy học cũng như phương pháp kiểm tra, đánh giá phù hợp. Khi xác định được mục tiêu và yêu cầu cần đạt, người giáo viên sẽ nghiên cứu, lựa chọn và sắp xếp nội dung dạy học cũng như tìm phương pháp hiệu quả nhất, tối ưu nhất để đạt được mục tiêu đó. Đồng thời, cũng căn cứ vào mục tiêu và yêu cầu cần đạt đặt ra, người giáo viên sẽ đánh giá chính xác sự tiến bộ của người học qua sự đối chiếu với mục tiêu. Vai trò của mục tiêu và yêu cầu cần đạt còn đặc biệt quan trọng đối với người học. Học sinh cần và phải nắm rõ mục tiêu để từ đó tự tổ chức quá trình học tập của bản thân theo một định hướng rõ ràng, biết lựa chọn cách học, cách đọc văn bản sao cho phù hợp, hiệu quả, biết tự đánh giá mức độ tiến bộ của bản thân, có thể vận dụng vào quá trình tự học, tự đánh giá khi đọc hiểu một văn bản cùng thể loại ngoài chương trình SGK. Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập nhằm khơi dậy khả năng tìm kiếm, giải quyết vấn đề của người học, giúp người học không chỉ chiếm lĩnh tri thức văn bản được học mà còn có năng lực vận dụng những kiến thức ấy để giải quyết các tình huống thực tiễn. Do đó, việc thay đổi mục tiêu dạy học văn bản (từ mục tiêu dạy học tiếp cận nội dung sang mục tiêu tiếp cận năng lực) sẽ dẫn đến việc thay đổi các thành tố khác của kế hoạch dạy học như: nội dung, phương pháp, kiểm tra đánh giá… Cụ thể: về nội dung, với mục tiêu hình thành và phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh,văn bản sẽ được khai thác theo trục đọcviếtnóinghe; về phương pháp, để đảm bảo mục tiêu phát triển năng lực, phương pháp dạy học sẽ phải phù hợp với từng kĩ năng (đọc viết nói nghe) cũng như từng kiểu văn bản cụ thể. Dù là sử dụng phương pháp truyền thống hay hiện đại, các phương pháp đều nhằm một mục tiêu duy nhất: dạy cho học sinh cách đọcviếtnóinghe về văn bản.Về kiểm tra đánh giá, kiểm tra đánh giá sẽ được tiến hành trong quá trình học, với nhiều hình thức, tập trung vào bốn kĩ năng đọc viết nói nghe của học sinh. 2.2.Ma trận thể loại của văn bản đọc trong chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018. 12
- * Đặc điểm chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018 Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ Văn là một bộ phận của chương trình tổng thể, tuân thủ các quy định của chương trình đồng thời có những đặc điểm riêng, mang tính đặc thù bộ môn được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát huy những ưu điểm của các chương trình Ngữ văn đã có, đặc biệt là chương trình hiện hành. Về quan điểm dạy học, chương trình dạy học tiếp cận nội dung cho rằng học là quá trình tiếp thu và lĩnh hội tri thức qua đó hình thành kĩ năng thì chương trình dạy học theo định hướng phát triển năng lực xác định: học là quá trình kiến tạo, học sinh tự tìm tòi, khám phá, phát hiện, tự hình thành hiểu biết. Về mục tiêu môn học, chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018 xác định mục tiêu là phát triển năng lực giao tiếp với 04 kĩ năng đọc viết nói nghe. Thông qua việc hình thành và phát triển năng lực giao tiếp mà giáo dục tâm hồn, nhân cách và kĩ năng sáng tạo văn học của học sinh, đồng thời góp phần phát triển các năng lực khác như năng lực thẩm mĩ, năng lực tự chủ, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo mà chương trình tổng thể đã đề ra. Trong đó năng lực giao tiếp ngôn ngữ là trục tích hợp để xây dựng xuyên suốt cả ba cấp học. Về nội dung dạy học, căn cứ vào những phẩm chất, năng lực học sinh cần đạt, cũng như mức độ năng lực ở mỗi lớp, mỗi cấp mà xác định nội dung cần 10 dạy. Do đó, chương trình chỉ lựa chọn những kiến thức giúp cho việc phát triển năng lực hiệu quả để đưa vào giảng dạy theo một hệ thống từ lớp 1 đến lớp 12. Nếu như nội dung chương trình hiện hành được tổ chức theo trục lịch sử văn học hay kiểu văn bản nhằm tạo thuận lợi cho học sinh lĩnh hội kiến thức thì nội dung chương trình ngữ văn 2018 sẽ được tích hợp thông qua các kĩ năng đọc viết nói nghe đồng thời phục vụ cho các kĩ năng này. Chính vì chú trọng năng lực ứng dụng vào thực tiễn nên chương trình không đóng khung trong nội dung bắt buộc của sách giáo khoa mà được xây dựng theo hướng mở, nghĩa là chỉ quy định một số nội dung cốt lõi và một số tác phẩm bắt buộc (06 tác phẩm), còn lại đưa ra một danh sách gợi ý để các tác giả sách giáo khoa và giáo viên tự chọn sao cho phù hợp với điều kiện và đối tượng người học, phát huy được sự sáng tạo. Về phương pháp dạy học, môn Ngữ văn sẽ chuyển từ việc giáo viên là người truyền thụ tri thức, là trung tâm của quá trình dạy học, học sinh tiếp thu thụ động những tri thức được quy định sang việc giáo viên trở thành người tổ chức, hướng dẫn học sinh đọc tác phẩm để học sinh biết cách đọc và có thể tự đọc. Hiệu quả của giờ dạy không chỉ ở những kiến thức cụ thể về văn bản học sinh lĩnh hội được mà quan trọng hơn là sau khi học xong, học sinh nắm được phương pháp tiếp cận tác phẩm để có thể tự đọc các tác phẩm tương tự. Về hình thức dạy học, chương trình mới khuyến khích tổ chức hình thức học tập đa dạng; chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, trải nghiệm sáng tạo; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học. Về 13
- phương pháp kiểm tra đánh giá, thay vì đánh giá mức độ học sinh ghi nhớ và tái hiện được những nội dung đã học (càng nhiều càng tốt) thì chương trình Ngữ văn mới sẽ đánh giá mức độ năng lực Ngữ văn của học sinh (năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học). * Đặc điểm phần văn bản trong chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018. Như trên đã nói, mặc dù chương trình được xây dựng theo hướng mở, giao quyền lựa chọn văn bản cho các tác giả sách giáo khoa và giáo viên, tuy nhiên các văn bản được lựa chọn phải tuân thủ một số quy định nhất định: Thứ nhất, các văn bản phải đạt các yêu cầu sau: Phục vụ trực tiếp cho việc phát triển các phẩm chất và năng lực, trước hết là năng lực giao tiếp (đọc viết nói nghe) cho học sinh. Phù hợp với học sinh ở từng cấp học, lớp học. Có giá trị tiêu biểu về phương diện nội dung, nghệ thuật. Phản ánh được thành tựu về tư tưởng, văn học, văn hóa dân tộc và nhân loại. Tăng dần về mức độ khó của văn bản qua các cấp học. Thứ hai, các loại hình văn bản bao gồm: Văn bản văn học; văn bản nghị luận; văn bản thông tin. Mỗi loại hình văn bản lại định hướng những thể loại cụ thể, có thể thấy rõ điều đó qua bảng thống kê sau: Thống kê các thể loại văn bản trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12. * Thể loại văn bản văn học : Thần thoại Truyện thơ dân gian, truyện ngắn, tiểu thuyết Thơ trữ tình Sử thi Truyện ngắn Tiểu thuyết hiện đại Thơ, truyện thơ Nôm Bi kịch Truyện truyền kì, truyện ngắn và tiểu thuyết hiện đại Thơ trữ tình hiện đại Kịch bản chèo hoặc tuồng Truyện kí, tuỳ bút hoặc tản văn 14
- Hài kịch * Thể loại văn bản nghị luận ở cả 3 khối 10,11,12; Nghị luận văn học Nghị luận xã hội * Thể loại văn bản thông tin Báo cáo nghiên cứu; văn bản thuyết minh có sử dụng các yếu tố như biểu cảm, nghị luận, miêu tả, tự sự. Nội quy, văn bản hướng dẫn Thuyết minh có sử dụng các yếu tố như biểu cảm, nghị luận, miêu tả, tự sự. Báo cáo nghiên cứu Thuyết minh có sử dụng các yếu tố như biểu cảm, nghị luận, miêu tả, tự sự. Báo cáo nghiên cứu, thư trao đổi công việc. Các mạch kiến thức văn học, Lí luận văn học: một số vấn đề về lí luận văn học thiết thực, có liên quan nhiều đến đọc hiểu văn bản văn học và thể loại văn học: bao gồm thơ, truyện, kí, kịch… Các yếu tố của văn bản văn học: câu chuyện, cốt truyện, nhân vật, không gian, thời gian, người kể chuyện, điểm nhìn, vần, nhịp... Ở cấp trung học phổ thông, mạch kiến thức văn học là: những hiểu biết về một số thể loại, tiểu loại ít thông dụng, đòi hỏi kĩ năng đọc cao hơn (thần thoại, sử thi, chèo hoặc tuồng, truyện và thơ hiện đại; tiểu thuyết hiện đại, hậu hiện đại); một số kiến thức lịch sử văn học, lí luận văn học có tác dụng thiết thực đối với việc đọc và viết văn bản văn học (câu chuyện, người kể chuyện toàn tri, người kể chuyện hạn tri, người kể chuyện và sự dịch chuyển, phối hợp điểm nhìn, cách kể, tứ thơ, đặc trưng của hình tượng văn học. Về ngữ liệu văn bản, căn cứ vào tiêu chí lựa chọn văn bản và yêu cầu lựa chọn văn bản, chương trình xây dựng danh mục văn bản gợi ý lựa chọn ở các lớp mục. Về năng lực, các văn bản sẽ được khai thác thông qua tổ chức 4 hoạt động đọc viết nói nghe nhằm hình thành và phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học cho học sinh, ở mỗi kĩ năng, chương trình đưa ra những yêu cầu cụ thể: Về đọc hiểu: các văn bản sẽ được đọc hiểu ở 04 phương diện: + Đọc hiểu nội dung văn bản thể hiện qua chi tiết, đề tài, chủ đề, tư tưởng, thông điệp... 15
- + Đọc hiểu hình thức thể hiện qua đặc điểm các kiểu văn bản và thể loại, các thành tố của mỗi kiểu văn bản và thể loại (câu chuyện, cốt truyện, truyện kể, nhân vật, không gian, thời gian, người kể chuyện, điểm nhìn, vần thơ, nhịp thơ, lí lẽ, bằng chứng...), ngôn ngữ biểu đạt… + Liên hệ, so sánh giữa các văn bản, kết nối văn bản với bối cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội, kết nối văn bản với trải nghiệm cá nhân người đọc; đọc hiểu văn bản đa phương thức… + Đọc mở rộng, học thuộc lòng một số đoạn, văn bản văn học chọn lọc. Về kĩ năng viết: trên cơ sở đọc hiểu văn bản, học sinh sẽ được học về quy trình tạo lập văn bản và yêu cầu thực hành viết theo đặc điểm của kiểu văn bản vừa học. Về kĩ năng nói nghe: học sinh sẽ chuyển thể văn bản viết thành văn bản nói, từ đó thực hành nói; nghe và nói nghe tương tác. Trong dạy học định hướng phát triển năng lực, mục tiêu không chỉ là kết quả mà giáo viên mong muốn người học đạt được sau bài giảng mà đó còn là cái đích người học phải đạt được; hơn thế, mục tiêu bài giảng còn là tuyên bố về những gì mà người học phải hiểu rõ, phải nắm vững và phải làm được sau bài dạy của người thầy; mục tiêu bài giảng còn nói về việc người học sẽ học như thế nào hoặc có khả năng làm được gì sau khi kết thúc một bài học. Về nhân tố con người . Dạy học theo định hướng phát triển năng lực không chỉ là một xu hướng giáo dục quốc tế mà đã triển khai ở giáo dục nước ta (chương trình 2018). Tuy nhiên, để chương trình triển khai một cách rộng rãi, để các nhà quản lí, giáo viên, học sinh nắm vững chương trình cần phải có một quá trình tập huấn kĩ lưỡng. Đến thời điểm này, việc tập huấn vẫn đang được tiến hành nhưng tiến độ chậm. Nhiều giáo viên vẫn nhận thức cảm tính, mơ hồ về dạy học theo định hướng phát triển năng lực, cộng với thói quen, lối tư duy dạy học tiếp cận nội dung ở cả giáo viên và học sinh khiến cho việc thực nghiệm đề tài gặp không ít khó khăn. Chúng tôi xác định những khó khăn này là không thể tránh khỏi khi chương trình mới đưa vào thực tiễn “vạn sự khởi đầu nan”. Nhưng điều đó không phủ nhận những tín hiệu vui mà chúng tôi thu nhận được trong và sau những giờ học thể nghiệm. Đa số học sinh đã biết cách “đọc” một văn bản nghị luận theo từng cấp độ: từ đọc kĩ thuật đến đọc hiểu; từ đọc hiểu nội dung, đọc hiểu hình thức, đọc liên hệ, so sánh, đối chiếu để từ đó có thể tự mình “đọc” những tác phẩm tương tự (đọc mở rộng). Học sinh biết cách “viết” một đoạn văn, bài văn nghị luận (nghị luận xã hội hoặc nghị luận văn học) đúng quy trình, thể hiện rõ quan điểm của bản thân, biết dùng luận điểm, luận cứ, lập luận chặt chẽ, thuyết phục. Khi tiến hành hoạt động nói nghe, nhiều em khá tự tin thể hiện bản thân khi thuyết trình, biết sử dụng phương tiện giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ như ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ… để làm cho bài thuyết trình của mình thêm thuyết phục. Đồng thời, biết lắng nghe, nắm bắt nội dung, quan điểm của người khác cũng như biết tương tác với bạn bè, giáo viên về một vấn đề còn chưa thống nhất. Giờ học cũng vì thế mà sôi nổi, 16
- hấp dẫn, hứng thú hơn, không nặng về đọc chép, mức độ năng lực được phát triển toàn diện trên cả bốn kĩ năng đọc viết nói nghe. Việc kiểm tra đánh giá được đo bằng các rubric sau mỗi hoạt động cũng làm cho học sinh hào hứng hơn, các em “thấy” được năng lực bản thân một cách cụ thể trong cả tiến trình học, từ đó biết điều chỉnh cũng như cố gắng để phát triển năng lực bản thân 2.3. Khảo sát hệ thống câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu văn bản và luyện tập của Sách giáo khoa. * Câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu văn bản và luyện tập của Sách giáo khoa Ngữ văn 10 chương trình hiện hành 2006. Sách giáo khoa Ngữ Văn cơ bản theo thống kê của chúng tôi phần lớn là đưa ra câu hỏi mang định hướng tích hợp kiến thức vào bài học. Có thể thấy, cả ở sách giáo khoa cơ bản và nâng cao đã định hướng tới việc vận dụng kiến thức trong quá trình tiếp cận tác phẩm và thực sự trở thành một vấn đề được ý thức là cốt yếu khi đọc hiểu văn bản. Thế nhưng trong thực tế dạy học giáo viên vẫn chưa chú trọng một cách thỏa đáng. * Câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu văn bản và luyện tập của Sách giáo khoa Ngữ văn 10 chương trình GDPT 2018. Cả 3 bộ sách SGK Ngữ văn 10 mới đều ó các câu hỏi xây dụng theo định hướng phát triển phẩm hất, năng lực HS, chú trọng vào đặc trưng thể laoij của văn bản. 2.4. Kết quả khảo sát và những tồn tại trong dạy và học: *Về phía giáo viên Thực trạng nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của vấn đề hình thành, củng cố kiến thức thể loại cho HS qua hoạt động đọc. 1. Lâu nay, việc dạy học đọc hiểu các văn bản trong chương trình Ngữ văn 10 thì hầu như chưa được toàn thể giáo viên chú trọng, thiếu sự chuẩn bị chu đáo. Việc dạy đọc hiểu văn bản ở trường phổ thông hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc chuyển giao những hiểu biết của GV cho HS về một văn bản nào đó. Với vai trò chuyển giao này, GV là người chủ yếu có nhiệm vụ cung cấp, truyền thụ kiến thức cho HS. Trong quan niệm dạy học chuyển giao, truyền th ụ kiến thức, việc dạy học đọc hiểu văn bản ở trường phổ thông hiện nay vẫn đang sử dụng phương pháp truyền thụ một chiều, “Độc tôn vị trí của người thầy”. Phương pháp dạy học này đề cao vai trò của người thầy và chưa chú trọng đến đối tượng chính của hoạt động dạy học là học sinh. Điều này sẽ khiến HS mất dần dần đi sự chủ động trong việc tiếp thu, lĩnh hội kiến thức. Chương trình giáo dục hiện hành (chương trình 2006) được xây dựng theo trục lịch sử và thể loại đã bộc lộ nhiều hạn chế, không còn phù hợp vì thế nhất thiết phải thay đổi đặc biệt là trong bối cảnh GD mới hiện nay. Đặc biệt chương trình Ngữ văn 10 hiện hành chủ yếu là các văn bản thuộc giai đoạn văn học Trung đại. Thậm chí có giáo viên khi đến lớp còn dạy sơ sài, dạy cho xong bài 17
- học, đặc biệt là việc dạy học một số văn bản mà văn bản đó là đại diện duy nhất/ tiêu biểu cho thể loại văn học Trung đại được đưa vào chương trình sách giáo khoa như thể loại Hịch, Cáo, Chiếu, Phú....Giáo viên thường xem nhẹ nên học sinh không thấy được sức nặng của bài học. 2. Ở nhiều giáo viên từ khâu soạn bài đến việc vận dụng phương pháp dạy học, đặc biệt là những văn bản "khó" chưa được đầu tư nhiều vì giáo án phần lớn đã copy sẵn trên mạng mà những kiến thức về bài học lại cần phải suy nghĩ kết hợp với việc tìm tòi phương pháp truyền tải cho học sinh dễ hiểu. Một thực tế là ngoài trường chuyên, lớp chọn luôn được đầu tư học kĩ phần văn học Trung đại nhằm phục vụ cho các kì thi học sinh giỏi tỉnh, thi học sinh giỏi quốc gia thì ở các trường THPT và các lớp thường thì công việc dạy văn học Trung đại chưa được giáo viên ý thức sâu sắc về ý nghĩa, chưa nhận thức được tầm quan trọng, vị trí của nó trong chương trình. Đa phần giáo viên chỉ đầu tư thiết kế phần đọc – hiểu văn bản thơ mà sơ sài trong chuẩn bị cho các tiết dạy thể loại ít văn bản trong chương trình. Điều này khiến nhiều tiết học ở một số thể loại ít văn bản như Phú, Chiếu, Biểu, ... trở nên khô khan, nặng nề, không có hiệu quả dẫn đến học sinh học xong thường không hứng thú, không ấn tượng nên nhanh chóng quên kiến thức đã học. 3.Về phương pháp dạy học văn bản Bạch Đằng giang phú, người dạy chủ yếu vận dụng phương pháp diễn giảng là chính để diễn giảng nhằm giúp học sinh hiểu rõ ý nghĩa của những từ ngữ khó, những điển tích, điển cố, bố cục thể loại...Thực tế đó dẫn đến học sinh khó lĩnh hội kiến thức bài học hoặc học sinh ngồi đón nhận nhưng không có sự quan tâm, yêu thích, thiếu hứng thú nên kết quả học tập không cao. Qua dự giờ thăm lớp một số đồng nghiệp cùng bộ môn tôi nhận thấy một số giáo viên đã có sự đổi mới về phương pháp dạy học như bám vào đặc trưng thể loại Phú, cho học sinh thảo luận nhóm,... nhưng vẫn còn nặng về cung cấp kiến thức mà ít chú ý đến bồi dưỡng năng lực cho học sinh và không chú trọng đến việc ứng dụng những kiến thức liên môn vừa vận dụng phương pháp mới vào dạy học vừa kích thích được sự tìm tòi, hào hứng cho việc chuẩn bị cũng như tiếp nhận văn bản trong giờ học được tốt hơn. 4. Thực tế cho thấy, đa phần giáo viên còn coi nặng việc truyền thụ kiến thức được hướng dẫn tìm hiểu trong sách giáo khoa. Ít vận dụng kiến thức liên môn, chủ đề tích hợp giáo dục trong quá trình dạy học bởi phải trang bị thêm nhiều mặt về kiến thức liên quan đến môn học mà mình đang dạy. Mặt khác còn phải chuẩn bị về phương pháp, phương tiện, đồ dùng dạy học phù hợp với chủ đề tích hợp nên nhiều khi vấn đề tích hợp kiến thức chỉ là hình thức không thực sự tâm huyết. Chính điều đó dẫn đến tiết dạy kém hấp dẫn, không phát huy được năng lực của học sinh. Quá trình dạy học dễ sa vào lối dạy đọc chép, truyền thụ kiến thức một chiều. 18
- *Về phía học sinh Thực trạng đọc văn bản của Hs liên quan đến vấn đề tích lũy kiến thức về thể loại văn bản 1. Khi tiếp cận các văn bản văn học ở sách Ngữ văn 10 trong chương trình hiện hành, chủ yếu là văn học dân gian và văn học Trung đại. Đặc biệt là các văn bản văn học Trung đại với những thể loại cổ xưa vốn khô khan, khó hiểu nên nhiều khi quá trình tiếp nhận văn bản của HS còn mơ hồ. Một trong những khó khăn lớn nhất đó là do thời đại khác nhau nên việc nắm bắt và hiểu được tư tưởng, tình cảm của tác giả thời Trung đại so với học sinh hiện nay là không dễ. 2. Đứng trước yêu cầu của thực tế dạy học hiện đại lấy học sinh làm trung tâm, học sinh được tham gia tích cực, chủ động vào các hoạt động học tập thì phẩm chất và năng lực cá nhân mới được hình thành và phát triển toàn diện. Tính năng động, sáng tạo là những phẩm chất cần thiết trong cuộc sống hiện đại cần phải được hình thành ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường. Thế nhưng trên thực tế quá trình tiếp nhận, tích lũy kiến thức về thể loại của học sinh đối với những văn bản trong chương trình Ngữ văn 10 chưa đáp ứng yêu cầu của thời đại. 3. Tiếp nhận, hình thành và củng cố kiến thức về thể loại là cả một quá trình ở các cấp học nhưng với học sinh THPT hiện nay đang quen với lối mòn cũ, học những kiến thức mà thầy cô truyền thụ sẵn, ít tích cực tích lũy đề hình thành kiến thức nền về thể loại để có thể chủ động, tích cực đọc hiểu những văn bản cùng thể loại ngoài chương trình. Việc vận dụng kiến thức thể loại vào quá trình học tập, kiểm tra, đánh giá, thi cử đã được triển khai trong những năm học vừa qua nhưng đối với học sinh vẫn còn nhiều hạn chế. Một số giáo viên vận dụng chưa linh hoạt nên học sinh còn ghi nhớ kiến thức thể loại một cách máy móc, việc nắm được đặc trưng, mối quan hệ, giao thoa giữa các thể loại văn bản chưa thực sự thấu đáo. Để quá trình dạy học đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10 theo trong chương trình GDPT 2018 được hiệu quả hơn, trong phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã kết hợp hình thành và củng cố kiến thức thể loại cho học sinh qua các giờ đọc hiểu văn bản. Với mong muốn góp một phần nhỏ vào dạy học bộ môn Ngữ văn nhằm xóa bớt đi sự nhàm chán, khơi dậy tình yêu văn học của học sinh hiện nay. Qua tìm hiểu thực tế đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10 từ góc độ hình thành và củng cố kiến thức thể loại, tôi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu về phía học sinh. Cụ thể, tôi đã phát câu hỏi cho 39 học sinh ở lớp 10A1 trường THPT Yên Thành 3. Từ việc xử lý phiếu điều tra, chúng tôi có kết quả như sau: Nội dung câu hỏi là: Câu 1.Theo em việc cung cấp kiến thức về thể loại trước khi đọc hiểu văn bản ở bộ môn Ngữ văn 10 có cần thiết hay không? + 35/39 học sinh (chiếm ) trả lời: Có. 19
- + 4/39 học sinh (chiếm %) trả lời: Không. Câu 2.Theo em, việc tìm hiểu đặc điểm thể loại/ hình thành kiến thức thể loại/ trong quá trình đọc hiểu văn bản ở bộ môn Ngữ văn 10 có cần thiết hay không? + 20/39 học sinh (chiếm 51,2%) trả lời: Có. + 19/39 học sinh (chiếm 48,8%) trả lời: Không. Câu 3. Em có thích được giáo viên củng cố tri thức về phương pháp đọc hiểu văn bản ở cuối mỗi bài đọc hiểu văn bản không? + 33/39 học sinh (chiếm 84,6%) trả lời: Có. + 6/39 học sinh (chiếm 15,4%) trả lời: Không. Câu 4. Theo em, sau khi đọc văn bản có cần thiết vận dụng kiến thức thể loại đã học để vận dụng đọc hiểu văn bản cùng thể loại khác ở trong cũng như ngoài SGK không? + 34/39 học sinh (chiếm 87,1%) trả lời: Có. + 5/39 học sinh (chiếm 12,9 %) trả lời: Không. Như vậy, đa số học sinh hiểu sự cần thiết của việc cung cấp, hình thành, tích lũy và củng cố kiến thức thể loại khi đọc hiểu văn bản trong các tiết đọc hiểu văn bản trong SGK Ngữ văn 10. Tuy nhiên, do dung lượng tiết học hạn chế nên các em chưa được cung cấp kiến thức và kĩ năng cần thiết để chủ động tìm hiểu vấn đề. Giáo viên phải dặn dò để học sinh tìm hiểu trước kiến thức về thể loại trược khi vào bài học. * Về kiểm tra, đánh giá. Việc dạy học và kiểm tra đánh giá là hai quá trình có quan hệ mật thiết với nhau, thế nhưng hầu hết là ở các bài viết (kiểm tra) trong chương trình Ngữ văn 10 hiện hành và các đề thi học kì ít khi kiểm tra, đánh giá về kiến thức thể loại, đặc trưng của thể loại. Những câu hỏi ở phần Đọc hiểu trong các đề thi trước đây thường chỉ hỏi đơn giản về Thể Thơ, hỏi về hình ảnh, từ ngữ đặc sắc trong văn bản/đoạn trích. Trong những năm gần đây Bộ đã yêu cầu đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực HS nên ở các bài kiểm tra, các đề thi đã có những chuyển mình ít văn bản như đã nói ở trên mà thường tập trung vào các văn bản thơ và truyện Trung đại vốn nhiều văn bản hơn và được xem là "dễ học" hơn. Thi tốt nghiệp, đại học từ trước tới nay chú chú trọng phần văn học Việt Nam hiện đại vì thế nên kiến thức về văn học Trung đại ở học sinh THPT cuối cấp gần như đã lãng quên. Chỉ ở những kỳ thi học sinh giỏi cấp Tỉnh và học sinh giỏi quốc gia thì văn học Trung đại mới được đề cập đến và những văn bản "khó" mới được nâng lên thành những chuyên đề có đầu tư về chiều sâu, nhưng cũng chỉ là ở những lớp chọn hay một số học sinh trong đội tuyển học sinh giỏi mà thôi. Vậy nên, các văn bản ít kiểm tra, đánh giá thì ít chú trọng, không thi thì không học kỹ. Phần lớn học sinh mang 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"
14 p | 190 | 28
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số ứng dụng của số phức trong giải toán Đại số và Hình học chương trình THPT
22 p | 177 | 25
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động khởi động nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh khi dạy học môn Toán lớp 10
44 p | 67 | 19
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p | 139 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học môn Sinh thông qua tổ chức các hoạt động nhóm tích cực tại trường THPT Lê Lợi
19 p | 54 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp rèn luyện kĩ năng điều chỉnh và quản lí cảm xúc nhằm hình thành khả năng ứng phó với căng thẳng của học sinh trường THPT Kim Sơn C
50 p | 16 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng giải bài toán trắc nghiệm về hình nón, khối nón
44 p | 24 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 trường THPT Yên Định 3 giải nhanh bài toán trắc nghiệm cực trị của hàm số
29 p | 34 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng mô hình học tập Blended Learning trong dạy học chủ đề 9 Tin học 11 tại Trường THPT Lê Lợi nhằm nâng cao hiệu quả học tập
16 p | 22 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng xử lí hình ảnh, phim trong dạy học môn Sinh học
14 p | 38 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo mô hình STEM bài Sự điện li của nước. pH. Chất chỉ thị axit – bazơ và bài Ankan, Hoá học 11 ở trường THPT
56 p | 18 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh khai thác có hiệu quả kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí 11
28 p | 65 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp tính khoảng cách trong hình học không gian lớp 11
35 p | 19 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giúp học sinh trung bình và yếu ôn tập và làm tốt câu hỏi trắc nghiệm chương 1 giải tích 12
25 p | 25 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hình thành và phát triển tư duy phê phán cho học sinh thông qua thí nghiệm hóa học
49 p | 21 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hình học hóa bài toán số phức
39 p | 34 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh cách vẽ hình chiếu trục đo (HCTĐ) của vật thể bằng cách dựng mặt phẳng cơ sở
26 p | 7 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn