Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hình thành và phát triển khả năng ứng phó bạo lực mạng xã hội cho học sinh thông qua việc lồng ghép tư vấn tâm lý với hoạt động học tập ở bộ môn Ngữ văn 10 – THPT
lượt xem 9
download
Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm xây dựng nội dung, cấu trúc, thời lượng tiết Nói và nghe; Đưa ra quy trình xây dựng, lựa chọn và thực hiện các nội dung tư vấn tâm lí cho học sinh THPT; Định hướng tư vấn tâm lí theo hình thức lồng ghép trong dạy học môn Ngữ văn (hoạt động nói và nghe).
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hình thành và phát triển khả năng ứng phó bạo lực mạng xã hội cho học sinh thông qua việc lồng ghép tư vấn tâm lý với hoạt động học tập ở bộ môn Ngữ văn 10 – THPT
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT ĐÔ LƯƠNG 2 ĐỀ CƯƠNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG ỨNG PHÓ BẠO LỰC MẠNG XÃ HỘI CHO HỌC SINH THÔNG QUA LỒNG GHÉP TƯ VẤN TÂM LÝ VỚI HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP NGỮ VĂN 10 - THPT Lĩnh vực: Ngữ văn Nhóm tác giả: Đào Thị Kim Dung – Tổ Ngữ văn Trần Hồng Hà – PHT Năm học: 2022 - 2023 Số điện thoại: 0947.831.878– 0944.422.678
- MỤC LỤC Trang PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Mục đích, nhiệm vụ 2 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 2 4. Giả thuyết khoa học 2 5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3 6. Phương pháp nghiên cứu 3 7. Đóng góp mới của đề tài 3 PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 4 1.1. Đặc điểm tâm sinh lí học sinh THPT 4 1.1.1. Quan niệm về học sinh trung học phổ thông 4 1.1.2. Một số phẩm chất tâm lí – nhân cách của học sinh trung học 4 phổ thông 1.1.3. Một số yếu tố tác động tới tâm lí học sinh trung học phổ thông 6 1.1.4. Những đặc điểm tâm lí chủ yếu của học sinh trung học phổ 8 thông 1.2. Tư vấn tâm lí bậc Trung học phổ thông 8 1.2.1. Khái niệm 8 1.2.2. Tư vấn tâm lí trong nhà trường Trung học phổ thông 9 1.3. Điểm mới trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018 và môn 9 Ngữ văn 1.3.1. Những điểm mới trong chương trình giáo dục phổ thông 2018 9 1.3.2. Những đổi mới chương trình môn Ngữ văn 10 CHƯƠNG 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 2.1. Bạo lực mạng xã hội 12 2.2. Thực trạng bạo lực mạng xã hội tại trường THPT Đô Lương 2 13 2.3. Thực trạng công tác tư vấn tâm lí cho học sinh 14 2.4. Thực trạng lồng ghép tư vấn tâm lí thông qua hoạt động dạy học bộ 20 môn Ngữ văn ở trường THPT Đô Lương 2 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP LỒNG GHÉP TƯ VẤN TÂM LÍ TRONG HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC NGỮ VĂN 10 3.1. Xây dựng nội dung tư vấn tâm lí lồng ghép trong hoạt động dạy học 22 Bài 3, tiết Nói và nghe, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống 3.1.1. Nội dung tư vấn tâm lí 22 3.1.2. Minh họa quy trình xây dựng, lựa chọn và thực hiện nội dung tư 25 vấn tâm lí “ Ứng phó với bạo lực mạng xã hội” 3.1.3. Giáo án 29 3.2. Khảo sát tính khả thi của giải pháp 38 3.2.1. Mục đích khảo sát 38
- 3.2.2. Nội dung và phương pháp khảo sát 38 3.2.3. Đối tượng khảo sát 39 3.2.4. Kết quả khảo sát về sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp 39 đã đề xuất 3.3. Thực nghiệm sư phạm 42 3.3.1. Mục đích, nhiệm vụ, nguyên tắc, phương pháp thực nghiệm 41 3.3.2. Nội dung thực nghiệm sư phạm 42 3.3.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm 42 3.3.4. Tổ chức thực nghiệm sư phạm 44 3.3.5. Tiến trình thực nghiệm 43 3.3.6. Đánh giá kết quả thực nghiệm. 44 3.3.7. Kết luận thực nghiệm 47 PHẦN III. KẾT LUẬN 1. Kết luận 48 2. Khuyến nghị 49 3. Hướng phát triển của đề tài 49 TÀI LIỆU THAM KHẢO 50 PHỤ LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TT Kí hiệu chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ 1 THPT Trung học phổ thông 2 THCS Trung học cơ sở 3 GV Giáo viên 4 HS Học sinh 5 CT GDPT Chương trinhg giáo dục phổ thông 6 TN Thực nghiệm 7 ĐC Đối chứng
- PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Cuộc cách mạng 4.0 có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, lĩnh vực giáo dục không phải là ngoại lệ. Nó tác động đến tất cả mọi khía cạnh giáo dục từ nội dung, phương pháp và hình thức dạy học. Với sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, công nghệ và mạng xã hội, giáo viên và học sinh có cơ hội tiếp cận tri thức một cách dễ dàng và thuận lợi, giúp cả người học và người dạy chia sẻ, hỗ trợ nhau trong giảng dạy cũng như học tập. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực mà cuộc cách mạng 4.0 mang lại cho giáo dục, xuất hiện những thách thức đối với cả người dạy và người học. Sự nhiễu loạn thông tin trong thế giới phẳng gây ra bất lợi, trong đó có đặc biệt là mạng xã hội đối với học sinh. Thực tế cho thấy, có những ảnh hưởng tiêu cực của mạng xã hội đến tâm lý học sinh, mất tập trung trong học tập, sức khỏe, tình cảm,… và phát sinh mâu thuẫn dẫn đến bạo lực mạng xã hội. Trong những năm gần đây, di chứng của bạo lực mạng xã hội để lại trong tâm lí học sinh vô cùng nặng nề, thậm chí có những trường hợp đã lựa chọn cái chết để giải thoát khỏi ám ảnh của bạo lực mạng. Hàng ngày chúng ta phải chứng kiến bao trường hợp đáng thương, đáng trách và cả đáng tiếc nữa. Những cách giải quyết tiêu cực của lứa tuổi học sinh THPT khi bị bạo lực mạng đang là những hồi chuông nhức nhối thức tỉnh những nhà hoạt động giáo dục phải tìm giải pháp hỗ trợ học sinh mình trong cách ứng phó với bạo lực mạng xã hội Theo thông tư 20/2018/TT-BGDDT ngày 22 tháng 8 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông có nhiều tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực mà giáo viên cần phải đáp ứng. Trong đó năng lực tư vấn, hỗ trợ học sinh được coi là một trong những tiêu chuẩn về phát triển chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên phổ thông nói chung và giáo viên THPT nói riêng (tiêu chuẩn 2, tiêu chí 7). Như vậy có thể thấy, việc giáo viên thực hiện tư vấn, hỗ trợ học sinh trong các hoạt động dạy học không chỉ thể hiện việc đáp ứng nội dung này về mặt pháp lí mà còn cho thấy khả năng thích ứng, phát triển năng lực của giáo viên trong bối cảnh xã hội thay đổi khi học sinh gặp nhiều khó khăn trong học tập và đời sống cần sự trợ giúp nhiều hơn từ phía giáo viên và nhà trường. Thực tế cho thấy khi giáo viên hỗ trợ được học sinh giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc sẽ giúp xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa giáo viên và học sinh, tạo môi trường học tập an toàn để học sinh tìm thấy niềm vui, hạnh phúc khi đến trường. Vì lẽ đó, trong mô hình trường học hạnh phúc do UNESCO đề xướng, mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh được coi là một trong ba thành tố then chốt để xây dựng ngôi trường hạnh phúc cho học sinh. Ngữ văn là môn học mang tính công cụ và tính thẩm mĩ - nhân văn, giúp học sinh có phương tiện giao tiếp, làm cơ sở để học tập tất cả các môn học và hoạt động giáo dục khác trong nhà trường; đồng thời cũng là công cụ quan trọng để 1
- giáo dục học sinh những giá trị cao đẹp về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc; phát triển ở học sinh những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha,... Thông qua các văn bản ngôn từ và những hình tượng nghệ thuật sinh động trong các tác phẩm văn học, bằng hoạt động đọc, viết, nói và nghe, môn Ngữ văn có vai trò to lớn trong việc giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp cũng như các năng lực cốt lõi để sống và làm việc hiệu quả, để học suốt đời, để ứng phó với các tình huống nảy sinh trong thực tiễn cuộc sống, trong đó có bạo lực mạng xã hội. Hiểu rõ những yêu cầu trên, chúng tôi thực hiện đề tài: Hình thành và phát triển khả năng ứng phó bạo lực mạng xã hội cho học sinh thông qua việc lồng ghép tư vấn tâm lý với hoạt động học tập ở bộ môn Ngữ văn 10 – THPT 2. Mục đích, nhiệm vụ 2.1. Mục đích nghiên cứu - Tư vấn và hỗ trợ tâm lí học sinh cách ứng phó với bạo lực mạng - Đưa ra cách vận dụng, lồng ghép nội dung tư vấn, hỗ trợ tâm lí cho học sinh trong hoạt động dạy học môn Ngữ văn 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xây dựng nội dung, cấu trúc, thời lượng tiết Nói và nghe - Đưa ra quy trình xây dựng, lựa chọn và thực hiện các nội dung tư vấn tâm lí cho học sinh THPT - Định hướng tư vấn tâm lí theo hình thức lồng ghép trong dạy học môn Ngữ văn (hoạt động nói và nghe) - Thiết kế giáo án thực nghiệm - Tổ chức thực nghiệm để đánh giá kết quả thực nghiệm 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu - Bài Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề đời sống có ý kiến khác nhau - Tâm lý học sinh sử dụng mạng xã hội. 3.2. Đối tượng nghiên cứu - Học sinh lớp 10 4. Giả thuyết khoa học Nếu đề xuất và thực hiện đồng bộ các giải pháp có cơ sở khoa học, có tính khả thi nà thì có thể cải thiện tình trạng ứng phó bạo lực mạng xã hội cho học sinh THPT, tránh được những hậu quả nặng nề. 2
- 5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Ở đề tài này, chúng tôi tập trung vào 03 nội dung nghiên cứu sau: - Nghiên cứu lí luận - Khảo sát tính cấp thiết và tính khả thi để đánh giá thực trạng - Đề xuất giải pháp 5.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung Đề tài tập trung nghiên cứu, đề xuất các giải pháp lồng ghép tư vấn tâm lí vào hoạt động dạy học bộ môn Ngữ văn dựa trên cơ sở lí luận và thực tiễn đã khảo sát. - Về thời gian Đề tài được hình thành ý tưởng và áp dụng vào năm học 2021-2022 cho đối tượng học sinh lớp 11 (Lồng ghép trong hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp). Năm học 2022-2023, chúng tôi mạnh dạn phát triển đề tài với học sinh khối 10 đang thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018. 6. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện nghiên cứu đề tài, chúng tôi tiến hành các phương pháp nghiên cứu sau: - Phân tích tổng hợp - Điều tra khảo sát - Thực nghiệm sư phạm 7. Đóng góp mới của đề tài - Lồng ghép một vấn đề kĩ năng vào trong dạy học một môn học cụ thể - Đưa ra giải pháp có tính khả thi để tiến hành tư vấn tâm lí cho học sinh thông qua một bài học cụ thể - Giải quyết phần nào thực trạng chưa khả quan của tâm lí học đường hiện nay 3
- PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Đặc điểm tâm sinh lí học sinh trung học phổ thông 1.1.1. Quan niệm về học sinh trung học phổ thông Dưới góc độ tâm lí học phát triển, tuổi thanh niên thường được xác định từ 14,15 đến 25 tuổi, với đặc trưng là sự trưởng thành và hoàn thiện cơ thể cả về thể chất và tâm sinh lí, sau khi kết thúc giai đoạn dậy thì, trong đó chia làm hai thời kì: - Thời kì từ 14,15 – 17,18 tuổi: được gọi là tuổi đầu thanh niên (thanh niên mới lớn hay tuổi THPT). - Thời kì từ 18 – 25 tuổi: được gọi là thanh niên trưởng thành hay tuổi thanh niên sinh viên. Ở nước ta có thể khái quát lứa tuổi từ 16 đến 25 thành 3 nhóm: nhóm học sinh THPT, nhóm thanh niên sinh viên và nhóm thanh niên lao động. Sự phát triển tâm lí của 3 nhóm có nhiều điểm tương đồng nhưng cũng có nhiều điểm khác biệt do vị thế xã hội và hoạt động chủ đạo của mỗi nhóm. Như vậy lứa tuổi học sinh phổ thông là thời kì hoàn thiện căn bản sự phát triển về thể chất và tiến tới sự hoàn thiện về mặt tâm sinh lý. 1.1.2. Một số phẩm chất tâm lí – nhân cách của học sinh trung học phổ thông 1.1.2.1. Sự phát triển tự ý thức Ý thức và tự ý thức của tuổi học sinh THPT đã phát triển ở mức độ cao và có nhiều khác biệt so với các lứa tuổi trước. Điều này được bộc lộ qua sự ý thức về thân thể; tự đánh giá các phẩm chất tâm lí của bản thân và tính tự trọng. - Hình ảnh thân thể: Ngay từ giai đoạn tuổi dậy thì, học sinh đã rất quan tâm đến các vấn đề liên quan tới thân thể của mình. Câu hỏi thường trực của các em là hình dáng cơ thể mình như thế nào trong mắt người khác. Các em có thể đứng hàng giờ trước gương để nhìn ngắm và kiểm tra thân thể của mình, luôn lo lắng về tầm vóc nhỏ bé hoặc béo phệ, mụn trứng cá, nốt ruồi trên mặt …Nói chung hình ảnh về thân thể là một thành tố quan trọng trong ý thức của tuổi học sinh THPT và đây chính là một trong những đặc trưng tâm lí điển hình của lứa tuổi này. - Khả năng tự đánh giá bản thân: Cũng như học sinh THCS, học sinh THPT khao khát muốn biết mình là ai, có năng lực gì. Vì vậy tự đánh giá cũng là một nét tâm lí điển hình của lứa tuổi này. Những vấn đề như tôi là ai? Tôi là người như thế nào? Tôi có những năng lực vượt trội nào? Lí tưởng của tôi là gì? Ai là bạn, ai là thù? Tôi cần làm gì để bản thân mình trở nên hoàn hảo? là những vấn đề trăn trở trong suốt thời kì thanh niên, trở thành yếu tố quan trọng của sự tự xác định về mặt đạo đức xã hội của học sinh THPT. Tự đánh giá của học sinh THPT có chủ kiến rõ ràng và đã có sự đối chiếu với chuẩn chung của xã hội. Tuy nhiên do vốn sống còn ít nên khả năng nhận thức về bản thân chưa thực sự khái quát và sâu ắc, một số em còn chưa đánh giá đúng, khách quan về bản thân mình. Sự đánh giá ấy đôi khi còn 4
- dựa vào ý kiến người khác nên không phải bao giờ cũng phù hợp với cái thực có của mình. Nhiều em đánh giá quá cao về bản thân dẫn đến tự cao, coi thường người khác hoặc đánh giá thấp, coi mình bất tài vô dụng. - Tính tự trọng của học sinh THPT: Đặc trưng nổi bật của tuổi học sinh THPT là sự phát triển đến mức độ cao, ổn định của tính tự trọng. Tính tự trọng là sự tin tưởng, tôn trọng và chấp nhận chính bản thân, nhân cách của mình trên cơ sở tự đánh giá đúng đắn, khái quát về bản thân. Tính tự trọng là thái độ tích cực, lạc quan của cá nhân, thể hiện sự đánh giá khách quan, nghiêm túc về bản thân. Người có tính tự trọng sẽ không chấp nhận sự đánh giá không đúng về bản thân mình, không chấp nhận sự xúc phạm giá trị sống và hạ thấp nhân cách của mình. Mức độ tự trọng ở học sinh THPT rất rộng, từ mức thấp nhất là cá nhân không có sự tôn trọng bản thân đến tự trọng cao. Tự trọng cao sẽ giúp các em biết bảo vệ danh dự của mình một cách phù hợp trong những hoàn cảnh cụ thể. Ngựơc lại, thiếu tự trọng sẽ dẫn đến thiếu tôn trọng chính mình và cả người khác đối với mình, gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp và cản trở sự phát triển nhân cách. - Tính tích cực xã hội của học sinh THPT: So với các lứa tuổi khác, học sinh THPT có tính tích cực xã hội rất cao. Dù bận học tập hay lao động sản xuất, học sinh THPT vẫn tích cực tham gia các hoạt động xã hội, từ các hoạt động mang ý nghĩa chính trị đến các phong trào xã hội hàng ngày. Tuy nhiên, do trình độ nhận thức về chính trị xã hội của một số học sinh phổ thông chưa cao nên nhiều khi dẫn đến hành động sai lầm. Do vậy, dù đang ở lứa tuổi căng tràn nhiệt huyết nhưng học sinh phổ thông vẫn cần sự địanh hướng của gia đình, thầy cô để những hành vi của các em trở nên đúng hướng. 1.1.2.2. Đời sống tình cảm của học sinh THPT. Sự phát triển đời sống tình cảm của học sinh THPT đã đạt tới mức trưởng thành và ổn định cả tình bạn lẫn tình yêu: - Tình bạn ở lứa tuổi THPT đã có những tiêu chí rõ ràng như sự tâm tình, thân mật, tình cảm ấm áp và cúng chí hướng. Do tự ý thức phát triển mạnh, học sinh có nhu cầu tìm hiểu cái tôi khác, ở bên ngoài chính bản thân mình. Nhu cầu này lần đầu xuất hiện trong cuộc đời cá nhân là cơ sở để tuổi học sinh THPT thường dốc bầu tâm sự với bạn, mong được chia sẻ n hững tình cảm của mình. Một trong những điểm nổi bật trong tình bạn ở lứa tuổi học trò là tính cảm xúc cao, trong đó tình bạn khác giới có nhiều điểm của tình yêu: cũng mê say, nồng nàn, hạnh phúc, ghen tuông và đau khổ khi phải chia ly…Trên thực tế, có nhiều tình bạn khác giới trở thành tình yêu và đi đến hôn nhân. Tình bạn của học sinh THPT rất bền vững, nó lưu giữ, duy trì, phát triển đến suốt cuộc đời của các em. Tình cảm này được nuôi dưỡng, duy trì, trở thành một tình cảm bền lâu, gắn kết, là chỗ dựa tinh thần cho các em trong suốt hành trình cuộc đời mình. - Tình yêu tuổi học trò là một trong những đặc trưng điển hình nhất của tuổi học sinh THPT. Tình yêu lần đầu tiên xuất hiện ở lứa tuổi học trò theo đúng nghĩa 5
- của nó. Thực ra ở cuối tuổi thiếu niên, các em đã có những rung động đầu đời đối với bạn khác giới. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những cảm xúc có phần mơ hồ và không ổn định. Ở lứa tuổi THPT tình yêu nam nữ xuất hiện, trong đó phần nhiều là lí tưởng hóa và mơ mộng. Nhìn chung, tình yêu lứa tuổi học sinh THPT về cơ bản là tình cảm lành mạnh. Vì vậy, cha mẹ, thầy cô và xã hội không nên can thiệp quá thô bạo vào thế giới tình cảm của các em, cũng không nên chế diễu, quở trách, cấm đoán khi các em xuất hiện tình yêu, mà nên trao đổi, tư vấn các em đúng hướng. Mặt khác, cũng cần khắc phục, hạn chế các hiện tượng thiếu lành mạnh của một số học sinh trong quan hệ nam nữ, nhất là trong điều kiện phương tiện thông tin phát triển nhanh và xu hướng thực dụng ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại. 1.1.3. Một số yếu tố tác động tới tâm lí học sinh trung học phổ thông 1.1.3.1. Định hướng giá trị xã hội Trong bối cảnh hiện nay, việc định hướng giá trị sống của học sinh THPT có những điểm chú ý sau Thứ nhất, trong xã hội hiện đại, hậu công nghiệp và văn minh dẫn đến sự chuyển dịch hệ giá trị sống của xã hội cũng như của học sinh THPT theo hướng chuyển từ giá trị sống có tính truyền thống, giá trị văn hóa truyền thống( như trọng danh dự, trọng tình, trọng thân phận trong các mối quan hệ v.v) sang các giá trị sống hiện đại (như thiên về độc lập, tự do, thiên về giá trị vật chất, nghề nghiệp mang lại thu nhập cao v.v). Điều này một mặt tạo nhiều cơ hội khách quan trong việc lựa chọn và hình thành các giá trị sống của học sinh, mặt khác cũng là khó khăn của các em trong việc lựa chọn giá trị sống phù hợp. Thứ hai, do tác động của yếu tố kinh tế xã hội hiện đại phát triển theo xu thế thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng, tiện nghi; nặng về nhu cầu vật chất; giá trị vật chất được coi trọng hơn giá trị tinh thần; kết hợp với những khiếm khuyết trong giáo dục gia đình, nhà trường và những tiêu cực khác tạo ra áp lực tiêu cực đến học sinh. Hệ quả là làm méo mó hệ giá trị sống của lớp trẻ, không phù hợp với đặc trưng của lứa tuổi THPT như tính thực dụng, ích kỉ, thiển cận, thậm chí vô cảm và nhiều lệch lạc khác. Thứ ba, trong định hướng giá trị sống cho học sinh, khuôn mẫu văn hóa gia đình có ý nghĩa quyết định. Ngay từ khi còn rất nhỏ, trẻ em đã được sống trong khuôn mẫu giá trị sống theo truyền thống văn hóa của gia đình, thông qua việc đồng hóa các giá trị sống của cha mẹ và người lớn khác, các quan hệ và các định hướng về lối sống, cách sống và học tập, Vì vậy gia đình có vai trò quyết định trong việc định hướng giá trị sống của trẻ em, trong đó có lứa tuổi THPT. Trong bối cảnh hiện nay, gia đình đã biến đổi sâu sắc cả về quy mô, tính chất và hệ giá trị sống. Điều này làm phức tạp thêm việc định hướng giá trị sống của học sinh THPT. Vì vậy để giải quyết được vấn đề định hướng giá trị sống cho học sinh, một mặt phải có sự thống nhất giữa giá trị sống chuẩn mực của xã hội và giá trị sống của gia đình, giữa hệ giá trị truyền thống và hệ giá trị hiện đại, tạo ra giá trị sống khách quan để học sinh thể hiện mình trong đó. Mặt khác, gia đình phải là tác nhân 6
- quan trọng nhất trong việc trợ giúp các em lựa chọn giá trị sống của mình trong sự tương tác với giá trị sống khách quan. 1.1.3.2. Ảnh hưởng của thời kì hội nhập kinh tế và văn hóa Hội nhập quốc tế là hiện thực phổ biến trên phạm vi toàn cầu. Việt Nam không phải là ngoại lệ. Việc hội nhập kinh tế và văn hóa cũng có tác động tích cực lẫn tiêu cực tới tâm lí học sinh nói chung, học sinh THPT nói riêng. Một mặt hội nhập sẽ hình thành và phát triển các năng lực hợp tác trong học tập cũng như trong đời sống; phát triển tác phong công nghiệp trong học tập và ứng xử xã hội; chia sẻ những giá trị văn hóa của dân tộc thông qua các hoạt động giao lưu. Mặt khác, hội nhập cúng có tác động tiêu cực đến sự phát triển tâm lí của học sinh THPT như lối sống thực dụng, máy móc thậm chí là cực đoan, xa rời những giá trị văn hóa truyền thống. 1.1.3.3. Ảnh hưởng của mạng xã hội đến nhận thức và hành vi của học sinh THPT - Những ảnh hưởng tích cực: + Mạng xã hội tạo ra tài nguyên thông tin vô cùng phong phú và vô tận. Học sinh thoải mái vùng vẫy trong thế giới thông tin – nguồn tri thức vô tận cho hoạt động nhận thức và trí tuệ + Mạng xã hội luôn cập nhật thông tin một cách nóng hổi, có những thông tin vừa xảy ra thì chỉ cần 30 phút sau các em đã có thể cập nhật trên mạng xã hội. + Mạng xã hội, với tư cách là một công cụ hỗ trợ học tập đang dần trở thành một xu hướng, phương thức học cơ bản trong thời đại số và kết nối mạng. + Mạng xã hội giúp phát triển năng lực hợp tác, tương tác trên quy mô rộng lớn, xóa nhòa khoảng cách về không gian, khắc phục bất bình đẳng về tầng lớp và hoàn cảnh, tạo ra sự đoàn kết mang tính quốc gia, quốc tế. + Mạng xã hội khiến con người trở nên vị tha hơn, hành động và cư xử với nhau nhân văn hơn, tính cộng đồng lớn mạnh hơn nhờ sự chia sẻ, kết nối giữa các thành viên trong phạm vi rộng lớn. - Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực trên, mạng xã hội cũng mang đến những hệ lụy không nhỏ cho học sinh THPT + Nguy cơ loạn thông tin, dẫn đến biến trẻ em thành “thùng thông tin” nếu không được định hướng xử lí, sàng lọc và khai thác thông tin + Nguy cơ nhiễm độc từ các thông tin xấu, tiêu cực, phi giáo dục + Nguy cơ có hành vi trái pháp luật do ảnh hưởng từ mạng xã hội + Nguy cơ nghiện mạng xã hội dẫn đến ảnh hưởng nghiêm trọng đến học tập, quan hệ xã hội dẫn tới hiện tượng trơ lì cảm xúc và lối sống ích kỉ do quá lệ thuộc mạng xã hội. Các em dần mất đi khả năng nhìn nhận đánh giá khách quan, dễ bị định hướng dư luận. 7
- + Nguy cơ có hành vi trái pháp luật do ảnh hưởng từ mạng xã hội, không làm chủ hành vi của mình, bị dẫn dắt bởi định hướng dư luận, a dua mạng dẫn đến lệch lạc về nhận thức, hành vi, nảy sinh bạo lực mạng gây haauk quả nghiêm trọng đến danh dự nhân phẩm, thậm chí tính mạng của người khác + Trở thành nạn nhân của bạo lực mạng do bị khống chế, đe dọa, lừa đảo, lạm dụng và ép buộc 1.1.4. Những đặc điểm tâm lí chủ yếu của học sinh trung học phổ thông Từ những phân tích các phẩm chất cũng như các yếu tố tác động đến tâm lí lứa tuổi học sinh THPT, chúng tôi rút ra những đặc điểm tâm lí cơ bản của lứa tuổi này như sau: - Học sinh THPT là lứa tuổi mộng mơ, khao khát sáng tạo, thích cái mới lạ, chuộng cái đẹp hình thức bên ngoài, có mới nới cũ, … - Lứa tuổi này rất hăng hái nhiệt tình trong công việc, lạc quan yêu đời nhưng cũng rất dễ bi quan chán nản khi gặp thất bại - Đây là lứa tuổi đang phát triển về tài năng, tiếp thu cái mới nhanh, thông minh sáng tạo nhưng cũng dễ sinh ra chủ quan, nông nổi, kiêu ngoa, ít chịu học hỏi đến nơi đến chốn. Thích hướng về tương lai, ít chú ý đến hiện tại và dễ quên quá khứ. - Học sinh THPT có lí tưởng, khát vọng và hoài bão. Tuy nhiên ở một số học sinh tình cảm cách mạng và lí tưởng phấn đấu yếu, trình độ giác ngộ nhận thức về xã hội còn thấp. Một số khác có thái độ coi thường lao động chân tay, thích sống xa hoa lãng phí, ăn chơi đua đòi theo bè bạn. Sống ích kỉ, chỉ biết đòi hỏi cho bản thân.. - Các em rất nhạy bén với công nghệ nhưng cũng dễ bị định hướng dư luận và dễ bị kéo vào các hành động xúc phạm danh dự và nhân phẩm người khác trên mạng xã hội, dẫn tới những mâu thuẫn đáng tiếc. Hệ lụy để lại vô cùng lớn, thậm chí không có cơ hội sửa chữa. 1.2. Tư vấn tâm lí bậc trung học phổ thông 1.2.1. Khái niệm Tư vấn là khái niệm chỉ một hoạt động chuyên môn hoặc một nghề nghiệp chuyên giúp người khác đưa ra quyết định và giải quyết vấn đề, nâng cao năng lực của cá nhân bằng những phương pháp, nghiệp vụ chuyên môn. Người chuyên làm nghề này được gọi là nhà tư vấn. Trong lĩnh vực tư vấn tâm lí, khái niệm tư vấn còn được hiểu ở nghĩa rộng hơn, không đơn thuần là việc cho lời khuyên mà còn là quá trình tư vấn vận dụng những tri thức, phương pháp và kĩ năng nghề nghiệp nhằm trợ giúp đối tượng được tư vấn nhận ra chính mình, từ đó tự thay đổi hành vi, thái độ, tái lập lại thế cân bằng tâm lí cho bản thân ở mức độ cao hơn. 8
- Như vậy có thể nói tư vấn mang đến những điều tích cực, thuận lợi cho người khác khi họ đang gặp khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống hay học tập và công việc. Trong giới hạn của đề tài này, chúng tôi sử dụng khái niệm tư vấn với nghĩa rộng nhất là hoạt động của giáo viên, giáo viên kiêm nhiệm công tác tư vấn tâm lí giúp học sinh trong hoạt động giáo dục và cuộc sống. 1.2.2. Tư vấn tâm lí trong nhà trường trung học phổ thông Bản chất hoạt động hỗ trợ tâm lí học đường là giúp đỡ học sinh gặp khó khăn trong vấn đề tâm lí, những khó khăn cản trở sự phát triển toàn diện của các em. Thông tư 31/2017/TT-BGDĐT ngày 18/12/2017 về hướng dẫn công tác tư vấn tâm lí trong trường phổ thông, hoạt động tư vấn tâm lí trong nhà trường được hiểu là: “ là hỗ trợ tâm lí, giúp học sinh nâng cao hiểu biết về bản thân, hoàn cảnh gia đình, mối quan hệ xã hội, từ đó tăng cảm xúc tích cực, tự đưa ra quyết định trong tình huống khó khăn học sinh gặp phải khi đang học tại nhà trường”. Hoạt động tư vấn tâm lí trong nhà trường phổ thông bao gồm các mức độ hỗ trợ khác nhau như: phòng ngừa, tư vấn và can thiệp khi cần thiết. Với vị trí, kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm của mình, giáo viên có thể xây dựng các nội dung dựa trên nhu cầu của học sinh (qua tìm hiểu, khảo sát) để chủ động hơn trong hỗ trợ tư vấn tâm lí cho học sinh. Tư vấn tâm lí trong trường THPT có điểm thuân lợi là hiểu về đối tượng nên có thể đưa ra được tư vấn, giải pháp phù hợp nhất. Tuy nhiên, khó khăn gặp phhair là học sinh rất ngại vì sợ cô thầy biết được những khúc mắc trong gia đình, bản thân. Đây là một rào cản không hề nhỏ trong quá trình tư vấn tâm lí trong nhà trường. Vậy vấn đề đặt ra là phải có hình thức tư vấn đa dạng. Có bí mật, có công khai. Có hướng về cá nhân nhưng cũng có khi phải hướng về chung chung một lớp đối tượng. Có đa dạng hình thức cũng như nội dung tiếp cận thì công tác tư vấn tâm lí trong nhà trường mới đạt mục tiêu của Chương trình giáo dục phổ thông mới đề ra. 1.3. Điểm mới trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018 và môn Ngữ văn 1.3.1. Những điểm mới trong chương trình giáo dục phổ thông 2018 Từ năm học 2022, Chương trình giáo dục phổ thông 2018 bắt đầu triển khai với học sinh lớp 10 trong cả nước. Có thể thấy điểm nổi bật của chương trình giáo dục phổ thông 2018 là việc giảm tải số tiết và các môn học thay đổi theo hướng tích hợp, hướng tới vận dụng trong thực tế nhiều hơn. Việc kiểm tra, đánh giá cũng đa dạng và mang tính quá trình, tạo nên sự thoải mái cho học sinh, giúp các em tìm thấy niềm vui trong học tập. Khi thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018, tính tích cực vài vai trò của người học được đề cao nên học sinh có cơ hội được phát triển toàn diện các năng lực và phẩm chất cần có của người công dân trong xã hội hiện đại; giảm tải kiến thức, chú trọng thực hành trải nghiệm để học sinh được tiếp cận với năng lực và phẩm chất cần có; được phát triển các năng lực hành động 9
- của bản thân qua việc thực hiện các chuyên đề học tập; được phát huy đến mức tối đa sự tự giác, chủ động, sáng tạo trong quá trình học tập. Những thay đổi trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018 cũng đặt ra một số thách thức co học sinh THPT như sau: - Trước hết, cấu trúc chương trình phổ thông 2018 thay đổi so với chương trình hiện hành có thể gây ra những xáo trộn nhất định, khiến một số học sinh chưa kịp thích ứng và cảm thấy lo lắng, căng thẳng. Nhất là học sinh cuối cấp THPT khi các em phải đối diện với kì thi quan trọng của cuộc đời – thi đại học và sự thay đổi các môn học có thể dẫn tới sự thay đổi yêu cầu của các kì thi do đó khiến sự lo lắng, căng thẳng của học sinh có thể nhiều hơn. - Khác với chương trình phổ thông hiện hành, chương trình phổ thông 2018 đặt ra mục tiêu rất cụ thể về phẩm chất (yêu nước, chăm chỉ, trách nhiệm, trung thực và nhân ái) và năng lực chung (năng lực tự chủ và tự học; năng lực giao tiếp và hợp tác; năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo) cùng các năng lực đặc thù của từng môn học. Những yêu cầu này có thể dẫn đến khó khăn tâm lí cho học sinh trong việc đáp ứng yêu cầu chuẩn đầu ra về phẩm chất và năng lực trên. Vì thế sự tư vấn, hỗ trợ của giáo viên cho học sinh trong hoạt động giáo dục và dạy học để đáp ứng mục tiêu chung là vô cùng cần thiết. - Những thay đổi của chương trình sẽ dẫn tới sự thay đổi về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, do vậy học sinh cần hình thành kĩ năng tự học, năng lực thích ứng với hoàn cảnh mới, tránh tâm lí chán nản, mất động cơ học tập - Ngoài ra, chương trình mới chú trọng phát huy tinh thần hợp tác, kĩ năng làm việc nhóm nhằm khuyến khích học sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập có tính chất tích hợp và phân hóa một cách hiệu quả nhất. Đây vừa là cơ hội để học sinh phát triển bản thân nhưng cũng là thách thức đối với nhiều học sinh THPT hiện nay. 1.3.2. Những đổi mới chương trình môn Ngữ văn Ngữ văn là môn học thuộc lĩnh vực Giáo dục ngôn ngữ và văn học, được học từ lớp 1 đến lớp 12. Ở cấp tiểu học, môn học này có tên là Tiếng Việt; ở cấp THCS và cấp THPT có tên là Ngữ văn. Ngữ văn là môn học mang tính công cụ và tính thẩm mĩ - nhân văn; giúp học sinh có phương tiện giao tiếp, làm cơ sở để học tập tất cả các môn học và hoạt động giáo dục khác trong nhà trường; đồng thời cũng là công cụ quan trọng để giáo dục học sinh những giá trị cao đẹp về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc; phát triển ở học sinh những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha,... Thông qua các văn bản ngôn từ và những hình tượng nghệ thuật sinh động trong các tác phẩm văn học, bằng hoạt động đọc, viết, nói và nghe, môn Ngữ văn có vai trò to lớn trong việc giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất 10
- tốt đẹp cũng như các năng lực cốt lõi để sống và làm việc hiệu quả, để học suốt đời. Nội dung môn Ngữ văn mang tính tổng hợp, liên quan mật thiết với cuộc sống thường ngày, giúp học sinh biết quan tâm, gắn bó với đời sống thường nhật, biết vận dụng các kĩ năng giải quyết vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Chương trình được thiết kế theo các mạch chính tương ứng với các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe. Kiến thức tiếng Việt và văn học được tích hợp trong quá trình dạy học đọc, viết, nói và nghe. Các ngữ liệu được lựa chọn và sắp xếp phù hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh ở mỗi cấp học. Mục tiêu của giai đoạn này là giúp học sinh sử dụng tiếng Việt thành thạo để giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống và học tập tốt các môn học, hoạt động giáo dục khác; hình thành và phát triển năng lực văn học, một biểu hiện của năng lực thẩm mĩ; đồng thời bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm để học sinh phát triển về tâm hồn, nhân cách, vận dụng các kĩ năng vào giải quyết các vấn đề trong thực tiễn. Mục tiêu chung của môn Ngữ văn là: - Hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất chủ yếu: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm; bồi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách và phát triển cá tính. Môn Ngữ văn giúp học sinh khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, có đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn; có tình yêu đối với tiếng Việt và văn học; có ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá Việt Nam; có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và khả năng hội nhập quốc tế. - Góp phần giúp học sinh phát triển các năng lực chung: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Đặc biệt, môn Ngữ văn giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học: rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe; có hệ thống kiến thức phổ thông nền tảng về tiếng Việt và văn học, phát triển tư duy hình tượng và tư duy logic, góp phần hình thành học vấn căn bản của một người có văn hoá; biết tạo lập các văn bản thông dụng; biết tiếp nhận, đánh giá các văn bản văn học nói riêng, các sản phẩm giao tiếp và các giá trị thẩm mĩ nói chung trong cuộc sống, biết vận dụng những tri thức để giải quyết các tình huống đời sống. Như vậy cốt lõi của chương trình Ngữ văn là hình thành những phẩm chất và năng lực cốt yếu để phát triển toàn diện cho học sinh. Bởi vậy việc lồng ghép tư vấn, hỗ trợ tâm lí vào trong môn học là điều rất cần thiết để đạt một trong những mục tiêu chung của bộ môn. Đồng thời cũng là một yếu tố nâng cao vị thế của môn Ngữ văn trong Chương trinhg giáo dục phổ thông mới. 11
- Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 2.1. Bạo lực mạng xã hội Trong xã hội hiện đại, khi mà mạng Internet ngày càng phát triển, bên cạnh những lợi ích vô song mà nó đem lại cho cuộc sống con người, cũng không thể phủ nhận những hậu quả tiêu cực nặng nề mà nó mang đến. Trong đó, phải kể đến hình thức bạo lực mạng thường xuyên xuất hiện trong những năm gần đây. Nó trở thành một vấn nạn không hồi kết với những hệ lụy vô cùng lớn. Mạng xã hội trở thành một không gian ảo đầy an toàn cho kẻ xấu, chúng đe dọa, bắt nạt thậm chí là ngược đãi về mặt tinh thần đối với mọi người thông qua điện thoại, máy tính bằng những bình luận tiêu cực trên mạng xã hội; những tin nhắn bôi xấu; những bức ảnh bị ghép phản cảm; những tin đồn vô căn cứ; gửi email xúc phạm thậm chí phát tán video làm nhục người khác… Có thể hiểu đơn giản, đó chính là bạo lực mạng. (Nguồn ảnh Internet) Nhiều người nghĩ mạng là thế giới ảo làm sao ảnh hưởng đến cuộc sống thực tế được, nhưng điều này hoàn toàn sai lầm. Bạo lực mạng diễn ra trực tuyến, nhưng nó ảnh hưởng đến những người ngoại tuyến và có tác động đến thế giới thực, khiến nạn nhân có thể bị sợ hãi, lo lắng hoặc đáng sợ hơn là kẻ xấu chi phối hành động ngoài đời thật của nạn nhân. Từ đó có thể thấy, tác hại của bạo lực mạng là vô cùng lớn. Cho đến nay, khi giới trẻ ngày càng phát triển nhanh và tiếp cận sớm với mạng xã hội, những câu chuyện bạo lực mạng không còn xa lạ, đôi khi là diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Đặc biệt là ở lứa tuổi THPT, lứa tuổi dễ bị tác động nhất bới 12
- bạo lực mạng xã hội. Bạo lực mạng tưởng không nguy hiểm mà lại nguy hiểm không tưởng. Đã có không ít những hậu quả đáng buồn xảy ra, nhẹ thì bị ảnh hưởng tâm lý, trầm cảm, nặng hơn nữa đôi khi là những hành động nghĩ quẩn, mất đi sự sống. Và ngay cả khi những học sinh bị bạo lực mạng có mạnh mẽ vượt qua những giây phút này, thì đằng sau đó, hệ quả để lại không hề bị mất đi. Những lời nói xuyên tạc, bôi nhọ đã xuất hiện ảnh hưởng đến danh dự các em ai sẽ là người giải quyết? Những ảnh hưởng về tâm lý, tinh thần ai sẽ là người chữa lành? Nặng nề hơn, những bệnh tật hay mất mát xảy ra, ai sẽ là nguời chịu trách nhiệm? 2.2. Thực trạng bạo lực mạng xã hội tại trường THPT Đô Lương 2 Để nắm được thực trạng của tình trạng bạo lực mạng xã hội tại trường THPT Đô lương 2, chúng tôi đã tiến hành khảo sát học sinh của trường qua đường link: https://forms.gle/kssKKoNLLhha9JKr8 với câu hỏi: Bản thân em đã bị bạo lực mạng chưa? Kết quả thu về như sau: Biểu đồ 2.1. Thực trạng bạo lực mạng xã hội tại trường THPT Đô Lương 2 (Biểu đồ trích xuất trên Google forms) Qua khảo sát 150 em kết quả có 37/150 học sinh trả lời đã từng bị tấn công bởi bạo lực mạng xã hội, chiếm tỉ lệ 24,7%. Con số này mặc dù chỉ là một phần nổi của tảng băng chìm nhưng cũng cho chúng ta thấy thực trạng bị bạo lực mạng ở lứa tuổi THPT đáng báo động. Từ năm học 2019 đến 2022, trong vai trò là một thành viên của tổ tâm lí học đường, chúng tôi đã trực tiếp tư vấn, hỗ trợ cho 20 trường hợp bị bạo lực mạng xã hội một cách nghiêm trọng. Có 2 em bị tung hình ảnh nhạy cảm lên mạng xã hội, 5 em bị cắt dán hình ảnh phản cảm, số còn lại bị tấn công bằng lời bình luận ác ý, đầy miệt thị. Đây có thể chỉ là một số ít so với thực tế vì nhiều em khác đã im lặng và không tìm đến tổ tư vấn tâm lí. Trong số đó, có một trường hợp dẫn tới tình trạng bị sốc tâm lí và stress nặng, tự tổn thương chính minh, chúng tôi phải tư vấn gia đình đưa em đi khám bác sĩ tâm lý và sử dụng thuốc. 13
- Rõ ràng, bạo lực mạng xã hội chính là một vấn nạn không hồi kết và để lại những hậu quả vô cùng nặng nề. Hơn ai hết, chúng tôi hiểu rắng, bất cứ học sinh nào, kể cả con cái chúng ta đều có thể trở thành nạn nhân của bạo lực mạng xã hội. Và chúng ta cũng có thể lường được hậu quả nặng nề đến mức độ nào nếu các em không được hỗ trợ kịp thời, nhất là về mặt tâm lí. Đừng để điều đáng tiếc xảy ra rồi mới ân hận, mới tiếc xót, mới nghĩ “giá như”. Chúng ta đã và đang cùng một lúc chúng ta đóng nhiều vai trò trong việc định hướng cho sự phát triển toàn diện từ phẩm chất đến các năng lực, trong đó có những năng lực ứng phó với các tình huống liên quan đến bạo lực mạng xã hội. Rõ ràng, với học sinh THPT, thầy cô phải là những người đầu tiên phát hiện, hỗ trợ và giúp đỡ học sinh mình vượt qua khủng hoảng của hiện tượng bạo lực mạng. Bởi lẽ chúng ta chính là người tiếp xúc hàng ngày với các em, mọi biểu hiện của các em chúng ta đều có thể nhận thấy. Vì vậy chúng ta phải có những giải pháp đồng bộ để hướng dẫn học sinh cách ứng phó với bạo lực mạng xã hội để các em biết cách tự bảo vệ bản thân mình trước những tấn công, bắt nạt từ mạng xã hội. Làm chỗ dựa tinh thần vững chắc cho các em, có nhơ thế chúng ta mới góp phần đẩy lùi và ngăn chặn những hậu quả nghiêm trọng xảy ra với các em. Thực tế, trong quá trình dạy học, chúng ta, những giáo viên bộ môn và cả giáo viên chủ nhiệm vẫn thường trao đổi với các em những kĩ năng sống liên quan khi phát hiện một bạn trong ;ớp đang vướng phải. Tuy nhiên, cách làm của chúng ta vẫn mang tính tự phát, hổng đâu vá đó. Cái chúng ta cần là tính hệ thống xuyên suốt và tính bền vững khi triển khai các nội dung thiết thực cần tư vấn hỗ trợ tâm lí cho các em học sinh. Làm thế nào để những vấn đề này đến với học sinh một cách đầy đủ nhất, để các em có thể vận dụng để xử lý các tình huống trong cuộc sống của mình. Lẽ dĩ nhiên chúng tôi cũng không quá tham vọng rằng học sinh sẽ xử ;ý tốt tất cả những tình huống nảy sinh khi đã được học, tìm hiểu các vấn đề liên quan đến tâm lí qua các giờ học trên lớp, nhưng chúng tôi tin tưởng nếu chúng ta trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết thì ít nhất chúng ta sẽ tránh được hậu quả nặng nề nhất cho các em. Các em cũng hạn chế được tối đa sự hoang mạng tột cúng và mất phương hướng. Nhứng suy nghĩ và trăn trở này là động lực để chúng tôi tiến hành nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp ở đề tài này. 2.3. Thực trạng công tác tư vấn tâm lí cho học sinh Tư vấn tâm lí học đường là một trong những hình thức hỗ trợ và chăm sóc sức khỏe tinh thần cho các em học sinh phổ biến trên thế giới đặc biệt là các nước phát triển. Tại Việt Nam khi sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội gia tăng cùng với áp lực học tập và nhu cầu thực tiễn của học sinh. Tư vấn tâm lý học đường dần trở thành một trong những hình thức phổ cập trong các trường THPT. Tư vấn tâm lý học đường bao gồm các hoạt động tư vấn, sẻ chia, hỗ trợ tâm lý cũng như các vấn đề liên quan đến tâm lý, học tập, các mối quan hệ (bạn bè, gia 14
- đình…) cho học sinh. Từ đó, giúp cho các em lấy lại cân bằng về mặt cảm xúc, tự định hướng cho tương lai và đồng thời giúp phát hiện sớm hoặc can thiệp những sai lệch trong cảm xúc, hành vi hay nhận thức của các em trong cuộc sống nói chung và nhà trường nói riêng. Tư vấn tâm lý học đường được đánh giá là một trong những lĩnh vực rất quan trọng và có vai trò to lớn trong môi trường học đường. Tuy nhiên trên thực tế rất nhiều phụ huynh, học sinh chưa biết đến hình thức này hoặc còn mơ hồ về nó. Khiến cho tình trạng học sinh gặp các vấn đề về tâm lý học đường vẫn tiếp tục gia tăng nhưng lại có rất ít tiến triển dù từ cuối năm 2017 Tư vấn tâm lý học đường đã được phổ cập tại mọi trường học trên cả nước. Trên thực tế, mặc dù được phổ cập từ cuối năm 2017, các trường học đều lập Phòng tư vấn tâm lý học đường. Tuy nhiên hoạt động tư vấn, hỗ trợ tâm lí về cơ bản đang dừng lại ở những hành vi rối loạn về họa tập, đạo đức và thực sự chưa phát huy tận cùng vai trò của nó. Điều này có thể lí giải vì các trường không có chuyên gia tham vấn tâm lý, tức là chưa có người có chuyên môn sâu về lĩnh vự này. Mặt khác công tác tuyên truyền chưa được chú ý, nhiều học sinh và phụ huynh còn không biết có sự tồn tại của căn phòng này trong nhà trường trường. Vả lại, tư vấn còn nghiêng về giáo huấn do tổ tư vấn chưa có chuyên môn sâu về giải quyết các vấn đề tâm lí. Chính những điều này đã vô tình đẩy các em học sinh ra xa phòng tư vấn tâm lý học đường vì không thích đến hoặc không dám đến. Tư vấn tâm lý nói chung và tư vấn tâm lý học đường là những ứng dụng còn mới mẻ với đai đa số bộ phận người Việt. Mặc dù được nghiên cứu từ hàng trăm năm và phát triển ở rất nhiều quốc gia phát triển và đang phát triển trên thế giới cũng như trong khu vực. Tuy nhiên, tâm lý học và ứng dụng tâm lý học tại Việt Nam lại chưa thực sự phát triển. Đa số đến từ lối suy nghĩ cổ điển của người Việt ta (ngại chia sẻ, ngại nói về bản thân…). Vì vậy, không chỉ tư vấn tâm lý học đường mà tư vấn tâm lý mặc dù đã xuất hiện ở nước ta vài thập kỷ nay vẫn chưa thực sự phát triển và được biết đến rộng rãi. Ở các nhà trường THPT, các yếu tố liên quan đến tâm sinh lý học sinh chủ yếu được giao cho giáo viên chủ nhiệm. Tuy nhiên công việc của giáo viên chủ nhiệm quá nhiều, trong lớp lại nhiều học sinh nên khó bao quát hết vấn đề, khó nhận diện tình trạng của học sinh mình một các kịp thời. Có một số giáo viên thường chỉ nhìn nhận ở một phía, sau đó quy lỗi cho các HS của mình mà không tìm hiểu rõ nguyên nhân bên trong, thậm chí có giáo viên còn dùng các hình phạt với HS làm cho mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh ngày càng xa cách. HS không muốn chia sẻ cùng giáo viên chủ nhiệm vì nghĩ giáo viên chủ nhiệm sẽ không tin mình. Bởi vậy trước mặt giáo viên, nhiều HS không muốn nói về chuyện của mình, các em tỏ ra ngang bướng khiến giáo viên phải dung biện pháp là đưa các em này lên gặp Ban giám hiệu. Sau đó Ban giám hiệu lại mời phụ huynh của các em lên để làm việc. Nhiều phụ huynh khi biết được con cái học hành sa sút, bị 15
- sự khiển trách thì tỏ ra tức giận trách phạt và lại đỗ mọi lỗi là do các em gây ra. Chính vì vậy mà HS tỏ ra chán nản, mất niềm tin, trầm cảm,… Nhìn chung đã đến lúc vấn đề tư vấn tâm lý học đường cần được quan tâm đúng mức. Có một số trường quan tâm đến việc tư vấn học đường cho học sinh, đã tin tưởng, tận dụng đội ngũ giáo viên sẵn có trong trường để làm công tác tư vấn. Tuy nhiên đội ngũ giáo viên trong các trường chỉ có trình độ chuyên môn sư phạm chứ chưa có điều kiện để tham gia vào các lớp tập huấn về tâm lý học đường, chưa được tiếp cận cụ thể các tình huống tâm lý và cách giải quyết tình huống từ góc độ tâm lý học nên vẫn có "khoảng trống" trong tư vấn học đường. Thêm nữa, ngành tâm lý học đường tại Việt Nam cũng chưa thực sự phát triển (hiện nay chưa có bất cứ một trường đại học nào đào tạo chuyên sâu về tư vấn học đường). Đa số những nhà tâm lý học đường đều đi du học từ nước ngoài về hoặc được đào tạo tâm lý học chính quy. Vì vậy, việc cán bộ, giáo viên nhà trường chưa thực sự nhận thấy tầm quan trọng cũng như vai trò của tư vấn tâm lý học đường đối với học sinh của mình cũng là điều hoàn toàn dễ hiểu. Trường THPT Đô Lương 2 là một trong những trường rất chú trọng công tác tư vấn tâm lí. Ngay từ khi có hướng dẫn của Bộ Giáo dục, chúng tôi đã tiến hành thành lập tổ tư vấn tâm lí. Và tổ tư vấn đã hoạt động khá đều tay từ đó cho đến nay. Tuy nhiên, xuất phát từ nhiều lí do khác nhau mà chúng tôi nhận thấy, các trường hợp khi được đề xuất tư vấn, hỗ trợ tâm lí chủ yếu là do giáo viên chủ nhiệm kiến nghị lên. Gần như rất ít học sinh chủ động tìm đến tổ tư vấn tâm lí. Khi được hỏi, bạn Nguyễn Thị Thu H, một học sinh đc giáo viên kiến nghị hỗ trợ tâm lí, tôi đã đặt câu hỏi tại sao em không tìm đến các cô sớm hơn. Câu trả lời là: Em rất ngại và không biết bắt đầu từ đâu? Với lại em sợ các cô không tin em…Tôi tin câu trả lời này không phải là số ít nếu như không muốn nói đây là lí do chủ yếu mà phần đa học sinh gặp khó khăn trong vấn đề tâm lý nhưng không tìm đến sự hỗ trợ từ tổ tư vấn tâm lý. Cũng chính câu trả lời của học sinh khiến chúng tôi suy nghĩ rất nhiều về vai trò của tổ tư vấn tâm lý trong trường THPT. Các em đang trong tâm thế rất hoang mang, lại phải đứng trước việc lựa chọn tin tưởng ai, tìm kiếm ai để có thể tin cậy, điều này khiến áp lực càng đè nặng lên tâm lý của các em. Và khi tâm lý đã mất phương hướng thì mọi hành động kéo theo sau đó sẽ mất khả năng kiểm soát. Chúng tôi cũng trăn trở kiếm tìm giải pháp để vượt qua rào cản sự e ngại đó. Thực tế cho thấy, nhiệm vụ chính của những thành viên trong tổ tư vấn tâm lí là hoạt động dạy học. Thời gian lên lớp chủ yếu vẫn để hoàn thành mục tiêu bài học, và thường khi giáo viên đã phát hiện ra thì sự việc cũng đã kéo dài một thời gian, đã ảnh hưởng trầm trọng đến cuộc sống của các em. Thậm chí đã có những biểu hiện tiêu cực. Đây chính là lí do chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài lồng ghép tư vấn tâm lí trong giờ dạy học. Mục đích là để học sinh có thể chủ động ntrong các vấn đề của nhính bản thân mình. Ít nhất các em biết bản thân phải làm gì trước khi tìm đến sự hỗ trợ tư vấn từ thấy cô và gia đình. 16
- Quyết định thành lập tổ tư vấn tâm lý từ năm Phòng tư vấn tâm lý học đường của trường học 2018-2019 đến 2021-2022 của trường THPT Đô Lương 2 THPT Đô Lương 2 Mã hồ sơ Tư vấn học đường lưu tại Hình ảnh phòng tư vấn tâm lý trường THPT Đô Lương 2 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"
14 p | 190 | 28
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số ứng dụng của số phức trong giải toán Đại số và Hình học chương trình THPT
22 p | 175 | 25
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động khởi động nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh khi dạy học môn Toán lớp 10
44 p | 65 | 19
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p | 139 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học môn Sinh thông qua tổ chức các hoạt động nhóm tích cực tại trường THPT Lê Lợi
19 p | 54 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp rèn luyện kĩ năng điều chỉnh và quản lí cảm xúc nhằm hình thành khả năng ứng phó với căng thẳng của học sinh trường THPT Kim Sơn C
50 p | 15 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng giải bài toán trắc nghiệm về hình nón, khối nón
44 p | 22 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 trường THPT Yên Định 3 giải nhanh bài toán trắc nghiệm cực trị của hàm số
29 p | 34 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng mô hình học tập Blended Learning trong dạy học chủ đề 9 Tin học 11 tại Trường THPT Lê Lợi nhằm nâng cao hiệu quả học tập
16 p | 22 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng xử lí hình ảnh, phim trong dạy học môn Sinh học
14 p | 37 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo mô hình STEM bài Sự điện li của nước. pH. Chất chỉ thị axit – bazơ và bài Ankan, Hoá học 11 ở trường THPT
56 p | 18 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh khai thác có hiệu quả kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí 11
28 p | 65 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp tính khoảng cách trong hình học không gian lớp 11
35 p | 18 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giúp học sinh trung bình và yếu ôn tập và làm tốt câu hỏi trắc nghiệm chương 1 giải tích 12
25 p | 25 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hình thành và phát triển tư duy phê phán cho học sinh thông qua thí nghiệm hóa học
49 p | 21 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hình học hóa bài toán số phức
39 p | 34 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh cách vẽ hình chiếu trục đo (HCTĐ) của vật thể bằng cách dựng mặt phẳng cơ sở
26 p | 7 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn