intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khơi dậy niềm đam mê học tập Vật lý cho học sinh thông qua việc hiện đại hóa nội dung dạy học

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:48

84
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Khơi dậy niềm đam mê học tập Vật lý cho học sinh thông qua việc hiện đại hóa nội dung dạy học" nhằm nghiên cứu “Hiện đại hóa nội dung dạy học” bộ môn Vật lý áp dụng vào chương trình bộ môn Vật lý THPT nhằm tạo hứng thú đam mê môn học góp phần phát triển năng lực cho học sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khơi dậy niềm đam mê học tập Vật lý cho học sinh thông qua việc hiện đại hóa nội dung dạy học

  1. SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 2 ---------  --------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: KHƠI DẬY NIỀM ĐAM MÊ HỌC TẬP VẬT LÝ CHO HỌC SINH THÔNG QUA VIỆC HIỆN ĐẠI HÓA NỘI DUNG DẠY HỌC Môn: Vật lý Tác giả: Trần Văn Quang Tổ chuyên môn: Tự nhiên Năm thực hiện: 2021 - 2022 Điện thoại: 0988.696.273
  2. MỤC LỤC PHẦN I . ĐẶT VẤN ĐỀ .......................................................................................... 3 1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 3 2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 4 3. Đối tượng nghiêm cứu và thực nghiệm ............................................................. 4 4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 4 5. Những đóng góp của đề tài. ............................................................................... 4 PHẦN II. NỘI DUNG ............................................................................................... 6 1. Cơ sở lý luận của việc hiện đại hóa nội dung dạy học Vật lý ở trường THPT . 6 1.1. Tiếp cận nội dung và tiếp cận năng lực ....................................................... 6 1.1.1. Chương trình giáo dục định hướng nội dung dạy học .......................... 6 1.1.2. Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực ........................ 7 1.2. Hiện đại hóa nội dung giáo dục bộ môn Vật lý ........................................ 13 1.2.1. Hiện đại hóa nội dung giáo dục .......................................................... 13 1.2.2. Các hình thức hiện đại hóa nội dung giáo dục.................................... 14 2. Cơ sở thực tiễn của việc hiện đại hóa nội dung dạy học ................................. 18 2.1. Hiện trạng .................................................................................................. 18 2.2. Thuận lợi ................................................................................................... 19 2.3. Khó khăn ................................................................................................... 20 3. Giải pháp khơi dậy niềm đam mê học tập Vật lý cho học sinh thông qua việc hiện đai hóa nội dung dạy học ........................................................................ 20 3.1. Xây dựng một số kiến thức có thể thực hiện “Hiện đại hóa nội dung dạy học” trong chương trình vật lý cấp THPT ........................................................ 20 3.1.1. “Hiện đại hóa nội dung dạy học” chương trình vật lý 10. .................. 21 3.1.2. “Hiện đại hóa nội dung dạy học” chương trình vật lý 11. .................. 23 3.1.3. “Hiện đại hóa nội dung dạy học” chương trình vật lý 12. .................. 25 3.2. Tổ chức dạy học một số kiến thức vật lý theo hướng hiện đại hóa nội dung 27 3.2.1. Hiện đại hóa nội dung khi dạy bài: Khúc xạ ánh sáng thuộc vật lý 11. 27 3.2.2. Hiện đại hóa nội dung khi dạy chủ đề : Giao thoa ánh sáng chương trình vật lý 12. ..................................................................................... 31 3.2.3. “Hiện đại hóa nội dung dạy học” khi dạy bài : Laser ......................... 36 3.2.4. Hiện đại hóa nội dung dạy học thông qua bài tập .............................. 37 4. Thực nghiệm sư phạm ..................................................................................... 41 PHẦN III : KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ ................................................................... 43 1. Kết luận. ........................................................................................................... 43 2. Kiến nghị.......................................................................................................... 44 Tài liệu tham khảo ............................................................................................... 46 PHỤ LỤC............................................................................................................. 47 2
  3. PHẦN I . ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Hiện nay thế giới đang phát triển rất nhanh và mạnh về mọi mặt, cuộc cách mạng 4.0 đang bùng nổ và tác động tới từng người dân ở mọi quốc gia. Để thích ứng và phát triển Việt Nam chúng ta đã và đang hội nhập sâu rộng cùng với tất cả các nước trên thế giới về mọi mặt, việc hội nhập này đem lại cho chúng ta rất nhiều cơ hội và điều kiện để phát triển đất nước mình, nhưng để nắm bắt đồng thời tận dụng tốt các cơ hội và điều kiện phát triển đó thì yêu cầu mấu chốt và rất cấp thiết đó là chúng ta phải có được nguồn nhân lực trình độ cao, hơn nữa nguồn nhân lực này phải có được khả năng tự học nâng cao trình độ của chính mình để đáp ứng được yêu cầu thực tế của xã hội thường xuyên thay đổi. Từ yêu cầu tất yếu và cấp thiết trên dẫn đến ngành giáo dục chúng ta bắt buộc phải thực hiện “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” như đã đưa ra trong nghị quyết số: 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 và mới nhất đang diễn ra là nghành giáo dục chúng ta đang tập huấn cho toàn bộ giáo viên về chương trình giáo dục 2018 với trọng tâm chuyển đổi từ dạy học tiếp cận nội dung sang dạy học tiếp cận năng lực. Để thực hiện được việc đó người giáo viên phải đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học theo hướng hiện đại, coi trọng dạy cách học, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học đồng thời giáo viên cũng phải thường xuyên cập nhật các kiến thức khoa học mới cũng như các ứng dụng của khoa học và công nghệ để đưa vào giảng dạy phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Bộ môn vật lý có rất nhiều các kiến thức khoa học phải được cập nhật thường xuyên, về điều kiện sử dụng các định luật cũng như các ứng dụng của các kiến thức khoa học vật lý vào thực tiễn nghiên cứu khoa học và đời sống. Sách giáo khoa hiện hành cũng đã có thực hiện hiện đại hóa nội dung nhưng còn rất ít và vẫn còn mang nặng tính hàn lâm, sự liên hệ giữa kiến thức ở sách với thực tiễn còn quá ít. Mặt khác cách dạy học vẫn là dạy học tiếp cận nội dung phục vụ cho thi cử. Điều đó dẫn đến rất nhiều học sinh không có được đam mê hứng thú khi học môn vật lý mà các em chỉ học mang tính đối phó, sự thực thì ngày càng ít học sinh chọn học ban khoa học tự nhiên. Để khắc phục những tồn tại trên có rất nhiều giải pháp được đưa ra, nhưng một điều chắc chắn phải làm và đang làm đó là “Hiện đại hóa nội dung dạy học” (Bộ giáo dục và đào tạo đang biên soạn sách mới). Chúng ta phải đưa vật lý học hiện đại vào chương trình môn học phù hợp với năng lực nhận thức người học, trình bày kiến thức Vật lý cổ điển phù hợp với tư tưởng vật lý hiện đại, cập nhật các ứng dụng kỹ thuật của Vật lý vào nội dung môn học, cập nhật các thành tựu của vật lý đương đại vào bài học một cách phù hợp…Với suy nghĩ cá nhân như vậy cũng như cá nhân tôi đã thực hiện và đã thu được một số kết quả tích cực, cho 3
  4. nên tôi lựa chọn đề tài “Khơi dậy niềm đam mê học tập Vật lý cho học sinh thông qua việc hiện đai hóa nội dung dạy học" để góp phần vào công cuộc đổi mới giáo dục nói chung và thu hút học sinh đến với bộ môn Vật lý nói riêng đáp ứng với chương trình GDTHPT mới. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu “Hiện đại hóa nội dung dạy học” bộ môn Vật lý áp dụng vào chương trình bộ môn Vật lý THPT nhằm tạo hứng thú đam mê môn học góp phần phát triển năng lực cho học sinh 3. Đối tượng nghiêm cứu và thực nghiệm - Cơ sở lý luận về việc “Hiện đại hóa nội dung dạy học” - Xây dựng các nội dung dạy học Vật lý theo hướng hiện đại 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lý luận + Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa, sách giáo viên, sách bài tập (định tính và định lượng) để xác định nội dung, cấu trúc logic của các kiến thức mà học sinh cần nắm vững, từ đó xác định các nội dung cần hiện đại hóa để dạy cho học sinh một cách phù hợp + Nghiên cứu các tài liệu lý luận dạy học nhằm tìm hiểu cơ sở vai trò bộ môn Vật lý để “Hiện đại hóa nội dung dạy học” - Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế dạy học bộ môn Vật lý THPT + Tìm hiểu thực tế dạy học bộ môn Vật lý về nội dung và phương pháp thông qua dự giờ, trao đổi với giáo viên, sử dụng phiếu điều tra, phân tích kết quả và đề xuất một số nguyên nhân của những khó khăn, sai lầm và hướng khắc phục các hạn chế. + Điều tra quan niệm của học sinh liên quan đến nội dung và phương pháp dạy học bộ môn Vật lý. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm + Tiến hành thực nghiệm sư phạm. + Xử lý các kết quả thực nghiệm sư phạm. 5. Những đóng góp của đề tài. - Về lý luận Góp phần làm rõ thêm về cơ sở lý luận của việc cần thiết phải “Hiện đại hóa nội dung dạy học” bộ môn Vật lý THPT. - Về thực tiễn 4
  5. Xác định các phần kiến thức trong chương trình Vật lý THPT có thể thực hiện “Hiện đại hóa nội dung dạy học” và tổ chức dạy học một số kiến thức Vật lý theo hướng hiện đại hóa, từ đó đánh giá khả năng vận dụng vào thực tiễn. 5
  6. PHẦN II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận của việc hiện đại hóa nội dung dạy học Vật lý ở trường THPT 1.1. Tiếp cận nội dung và tiếp cận năng lực 1.1.1. Chương trình giáo dục định hướng nội dung dạy học Chương trình dạy học truyền thống hiện nay đang thực hiện có thể gọi là chương trình giáo dục “định hướng nội dung” hay dạy học “định hướng đầu vào”. Đặc điểm cơ bản của chương trình giáo dục định hướng nội dung là chú trọng việc truyền thụ hệ thống tri thức khoa học theo các môn học đã được quy định trong chương trình dạy học. Những nội dung của các môn học này dựa trên các khoa học chuyên ngành tương ứng. Người dạy chú trọng việc trang bị cho người học hệ thống tri thức khoa học khách quan về nhiều lĩnh vực khác nhau. Chương trình giáo dục hiện hành chưa chú trọng đầy đủ đến chủ thể người học cũng như đến khả năng ứng dụng tri thức đã học trong những tình huống thực tiễn. Mục tiêu dạy học trong chương trình hiện hành được đưa ra một cách chung chung, không chi tiết và không nhất thiết phải quan sát, đánh giá được một cách cụ thể nên không đảm bảo rõ ràng về việc đạt được chất lượng dạy học theo mục tiêu đã đề ra. Việc quản lý chất lượng giáo dục ở đây tập trung vào “điều khiển đầu vào” là nội dung dạy học. Ưu điểm của chương trình dạy học định hướng nội dung là việc truyền thụ cho người học hệ thống tri thức khoa học. Tuy nhiên ngày nay chương trình dạy học định hướng nội dung không còn thích hợp, trong đó có những nguyên nhân sau: - Ngày nay, tri thức thay đổi và bị lạc hậu nhanh chóng, việc quy định cứng nhắc những nội dung chi tiết trong chương trình dạy học dẫn đến tình trạng nội dung chương trình dạy học nhanh bị lạc hậu so với tri thức hiện đại, việc áp dụng kiến thức vào thực tiễn được đề cập đến rất ít. Do đó khó khăn trong việc tạo hứng thú học tập bộ môn và việc rèn luyện phương pháp học tập điều mà ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong việc chuẩn bị cho con người có khả năng học tập suốt đời. - Chương trình dạy học hiện hành dẫn đến xu hướng việc kiểm tra đánh giá chủ yếu dựa trên việc kiểm tra khả năng tái hiện tri thức mà không định hướng vào khả năng vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn. - Do phương pháp dạy học mang tính thụ động và ít chú ý đến khả năng ứng dụng nên kết quả là học sinh trở thành người mang tính thụ động, hạn chế khả năng sáng tạo và năng động. Do đó chương trình giáo dục này không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội và thị trường lao động đối với người lao động về năng lực hành động, khả năng sáng tạo và tính năng động. 6
  7. 1.1.2. Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực là một dạng của chương trình định hướng kết quả đầu ra, được bàn đến nhiều từ những năm 90 của thế kỷ 20 và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Giáo dục định hướng phát triển năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học. Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức. Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là “sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lý chất lượng dạy học chuyển từ việc điều khiển “đầu vào” sang điều khiển “đầu ra”, tức là kết quả học tập của học sinh. Chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực không quy định những nội dung dạy học chi tiết mà quy định những kết quả đầu ra mong muốn của quá trình giáo dục, trên cơ sở đó đưa ra những hướng dẫn chung về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy học nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu dạy học tức là đạt được kết quả đầu ra mong muốn. Trong chương trình định hướng phát triển năng lực, mục tiêu học tập, tức là kết quả học tập mong muốn thường được mô tả thông qua hệ thống các năng lực. Kết quả học tập mong muốn được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được. Người học cần đạt được những kết quả yêu cầu đã quy định trong chương trình. Việc đưa ra các chuẩn giáo dục cũng là nhằm đảm bảo quản lý chất lượng giáo dục theo định hướng kết quả đầu ra. Ưu điểm của chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực là tạo điều kiện quản lý chất lượng theo kết quả đầu ra đã quy định là hệ thống năng lực của người học. Tuy nhiên nếu vận dụng một cách thiên lệch, không chú ý đầy đủ đến nội dung dạy học thì có thể dẫn đến các lỗ hổng tri thức cơ bản và tính hệ thống của tri thức. Ngoài ra chất lượng giáo dục không chỉ thể hiện ở kết quả đầu ra mà còn phụ thuộc quá trình thực hiện. Về thành phần và cấu trúc năng lực Để hình thành và phát triển năng lực cần xác định các thành phần và cấu trúc của chúng. Có nhiều loại năng lực khác nhau. Việc mô tả cấu trúc và các thành phần năng lực cũng khác nhau. Cấu trúc chung của năng lực hành động được mô tả là sự kết hợp của 4 năng lực thành phần: Năng lực chuyên môn, năng lực phương pháp, năng lực xã hội, năng lực cá thể. 7
  8. - Năng lực chuyên môn: Là khả năng thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn cũng như khả năng đánh giá kết quả chuyên môn một cách độc lập, có phương pháp và chính xác về mặt chuyên môn. Nó được tiếp nhận qua việc học nội dung – chuyên môn và chủ yếu gắn với khả năng nhận thức và tâm lý vận động. - Năng lực phương pháp: Là khả năng đối với những hành động có kế hoạch, định hướng mục đích trong việc giải quyết các nhiệm vụ và vấn đề. Năng lực phương pháp bao gồm năng lực phương pháp chung và phương pháp chuyên môn. Trung tâm của phương pháp nhận thức là những khả năng tiếp nhận, xử lý, đánh giá, truyền thụ và trình bày tri thức. Nó được tiếp nhận qua việc học phương pháp luận – giải quyết vấn đề. - Năng lực xã hội : Là khả năng đạt được mục đích trong những tình huống giao tiếp ứng xử xã hội cũng như trong những nhiệm vụ khác nhau trong sự phối hợp chặt chẽ với những thành viên khác. Nó được tiếp nhận qua việc học giao tiếp. Mô hình bốn thành phần của năng lực dựa trên bốn trụ cột giáo dục Các thành phần năng lực Các trụ cột giáo dục của UNESO Năng lực chuyên môn Học để biết Năng lực phương pháp Học để làm Năng lực xã hội Học để cùng chung sống Năng lực cá thể Học để tự khẳng đinh - Năng lực cá thể : Là khả năng xác định, đánh giá được những cơ hội phát triển cũng như những giới hạn của cá nhân, phát triển năng khiếu, xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển cá nhân, những quan điểm, chuẩn giá trị đạo đức và động cơ chi phối các thái độ và hành vi ứng xử. Nó được tiếp nhận qua việc học cảm xúc – đạo đức và liên quan đến tư duy và hành động tự chịu trách nhiệm. Từ cấu trúc của khái niệm năng lực cho thấy giáo dục định hướng phát triển năng lực không chỉ nhằm mục tiêu phát triển năng lực chuyên môn bao gồm tri thức, kỹ năng chuyên môn mà còn phát triển năng lực phương pháp, năng lực xã hội và năng lực cá thể. Những năng lực này không tách rời nhau mà có mối quan hệ chặt chẽ. Năng lực hành động được hình thành trên cơ sở có sự kết hợp các năng lực này. Giáo dục theo năng lực trong trong việc phát triển nguồn nhân lực 8
  9. Nhược điểm phổ biến của thực tiễn giáo dục và đào tạo của nhiều nước trên thế giới thời gian qua đã được rất nhiều người, nhiều giới trong xã hội đề cập, từ các nhà nghiên cứu, các nhà giáo dục, những người sử dụng lao động, và thậm chí các bậc phụ huynh. Nhược điểm đó là hệ thống và các chương trình giáo dục và giáo dục của các trường hiện nay: + Quá nặng về phân tích lý thuyết, không định hướng thực tiễn và hành động. + Thíếu và yếu trong phát triển kỹ năng quan hệ qua lại giữa các cá nhân. + Thiển cận, hạn hẹp, không có tiếp cận toàn diện tổng thể trong những giá trị và tư duy. + Không giúp người học làm việc tốt trong các nhóm và đội làm việc. Trên cơ sở đó nhiều nhà nghiên cứu đề xuất là cần: “Thiết kế một cách cẩn thận các chương trình giáo dục và chú trọng giáo dục định hướng kết quả đầu ra theo hướng phát triển năng lực” có thể xem là một giải pháp tự nhiên để giải quyết hầu hết, nếu không phải là tất cả, những nhược điểm trên. Việc phát triển nguồn nhân lực được rất nhiều giới, ngành, các nhà chính trị, kinh doanh, nghiên cứu và giáo dục quan tâm trong thời gian gần đây. Điểm trung tâm của những nỗ lực phát triển nguồn nhân lực được mọi người nhất trí và chú trọng tập trung vào 2 chủ đề chính là “Học tập nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ”. Bằng việc chú trọng vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, tiếp cận dựa trên năng lực là rất phổ biến trên toàn thế giới. Tiếp cận năng lực được hình thành và phát triển rộng khắp tại Mỹ vào những năm 1970 trong phong trào giáo dục và giáo dục các nhà giáo dục và giáo dục nghề dựa trên việc thực hiện nhiệm vụ, các tiếp cận về năng lực đã phát triển một cách mạnh mẽ trên một nấc thang mới trong những năm 1990 với hàng loạt các tổ chức có tầm cỡ quốc gia ở Mỹ, Anh, Úc, New Zealand, xứ Wales, v.v... Xây dựng và giáo dục theo các tiêu chuẩn năng lực được thúc đẩy và khuyến khích bởi những áp lực chính trị của các nước, như là cách thức để chuẩn bị lực lượng lao động cho nền kinh tế cạnh tranh toàn cầu. Sở dĩ có sự phát triển mạnh mẽ này là do rất nhiều học giả và các nhà thực hành phát triển nguồn nhân lực xem tiếp cận này là cách thức có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất, để cân bằng giáo dục và những đòi hỏi tại nơi làm việc là “cách thức để chuẩn bị lực lượng lao động cho một nền kinh tế cạnh tranh toàn cầu” và là “câu trả lời mạnh mẽ đối với các vấn đề mà các tổ chức và cá nhân đang phải đối mặt trong thế kỷ thứ 21”. 9
  10. Các đặc điểm của giáo dục dựa trên năng lực - Tiếp cận năng lực dựa trên triết lý người học là trung tâm. - Tiếp cận năng lực đáp ứng các đòi hỏi của hoạt động nghề nghiệp. - Tiếp cận năng lực là định hướng cuộc sống thật, hoạt động nghề nghiệp thật. - Tiếp cận năng lực là rất linh hoạt và năng động. - Năng lực được hình thành ở người học một cách rõ ràng. Những đặc tính cơ bản trên dẫn tới những ưu điểm của giáo dục theo tiếp cận dựa trên năng lực là: + Giáo dục theo tiếp cận năng lực cho phép cá nhân hóa việc học (trên cơ sở mô hình năng lực, người học sẽ bổ sung những thiếu hụt của cá nhân để thực hiện những nhiệm vụ cụ thể của mình). + Tiếp cận năng lực chú trọng vào kết quả đầu ra. + Tiếp cận năng lực tạo ra những linh hoạt trong việc đạt tới những kết quả đầu ra, theo những cách thức riêng phù hợp với đặc điểm và hoàn cảnh của cá nhân. + Hơn nữa, tiếp cận năng lực còn tạo khả năng cho việc xác định một cách rõ ràng những gì cần đạt được và những tiêu chuẩn cho việc đo lường các thành quả. Việc chú trọng vào kết quả đầu ra và những tiêu chuẩn đo lường khách quan (tiêu chuẩn nghề) của những năng lực cần thiết để tạo ra các kết quả này là điểm được các nhà hoạch định chính sách giáo dục và phát triển nguồn nhân lực đặc biệt quan tâm nhấn mạnh. Do những đặc tính và ưu điểm của tiếp cận dựa trên năng lực, các mô hình năng lực và những tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp được xác định và sử dụng như là những công cụ cho việc phát triển rất nhiều chương trình giáo dục, giáo dục và phát triển khác nhau trên toàn thế giới. Đặc điểm cơ bản nhất có ý nghĩa trung tâm của giáo dục theo năng lực là định hướng và chú trọng vào kết quả đầu ra của quá trình giáo dục, điều đó có ý nghĩa rằng, từng người học có thể làm được cái gì trong một tình huống lao động nhất định theo các tiêu chuẩn đề ra. Một chương trình giáo dục theo năng lực là sự tái hiện sinh động và chi tiết một ngành nghề. Sự khác biệt giữa thiết kế chương trình theo năng lực với những chương trình giáo dục truyền thống chủ yếu qua các tiêu chí thể hiện năng lực và bối cảnh thực hiện tiêu biểu của ngành nghề. Trong giáo dục theo năng lực, một người có năng lực là người: - Làm được cái gì đó (liên quan tới nội dung chương trình giáo dục). - Làm tốt những cái đó như mong đợi (liên quan tới việc đánh giá kết quả học tập của người học theo tiêu chuẩn năng lực). 10
  11. Một người làm thông thạo cái gì đó sau một thời gian giáo dục dài, ngắn khác nhau tuỳ thuộc chủ yếu vào khả năng, nhịp độ học tập của người đó. Người học được coi là trung tâm và có cơ hội phát huy tích cực, chủ động của mình. Theo quan điểm “Học thông thạo” thì phương thức giáo dục theo năng lực không có quy định cứng nhắc về thời gian học. Đây là sự khác biệt cơ bản với phương thức giáo dục truyền thống định hướng vào chương trình học tập theo niên chế cố định về thời gian. Với tiếp cận năng lực, người học được phép tích luỹ tín chỉ năng lực về những gì đã học trước đó, không phải học lại những nội dung đã học một khi đã được công nhận đạt tiêu chuẩn qui định. Hai thành phần chủ yếu của giáo dục theo năng lực - Dạy và học các năng lực. - Đánh giá, xác nhận các năng lực. Việc xây dựng chương trình giáo dục theo năng lực chủ yếu nhằm xác định những năng lực cần có khi thực hành nghề nghiệp, biến những năng lực đó thành mục tiêu của chương trình. Một chương trình giáo dục được xem là “Theo năng lực” khi nó thoả mãn các đặc điểm dạy và học các năng lực, bao gồm: + Các năng lực mà người học sẽ thu nhận trong quá trình giáo dục cần phải có các đặc điểm: Thứ nhất : Được xác định từ việc phân tích nghề và công việc một cách nghiêm ngặt và đầy đủ. Thứ hai: Được trình bày dưới dạng những công việc mà những người hành nghề thực tế phải làm và/hoặc dưới dạng các hành vi và thái độ nghề nghiệp. Thứ ba: Được công bố cho người học biết trước khi vào học. + Việc dạy và học các năng lực phải được thiết kế và thực thi sao cho: Thứ nhất: Các học liệu thích hợp với năng lực, kiến thức được học ở mức độ cần thiết/thiết yếu đủ để hỗ trợ cho việc hình thành các năng lực, được dạy và học tích hợp với nhau. Thứ hai: Mỗi người học phải liên tục có được các thông tin phản hồi cụ thể về sự phát triển năng lực của mình. Thứ ba: Người học phải có đủ điều kiện học tập cần thiết, đặc biệt là điều kiện thực hành nghề. Đặc điểm về tổ chức quản lý quá trình dạy học Một chương trình giáo dục theo năng lực phải thể hiện được các đặc điểm về mặt tổ chức quản lý sau đây: - Việc hoàn thành chương trình là căn cứ vào sự thông thạo tất cả các năng lực đã xác định trong chương trình giáo dục theo tiêu chuẩn. 11
  12. - Không đặt ra yêu cầu “cứng” về thời lượng học tập bởi vì người học có thể học theo khả năng và nhịp độ của riêng mình, không phụ thuộc vào người khác, miễn là đủ thời gian để đạt được các năng lực. Điều đó cho phép người học có thể bắt đầu và kết thúc việc học ở các thời điểm khác nhau. - Hồ sơ học tập của từng cá nhân người học được lưu trữ đầy đủ. Người học có thể chuyển tiếp hoặc ra khỏi chương trình giáo dục mà không cần học lại những năng lực đã được công nhận thông qua hệ thống tín chỉ. - Tạo thuận lợi và cho phép công nhận những kết quả tích lũy ngoài trường học và qua kinh nghiệm sống, kinh nghiệm lao động trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản: nội dung học tập ngoài hệ thống của trường có thể có giá trị và có ý nghĩa; các kết quả học tập ngoài nhà trường có thể so sánh với những năng lực của chương trình giáo dục dẫn đến việc cấp văn bằng và được đánh giá trên cơ sở đó; việc đánh giá và công nhận kết quả học tập và kinh nghiệm đã tích lũy cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt những yêu cầu như đối với tình huống học tập bình thường; cách thức công nhận kết quả học tập và kinh nghiệm đã có hoàn toàn giống với cách thức đánh giá kết quả học tập trong nhà trường. Tuy nhiên, giáo dục theo năng lực cũng có những hạn chế nhất định, đó là: + Người học khó thích ứng nhanh với thay đổi của công việc trong thực tiễn hoạt động nghề do giáo dục thường tập trung vào một hoặc một số công việc cụ thể với những điều kiện nhất định. + Các điều kiện bảo đảm về môi trường giáo dục phải gắn với bối cảnh việc làm và với các trang thiết bị, nguyên vật liệu,... theo các chuẩn mực tổ chức sản xuất và phân công lao động của nghề nghiệp. Điều này dẫn đến chi phí đầu tư có thể sẽ rất cao đối với cơ sở dạy nghề. + Việc quản lý giáo dục phức tạp do chương trình giáo dục mang tính linh hoạt và cá nhân hóa người học rất cao. Đây cũng là thách thức đòi hỏi năng lực và trình độ quản lý giáo dục của các cơ sở dạy nghề. Dưới đây là bảng so sánh một số đặc trưng cơ bản của chương trình định hướng nội dung và chương trình định hướng phát triển năng lực. Bảng so sánh chương trình giáo dục định hướng nội dung và chương trình định hướng năng lực Các yếu tố CTGD tiếp cận nội dung CTGD tiếp cận năng lực GD Mục tiêu dạy học được mô Kết quả học tập cần đạt được mô Mục tiêu tả không chi tiết và không tả chi tiết và có thể quan sát, đánh nhất thiết phải quan sát, đánh giá được; thể hiện mức độ tiến bộ giá được của người học một cách liên tục 12
  13. Lựa chọn nội dung dựa vào Lựa chọn những nội dung nhằm các khoa học chuyên môn, đạt được kết quả đầu ra đã quy không gắn với các tình huống định, gắn với các tình huống thực Nội dung thực tiễn. Nội dung được quy tiễn. Chương trình chỉ quy định định chi tiết trong chương những nội dung chính, không quy trình. định chi tiết. GV là người truyền thụ tri GV chủ yếu là người tổ chức hỗ thức, là trung tâm của quá trợ người học tự lực và tích cực trình dạy học. lĩnh hội tri thức. Chú trọng sự phát triển khả năng giải quyết vấn đề, Phương khả năng giao tiếp…; pháp Chú trọng sử dụng các quan điểm, phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực; các phương pháp dạy học thí nghiệm, thực hành. Chủ yếu là dạy học lí thuyết Tổ chức hình thức học tập đa trên lớp dạng; chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học, Hình thức trải nghiệm sáng tạo; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học. Đánh giá Tiêu chí đánh giá được xây Tiêu chí đánh giá dựa vào năng kết quả dựng chủ yếu dựa trên sự ghi lực đầu ra, có tính đến sự tiến bộ học nhớ và tái hiện nội dung đã trong quá trình học tập, chú trọng học. các tình huống thực tiễn. khả năng vận dụng vào tập của HS 1.2. Hiện đại hóa nội dung giáo dục bộ môn Vật lý 1.2.1. Hiện đại hóa nội dung giáo dục Nội dung dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ giới hạn trong tri thức và kỹ năng chuyên môn mà gồm những nhóm nội dung nhằm phát triển các lĩnh vực năng lực: Học nội dung Học phương pháp, Học giao tiếp, xã hội Học tự trải nghiệm, chuyên môn chiến lược đánh giá 13
  14. - Lập kế hoạch học - Các tri thức - Làm việc trong Tự đánh giá điểm tập, kế hoạch làm chuyên môn (các nhóm mạnh, điểm yếu việc khái niệm, phạm - Tạo điều kiện cho - XD kế hoạch trù, quy luật, mối - Các phương pháp sự hiểu biết về phát triển cá nhân quan hệ…) nhận thức chung: phương diện xã hội - Đánh giá, hình Thu thập, xử lý, - Các kỹ năng - Học cách ứng xử, thành các chuẩn đánh giá, trình bày chuyên môn tinh thần trách mực giá trị, đạo thông tin; - Ứng dụng, đánh nhiệm, khả năng giải đức và văn hoá, - Các phương pháp giá chuyên môn quyết xung đột lòng tự trọng... chuyên môn Năng lực chuyên Năng lực phương Năng lực xã hội Năng lực cá nhân Môn pháp Môn Vật lý có khả năng to lớn trong việc thực hiện nhiệm vụ hình thành và phát triển cho người học năng lực chuyên môn, năng lực phương pháp; phương pháp dạy và học là điều kiện quyết định cho việc hình thành và phát triển năng lực giao tiếp và năng lực cá thể. Nhiệm vụ cụ thể của giáo dục Vật lý: (1) Trang bị tri thức chuyên môn: Các khái niệm, quy luật, học thuyết của Vật lý. (2) Hình thành các kỹ năng và phương pháp Vật lý. (3) Hình thành và phát triển năng lực tư duy, năng lực nhận thức, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. (4) Hình thành thế giới quan khoa học và nhân cách người lao động trong xã hội công nghiệp hiện đại. (5) Giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp. Trong đó, các tri thức chuyên môn được lựa chọn sao cho tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc thực hiện 4 nhiệm vụ còn lại và phù hợp với năng lực ngành nghề giáo dục. Nội dung dạy học Vật lý, trong bất cứ trường hợp nào cũng cần được hiện đại hóa tức là cập nhật được các thành tựu mới của khoa học Vật lý. - Làm rõ nội hàm của dạy học tiếp cận nội dung và dạy học tiếp cận phát triển năng lực. - Cơ sở của việc “Hiện đại hóa nội dung dạy học” đối với sự phát triển năng lực của người học. 1.2.2. Các hình thức hiện đại hóa nội dung giáo dục a. Đưa vật lý học hiện đại vào chương trình môn học phù hợp với năng lực nhận thức người học 14
  15. Vật lý học hiện đại chiếm một nội dung đáng kể của chương trình vật lý phổ thông hiện hành: Vật lý 12 gồm 4 phần: Lượng tử ánh sáng, Sơ lược về thuyết tương đối hẹp, Hạt nhân nguyên tử, Từ vi mô đến vĩ mô (hiện nay giảm tải). b. Trình bày kiến thức Vật lý cổ điển phù hợp với tư tưởng vật lý hiện đại - Giới thiệu giới hạn áp dụng của các định luật vật lý cổ điển. - Giới thiệu hạn chế của các lý thuyết cổ điển: thuyết động học phân tử về cấu tạo chất, thuyết hấp dẫn cổ điển, các thuyết về cấu trúc nguyên tử, các thuyết về bản chất ánh sáng,…. c. Cập nhật các ứng dụng kỹ thuật của Vật lý vào nội dung môn học Ứng dụng kỹ thuật của Vật lý là những thiết bị kỹ thuật sử dụng trong đời sống và sản xuất, hầu hết chúng đều có cấu tạo và hoạt động dựa trên các định luật vật lý. Những phát minh về lý thuyết đã nhanh chóng được ứng dụng để đưa đến các sáng chế kỹ thuật, đến lượt chúng cũng nhanh chóng được thương mại hóa và xâm nhập vào đời sống sản xuất thay thế các thiết bị lỗi thời. Cập nhật được các ứng dụng này vào nội dung dạy học vật lý là một cách gắn học với hành, góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dưỡng, giáo dục và giáo dục kỹ thuật tổng hợp. Ví dụ: - Trong lĩnh vực chiếu sáng, đèn compắc và đèn LED đã và đang thay thế đèn sợi đốt đèn cao áp và đèn huỳnh quang. - Các thiết bị kỹ thuật trong y học: siêu âm màu, máy chụp cắt lớp điện toán CT máy chụp cắt lớp cộng hưởng từ hạt nhân MRI, chụp ghi hình cắt lớp positron PET,… - Các thiết bị nghe nhìn: màn hình ống tia catốt CRT màu, màn hình tinh thể lỏng LCD, màn hình plasma. - Máy ảnh kỹ thuật số thay thế máy ảnh quang học, kính hiển vi điện tử thay thế cho kính hiển vi quang học, kính thiên văn vô tuyến, …. - Các thiết bị nhà bếp: Lò vi sóng, bếp từ, bếp hồng ngoại, bếp ga hồng ngoại, chảo/nồi không dính. - Thiết bị văn phòng: máy in LASER (thay cho máy in phun. - Máy bắn tốc độ trong giao thông. - ….. d. Cập nhật các thành tựu của vật lý đương đại vào bài học một cách phù hợp - Tàu cao tốc chạy trên đệm từ, vật liệu siêu dẫn, … - Giải Noben Vật lý hàng năm. - Các thông tin về nghiên cứu vũ trụ. 15
  16. - Các thông tin về nghiên cứu hạt cơ bản. ……. e. Xây dựng nội dung dạy học theo hướng tích hợp - Những mối liên hệ đồng bộ nhiều môn Khi nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên (vật lí, hóa học, sinh học, thiên văn) ở những mức khác nhau về cấu tạo chất (phân tử, nguyên tử, hạt nhân và các hạt cơ bản) xác lập được mối liên hệ giữa các tính chất của các đối tượng vật chất và cấu trúc bên trong của chúng. Sự chuyển kiến thức từ một lĩnh vực khoa học này vào các hoàn cảnh khác nhau của các lĩnh vực khác làm cho HS tin vào sức mạnh của kiến thức khoa học không chỉ ở kết cấu lôgic của một lĩnh vực nào đó của nó mà cả ở tính vạn năng, tính tổng quát của những luận điểm nền tảng của khoa học (chất và trường, các hình thức vận động của vật chất, các định luật bảo toàn, thuyết cấu tạo chất và định luật tuần hoàn của các nguyên tố hóa học của Men-Đê-Lê-ép, thuyết tế bào và trao đổi chất, tính di truyền, quan hệ tương hỗ của cơ thể và môi trường v.v..). Chính những luận điểm nền tảng này dùng làm cơ sở của nội dung các môn học. Sự lĩnh hội được những luận điểm nền tảng của khoa học, các nguyên lí của nó, kĩ năng rút ra được từ chúng những trường hợp riêng và vận dụng được chúng vào những môn học giáp ranh là trình độ cao của tính tự giác, tính bền vững và tính vận dụng được các kiến thức. Tất cả những điều đó giúp nâng cao trình độ khoa học của các môn học. Mối liên hệ nội dung dạy học vật lí với các môn khoa học xã hội cũng không kém phần quan trọng: môn lịch sử, giáo dục công dân, văn học đó là sự chứng tỏ vai trò của vật lí học và những ứng dụng kĩ thuật của nó trong sự phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội và sự nghiệp bảo vệ đất nước. - Những mối liên hệ (tương hỗ) không đồng bộ Do về thời gian giữa các môn học phải được thực hiện sao cho không phá vỡ cấu trúc lôgic của một môn nào trong số đó, vì thế mối liên hệ giữa các môn phải là mối liên hệ tương hỗ. Từ đó rút ra trong trường hợp nghiên cứu sơ bộ một khái niệm “không đồng bộ hóa được” ở một môn học giáp ranh là có lợi. Ví dụ: Giới thiệu cho HS khái niệm lực, vận tốc, gia tốc trong bài học vật lí sau đó hình thành các khái niệm về véc tơ, đạo hàm bậc nhất và bậc hai trong toán học, hoặc nghiên cứu định luật Avôgađrô trong môn hóa học, rồi cho nó một chứng minh toán học và xác định số Avôgađrô bằng thực nghiệm trong giờ học vật lí. Mỗi khái niệm Vật lý đòi hỏi một lôgic hình thành và sắp xếp trong hệ thống môn học, nên trình bày sâu sắc một số khái niệm ở môn giáp ranh, thực hiện sớm hơn, sẽ không thể và không cần phải đạt đến mức giải thích chúng với dung lượng (nội hàm) đầy đủ (dĩ nhiên là phù hợp với trình độ ở nhà trường, đối tượng HS). 16
  17. Ví dụ: Các định luật bảo toàn chỉ có thể nghiên cứu đầy đủ nhất trong giáo trình vật lí, lí thuyết hàm số trong giáo trình toán học, còn về hệ Mặt trời và bản chất của các đối tượng vũ trụ - trong các giờ học về thiên văn v.v… còn kiến thức sơ bộ chỉ có thể thực hiện được trong môn học giáp ranh ở mức độ khoa học nào cần thiết để hiểu được những vấn đề cụ thể của bộ môn đó. - Nội dung dạy học vật lí – nên tách ra một cách hợp lí những mối liên hệ sau đây giữa các môn học: các mối liên hệ khái niệm, các mối liên hệ tư tưởng, các mối liên hệ theo phương pháp khoa học và các mối liên hệ hệ thống – tổng hợp. + Các mối liên hệ khái niệm được tính đến trong khi soạn thảo chương trình, viết giáo trình, lựa chọn nội dung dạy học. Ví dụ khi nghiên cứu tính dẫn điện của các chất điện phân thì nên khai thác những kiến thức hóa học tương ứng; Việc xác lập mối liên hệ các khái niệm giữa các môn học giúp cho người học không những vận dụng kiến thức sẵn có mà còn hiểu được rằng giữa các khoa học tự nhiên không có một ranh giới chặt chẽ. + Các mối liên hệ tương tự – đó là những sự giải thích phối hợp và bổ sung lẫn nhau của cùng những sự kiện, những khái niệm, những định luật và những lí thuyết nền tảng trong những môn học khác nhau, trên cơ sở những nguyên lí, những quan niệm, những tư tưởng chỉ đạo chung. Nhiều vấn đề nội dung dạy học đòi hỏi sự phối hợp này. Vật lí và Hóa học là các khái niệm về nguyên tử, phân tử, cấu tạo chất, thuyết điện li, khối lượng, năng lượng, các định luật chất khí, định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng,…; Vật lí và Toán học: hàm số một và hai biến, phép tính các vec tơ và thứ nguyên các đại lượng, phương pháp tọa độ và phép tính gần đúng,…; Vật lí và Sinh học: các nguyên tắc vật lí của những vận động cơ học của cơ thể, hoạt động các cơ quan thị giác, thính giác và tuần hoàn, trao đổi nhiệt của cơ thể với môi trường xung quanh, những điều kiện tối ưu đối với hoạt động sản xuất và bảo vệ môi trường (nhiệt độ, áp suất, độ ẩm, vận tốc di chuyển cuả không khí, sự chiếu sáng) các quá trình sinh học ở trình độ phân tử và nguyên tử, sự quang hợp,…; Tất cả các môn học sử dụng cùng một hệ thống đơn vị Vật lí – hệ đơn vị đo lường quốc tế, hệ SI. + Các mối liên hệ về các phương pháp khoa học: ngoài những phương pháp khoa học đặc thù riêng của từng môn học, sẽ còn sử dụng các phương pháp khoa học của môn giáp ranh. Phương pháp nghiên cứu vật lí là cơ sở và có ảnh hưởng lớn trong khoa học tự nhiên. Vì thế trong các bài học vật lí người học phải được chuẩn bị để hiểu được việc áp dụng các phương pháp như phương pháp nhiệt lượng kế, quang phổ, cấu trúc Rơngen, phương pháp đo điện những đại lượng không điện, phương pháp các đồng vị phóng xạ v.v… + Các mối liên hệ hệ thống – tổng hợp của các môn học, mà trong đó mỗi môn nội dung và phương pháp khoa học của mình vạch rõ những tính chất của các đối tượng và các qui luật của thế giới vật chất, mang lại cho người học quan niệm 17
  18. chung về chất và trường với tính cách là hai dạng của vật chất, về các hình thức vận động của vật chất được nghiên cứu trong các giờ học của các môn học toán và khoa học tự nhiên. Trong thời đại có sự phân hóa lớn các kiến thức thì việc tổng hợp nội dung học ở một trình độ học vấn xác định lại cực kì cần thiết. Ở trường phổ thông cần phải tổng hợp các kiến thức về khoa học tự nhiên và kĩ thuật tổng hợp. Nhờ đó có ý nghĩa về mặt nhận thức, phương pháp luận và giáo dục to lớn. Đó là một trong những con đường dẫn tới sự liên kết kiến thức, tới bức tranh khoa học thống nhất của thế giới, tới những sáng tạo trong sản xuất – công nghệ nói chung. Việc thực hiện mối liên hệ kiến thức giữa các môn trong quá trình dạy học làm cho người học dễ dàng hiểu nội dung học tập, nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá trình học tập. Có thể tổ chức các giờ học ngoại khóa, xêmina với các đề tài có nội dung khái quát hóa, mang tính liên môn. Ví dụ: “Vật lí và hóa học của cấu tạo chất”, “Thiên văn học toàn sóng”, Khoa học và vũ trụ”, “các phương pháp vật lí trong khoa học tự nhiên”, “Các trường và các lực trong tự nhiên”, “Vật lí và khoa học môi trường”, “Sự tiến triển của vũ trụ”, “Những cơ sở vật lí kĩ thuật của ngành năng lượng”, “Năng lượng tái tạo”v.v…Bằng cách như thế, HS sẽ chỉ ra được mối liên hệ tương hỗ giữa các khoa học, tính vô hạn của quá trình nhận thức, vai trò của vật lí học với các khoa học khác và trong sự cải tạo tự nhiên, kĩ thuật và công nghệ cũng như mọi lĩnh vực khác của đời sống hiện đại. Những vấn đề về nội dung dạy học vật lí có tính liên môn trong nhà trường hiện đại ngày một phát triển và được coi trọng. Các dạng liên hệ giữa môn học vật lí với các môn học khác trong nội dung dạy học, theo sơ đồ Mối liên hệ nội dung vật lí với các môn học khác Những mối liên hệ về thời gian Những mối liên hệ về nội dung Đồng bộ Không đồng bộ Khái niệm Tư tưởng Theo các PPKH Hệ thống - Tổng hợp 2. Cơ sở thực tiễn của việc hiện đại hóa nội dung dạy học 2.1. Hiện trạng Thông qua điều tra thực tiễn về việc thực hiện “Hiện đại hóa nội dung dạy học” và sự hứng thú của học sinh với bộ môn Vật lý tại trường tôi đang công tác tôi nhận thấy thực tiễn tại cơ quan tôi công tác về vấn đề trên như sau Việc thực hiện “Hiện đại hóa nội dung dạy học” của giáo viên Số phần trăm giáo viên chưa biết về việc “Hiện đại hóa nội dung dạy 22,2% học” (Biết qua suy đoán, không nắm được trọng tâm cũng xếp vào chưa biết) 18
  19. Không thực hiện 0% Rất hiếm khi thực hiện 11,1 % Số phần trăm giáo viên có biết về việc “Hiện đại hóa nội dung dạy học” và Thỉnh thoảng thực hiện 44,4 % Thực hiện thường xuyên 22,3 % Từ số liệu này chúng ta dễ thấy rõ việc thực hiện “Hiện đại hóa nội dung dạy học” thực sự chưa được giáo viên quan tâm đúng mức, điều này cũng thể hiện rõ nhược điểm của “Chương trình giáo dục định hướng nội dung dạy học”. Giáo viên chỉ chú trọng dạy những điều có ở sách giáo khoa. Sự hứng thú đam mê bộ môn Vật lý của học sinh. Số liệu của nhà trường Số phần trăm học sinh đăng ký học vật lý khi vào học lớp 10 60,7% Số phần trăm học sinh đăng ký học vật lý khi học lên lớp 11 46,7% Số phần trăm học sinh đăng ký học vật lý khi học lên lớp 12 27,8% Cá nhân điều tra (với học sinh khối 12) Mang lại ít lựa chọn nghành nghề cho tương lai 16,8% Suy nghĩ Mang lại khá nhiều lựa chọn nghành nghề cho tương lai 83,2% thực tế của học sinh về Khô khan, rất khó, không lý thú 42,2% bộ môn Khó nhưng gắn liền với đời sống, khá lý thú 32,2 Vật lý Không quá khó, gắn liền với đời sống, rất lý thú 25,6 % Từ hai bảng số liệu trên rất dễ thấy các em học sinh vẫn nhận biết vai trò của bộ môn Vật lý là rất quan trọng cho cuộc sống của chính các em. Thế nhưng số học sinh học môn Vật lý ngày càng giảm mạnh, số em nuôi dưỡng được sự hứng thú bộ môn cũng giảm mạnh điều đó rất rõ ràng đã chứng minh vấn đề dạy học bộ môn Vật lý là chưa tốt, người dạy đã chưa tạo được sự hứng thú học tập bộ môn cho học sinh. 2.2. Thuận lợi - Một điều rất vui và rất quan trọng là học sinh và phụ huynh quan tâm đến việc học bộ môn Vật lý thể hiện ở học sinh biết bộ môn Vật lý sẽ cho nhiều lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai. Số học sinh mong muốn học khối A, A1 khi vào lớp 10 vẫn ở mức khá cao. 19
  20. - Nghành GD&ĐT đã và đang thực hiện bồi dưỡng cho GV nâng cao năng lực nghiệp vụ, cơ sở vật chất trường học ngày càng được cải thiện (VD: Số tivi tại lớp học ngày càng nhiều, đồ thí nghiệm được bổ sung hàng năm,…). - Luôn được sự động viên hỗ trợ giúp đỡ của các cơ quan quản lý và bạn bè đồng nghiệp cũng như của học sinh, phụ huynh học sinh. - Có được nhiều nguồn thông tin qua mạng Internet, sách báo, đồng nghiệp... 2.3. Khó khăn - Chương trình dạy học vẫn đang là chương trình cũ cho nên sự phân bổ thời gian làm cho khó để thực hiện việc hiện đại hóa nội dung dạy học. - Chương trình sách giáo khoa vẫn chưa thay đổi, trình độ giáo viên còn hạn chế. - Việc chuẩn bị thực hiện một nội dung “Hiện đại hóa nội dung dạy học” cần rất nhiều thời gian của giáo viên, bởi vì chưa có một nguồn cung cấp tư liệu chính nào, mà giáo viên phải tự tìm kiếm từ rất nhiều nguồn khác nhau. - Do điều kiện về văn hóa kinh tế xã hội tại địa phương, cũng như phương pháp học tập ở cấp trung học cơ sở, mà học sinh chưa có thói quen học tập chủ động và năng lực làm việc nhóm trong học tập của học sinh còn rất yếu (Giao nhiệm vụ học tập cho nhóm học sinh thì các em thực hiện gặp rất nhiều khó khăn). - Điều kiện kinh tế của địa phương và gia đình học sinh nói chung còn khó khăn, số gia đình có Internet còn rất ít điều đó cũng cản trở lớn đến việc triển khai giảng dạy của giáo viên (VD: Gv giao tài liệu tham khảo thì phải pô tô ra còn chuyển cho các em qua mạng internet thì nhiều em không xem được, giao cho học sinh xử lý số liệu thí nghiệm thì học sinh không có máy vi tính,…) 3. Giải pháp khơi dậy niềm đam mê học tập Vật lý cho học sinh thông qua việc hiện đai hóa nội dung dạy học 3.1. Xây dựng một số kiến thức có thể thực hiện “Hiện đại hóa nội dung dạy học” trong chương trình vật lý cấp THPT Từ cơ sở lý luận và thực tiễn ở phần trên chúng ta thấy rõ đó là ở cấp THPT, sự đam mê hứng thú của học sinh với môn Vật lý giảm rất nhanh theo từng năm học 10 – 11 – 12, điều này có thể do trong quá trình học học sinh nhận ra được các năng lực của bản thân, xác định rõ được năng khiếu, sở thích của mình nên các em đã thay đổi môn học khối (môn học phục vụ cho xét tuyển đại học, cao đẳng,…) của mình. Nhưng qua lý luận cũng như khảo sát thực tế thì một nguyên nhân lớn gây nên hiện tượng trên đó là nội dung chương trình môn học cứng nhắc, mang tính hàn lâm, xa rời “cuộc sống” của bộ môn Vật lý “đang sống” trong đời sống hiện đại. Mặt khác với nội dung chương trình như vậy lại kéo theo giáo viên phải dạy học “định hướng nội dung”, giáo viên khó triển khai các phương pháp dạy học tích cực (vì nội dung chương trình, nội dung thi và thời gian là cố định). Để giải quyết triệt để các vấn đề đó thì thực hiện “Hiện đại hóa nội dung dạy học” là vô cùng cần thiết. Bộ giáo dục và đào tạo đã có nhiều công trình nghiên cứu và đã đưa 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2