Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nghiên cứu tương tác giữa các vật có khối lượng rất khác nhau bằng nghịch lý
lượt xem 2
download
Mục tiêu chính của đề tài giúp học sinh hiểu rõ bản chất Vật lý trong bài toán tương tác giữa các vật. Nghiên cứu sự tương tác giữa các vật có khối lượng rất khác nhau bằng các “nghịch lý” trong chương các định luật bảo toàn Vật lý lớp 10 THPT.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nghiên cứu tương tác giữa các vật có khối lượng rất khác nhau bằng nghịch lý
- MỤC LỤC A. Mở đầu …………………………………………………………………….1 1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………….1 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài………………………………………………….1 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………………...2 4. Giả thuyết khoa học…………………………………………………………….2 5. Đóng góp mới của đề tài ……………………………………………………….2 B. Nội dung …………………………………………………………………...2 1. Cơ sở lý luận…………………………………………………………………… 2 2. Cơ sở thực tiễn………………………………………………………………….3 3. Nội dung và kết quả khảo nghiệm của đề tài…………………………………..3 3.1. Nội dung………………………………………………………………...3 3.2. Kết quả khảo nghiệm…………………………………………………..15 C. Kết luận và kiến nghị…………………………………………………….16 1. Kết luận………………………………………………………………………..16 2. Kiến nghị………………………………………………………………………17 Tài liệu tham khảo……………………………………………………………..18 1
- 2
- NGHIÊN CỨU TƯƠNG TÁC GIỮA CÁC VẬT CÓ KHỐI LƯỢNG RẤT KHÁC NHAU BẰNG “NGHỊCH LÝ” A. Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ của toàn Đảng toàn dân trong đó nòng cốt là ngành giáo dục và đào tạo. Là một giáo viên tôi ý thức được trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nghị quyết 29 của Đảng. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tôi nhận thấy đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới cách thức tiếp cận vấn đề là một trong những nhiệm vụ cấp thiết hiện nay. Quan điểm xuyên suốt các phương pháp dạy học là dạy học bằng hoạt động, thông qua hoạt động của người học. Học sinh bằng hoạt động tích cực, tự lực để chiếm lĩnh kiến thức, hình thành kỹ năng, phát triển năng lực sáng tạo, bồi dưỡng tình cảm, thái độ cho mình. Vai trò của giáo viên trong dạy học là tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện tốt các hoạt động học tập. Với cách dạy học mới này, đòi hỏi người giáo viên không ngừng học tập và rèn luyện công phu để có được kỹ thuật dạy học mới. Trong dạy học Vật lý, bài tập là một công cụ quan trọng giúp cho việc ôn tập đào sâu, mở rộng kiến thức, dẫn dắt đến kiến thức mới. Bài tập giúp học sinh rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, rèn luyện thói quen vận dụng kiến thức khái quát. Giải bài tập là một trong những hình thức làm việc tự lực cao của học sinh. Qua mỗi bài tập giúp học sinh rèn luyện khả năng tư duy và hiểu rõ hơn bản chất Vật lý trong mỗi bài toán. Trong quá trình giảng dạy, đặc biệt là bồi dưỡng học sinh giỏi. Khi giải các bài toán trong đó có sự tương tác giữa các vật có khối lượng rất khác nhau – giữa một vật khối lượng nhỏ và một vật có khối lượng rất lớn, ta thường bỏ qua sự biến thiên năng lượng của các vật có khối lượng lớn hơn. Và sự bỏ qua đó thường lại hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, cũng cần hình dung cho rõ là khi nào thì sự bỏ qua đó là được phép còn khi nào thì không. Để làm sáng tỏ vấn đề này cho học sinh trong quá trình dạy học, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “NGHIÊN CỨU TƯƠNG TÁC GIỮA CÁC VẬT CÓ KHỐI LƯỢNG RẤT KHÁC NHAU BẰNG “NGHỊCH LÝ” để nghiên cứu. Qua đề tài này với mong muốn sẽ giúp học sinh có được một hình thức tiếp cận vấn đề nghiên 3
- cứu có sự bất ngờ, qua đó phân tích một cách chính xác hiện tượng Vật lý xẩy ra trong bài toán tương tác giữa các vật, bồi dưỡng cho học sinh khả năng tư duy sáng tạo, truyền hứng thú cho các em trong quá trình học tập. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài Mục tiêu chính của đề tài giúp học sinh hiểu rõ bản chất Vật lý trong bài toán tương tác giữa các vật. Nghiên cứu sự tương tác giữa các vật có khối lượng rất khác nhau bằng các “nghịch lý” trong chương các định luật bảo toàn Vật lý lớp 10 THPT. 3. Giả thuyết khoa học Đề xuất vấn đề dưới dạng các “nghịch lý” khi giải các bài toán đơn giản để nghiên cứu tương tác giữa các vật có khối lượng rất khác nhau nhằm mục đích kích thích sự tò mò và tạo hứng thú học tập cho học sinh, đồng thời giảm được cảm giác sợ hãi khi tiếp xúc với những vấn đề khó. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Hoạt động học của học sinh lớp 10 chương “ Các định luật bảo toàn”. Nghiên cứu hình thức giúp học sinh có cách tiếp cận vấn đề mới, đào sâu kiến thức bằng các “nghịch lý”. 5. Đóng góp mới của đề tài Chứng minh tính khả thi của việc nghiên cứu sự tương tác giữa các vật có khối lượng rất khác nhau bằng sự xuất hiện các “nghịch lý” và việc đi tìm hiểu tại sao có “nghịch lý” đó sẽ giúp học sinh hiểu sâu hơn, hiểu đúng bản chất Vật lý hơn về sự tương tác giữa các vật, từ đó tạo cho các em niềm đam mê với môn học và xa hơn là niềm đam mê nghiên cứu Vật lý. B. Nội dung 1. Cơ sở lý luận 1.1. Động lượng, định luật bảo toàn động lượng 1.2. Động lượng: : là đại lượng véctơ đo bằng tích của khối lượng và vận tốc của vật. 4
- 1.3. Định luật bảo toàn động lượng: Trong hệ kín tổng động lượng của hệ là không đổi. 1.4. Định luật bảo toàn năng lượng: Trong hệ kín năng lượng của hệ là không đổi 1.5. Động năng: là năng lượng vật có được do chuyển động. Biểu thức 1.6. Thế năng trọng trường: 1.7. Cơ năng của vật chuyển động trong trọng trường: 2. Cơ sở thực tiễn Trong quá trình dạy học chương “ Các định luật bảo toàn”. Học sinh cơ bản là có thể vận dụng được kiến thức vào các bài toán về sự tương tác giữa các vật ở mức độ đơn giản cũng như nắm bắt được các hiện tượng Vật lý có liên quan. Tuy nhiên, thường các em vận dụng một cách máy móc chủ yếu nhớ công thức mà chưa thực sự hiểu rõ bản chất Vật lý trong đó, bởi thế gặp rất nhiều lúng túng khi giải quyết các vấn đề mới chưa được gặp trước đó mặc dù bản chất Vật lý là khá đơn giản. Trong quá trình công tác và đặc biệt trong thời gian trước khi triển khai đề tài tôi đã điều tra đối tượng học sinh và phân chia thành hai nhóm đối tượng. Đội dự tuyển HSG tỉnh và Học sinh khá Vật lý. Kết quả thu được có thể tóm tắt như sau: Đội dự tuyển HSG tỉnh % học sinh chưa hiểu rõ bản chất % học sinh hiểu rõ bản chất Năm học 20172018 80% 20% (số lượng: 5 hs) Năm học 20182019 95.7% 14.3% (số lượng: 7 hs) Học sinh khá Vật lý % học sinh chưa hiểu rõ bản chất % học sinh hiểu rõ bản chất Năm học 20172018 97.5% 2.5% (số lương: 40 hs) Năm học 20182019 97.7% 2.3% (số lượng: 45 hs) 3. Nội dung và kết quả khảo nghiệm của đề tài 3.1. Nội dung Sau khi học xong chương các định luật bảo toàn trong chương trình Vật lý lớp 10, học sinh đã được trang bị các kiến thức cơ bản nhất. Để nâng cao kiến thức cho 5
- những đối tượng học sinh khá tôi đề xuất các bài tập và trong quá trình các em đi tìm lời giải sẻ xuất hiện “nghịch lý”. Cụ thể của vấn đề được thể hiện trong các ví dụ sau: Ví dụ 1. Một hòn đá có khối m rơi tự do từ độ cao h xuống mặt đất. Viết biểu thức định luật bảo toàn năng lượng trong các trường hợp sau: a. Trong hệ quy chiếu gắn với khối tâm của hệ gồm hòn đá và trái đất b. Trong hệ quy chiếu gắn với một thang máy chuyển động hướng xuống dưới với vận tốc không đổi so với trái đất Lập luận giải như sau: a. Khi xét chuyển động của hòn đá trong hệ quy chiếu gắn với khối tâm của hệ gồm hòn đá và trái đất. Cơ năng của hòn đá ở độ cao h là: w = mgh. Vào thời điểm hòn đá sắp chạm đất, toàn bộ thế năng của nó chuyển hết thành động năng nên ta có: (1) trong đó là vận tốc của hòn đá ngay trước khi chạm đất. b. Khảo sát chuyển động của hòn đá trong hệ quy chiếu gắn với một thang máy chuyển động hướng xuống dưới với vận tốc không đổi so với trái đất. Trong hệ này, trái đất có động năng ( M là khối lượng của trái đất), còn hòn đá ở thời điểm ban đầu có động năng và thế năng là . Tại thời điểm ngay trước khi hòn đá chạm mặt đất, cả động năng và thế năng của nó đều bằng 0, sao cho đối với toàn hệ, ta có thể viết: (2) So sánh (1) và (2) hoá ra định luật bảo toàn năng lượng không được nghiệm đúng trong hệ quy chiếu gắn với thang máy, nhưng lại nghiệm đúng trong hệ quy chiếu mà đối với nó thang máy chuyển động với vận tốc không đổi. Tức là ta đã có một “nghịch lí” trong lập luận giải nói trên. 6
- Ví dụ 2. Một viên đạn có khối lượng bay với vận tốc đập vào sườn núi và mắc trong đó, hãy xác định độ biến thiên năng lượng của viên đạn trong các trường hợp sau: a. Trong hệ quy chiếu trái đất đứng yên. b. Trong hệ quy chiếu gắn với ôtô chuyển động với vận tốc cùng hướng với viên đạn. c. Trong hệ quy chiếu gắn với ôtô chuyển động với vận tốc ngược hướng với viên đạn. Lập luận giải như sau: a. Áp dụng định luật bảo toàn năng lượng trong hệ quy chiếu trái đất đứng yên, ta tìm được độ biến thiên năng lượng của viên đạn: b. Bây giờ ta khảo sát chuyển động của viên đạn trong hệ quy chiếu gắn với ôtô chuyển động với vận tốc cùng hướng với viên đạn. Khi đó độ biến thiên của động năng bằng: c. Trong hệ quy chiếu gắn với ôtô chuyển động với vận tốc ngược hướng với viên đạn. Vậy một phần động năng của viên đạn đã mất đi đâu? Khi viên đạn bị hãm đột ngột, một lượng nhiệt đã được toả ra, nói một cách khác, năng lượng của viên đạn đã chuyển thành nhiệt:. Và chúng ta có thể đo được nhiệt toả ra đó (ví như viên đạn rơi đúng vào bình nhiệt lượng kế, chẳng hạn). Tuy nhiên, từ những tính toán nêu ở trên, ta suy ra rằng, khi tiến hành cùng một phép đo cho ba trường hợp nêu ở trên, chúng ta sẽ nhận được ba kết quả khác nhau là .Tức là lại xuất hiện một “nghịch lí”. Ví dụ 3. Một ô tô A chuyển động với vận tốc đối với trái đất. Sau khi vận tốc ô tô tăng hai lần, tính độ biến thiên động năng của ô tô A trong các trường hợp sau: 7
- a. Trong hệ quy chiếu đứng yên đối với trái đất. b. Trong hệ quy chiếu gắn với người ngồi trong ô tô B chuyển động cùng chiều và cùng vận tốc như ô tô A. c. Trong hệ quy chiếu gắn với ô tô C chuyển động cùng với vân tốc như ô tô A nhưng ngược chiều. Lập luận giải như sau: a. Trong hệ quy chiếu đứng yên đối với trái đất động năng của nó tăng một lượng: b. Theo quan điểm của người quan sát ở trong ô tô B chuyển động cùng chiều và cùng vận tốc như ô tô A, thì độ biến thiên động năng của ô tô A bằng: c. Đối với người qua sát trong ô tô C chuyển động cùng với tốc độ như ô tô A nhưng ngược chiều, thì độ biến thiên động năng của ô tô A bằng: Thoạt nhìn kết quả thu được ở trên nhìn lạ lùng, vì lượng nhiên liệu tiêu thụ của ô tô A không đổi, thế mà độ biến thiên của nó trong các hệ quy chiếu khác nhau lại khác nhau. Liệu ở đây có mâu thuẫn gì với định luật bảo toàn năng lượng không? Đến đây xuất hiện một “nghịch lí” Ví dụ 4. Một viên đạn có khối lượng m chuyển động với vận tốc rơi vào một sàn toa chở cát (xem như một bệ) chuyển động với vận tốc và bị găm vào trong đó. Ta hãy tìm nhiệt lượng toả ra khi đó trong các trường hợp sau: a. Trong hệ quy chiếu gắn với trái đất b. Trong hệ quy chiếu gắn với toa xe Lập luận giải như sau: a. Trong hệ quy chiếu gắn với trái đất b. Trong hệ quy chiếu gắn với toa xe: 8
- Lại xuất hiện “nghịch lí”: Liệu có thể với cùng một viên đạn mà ở hệ quy chiếu này nó bị nóng mà ở hệ kia thì không? Ví dụ 5. Một khẩu súng máy đặt trên máy bay chuyển động với vận tốc bắn theo hướng bay của máy bay. a. Giả sử đối với hệ quy chiếu cũng chuyển động với vận tốc , viên đạn có vận tốc . Động năng mà viên đạn có được là do năng lượng E của khí thuốc súng cháy cung cấp: b. Đối với hệ quy chiếu gắn với trái đất , vận tốc của viên đạn bằng và do đó: Vì E là bất biến trong mọi hệ quy chiếu nên từ những điều nói trên suy ra: Hãy tìm ra sai lầm trong những lập luận trình bày ở trên. Còn có thể có nhiều bài toán tương tự, trong đó “nghịch lí” xuất hiện chỉ là do hệ các vật được khảo sát không phải kín, nhưng trong lập luận chúng ta lại không tính điều đó. Trong ví dụ 2 nêu ở trên, hệ đang xét không bao gồm vật lớn là trái đất. Còn trong ví dụ 1, phần b, mặc dù đã bao gồm cả trái đất, nhưng sự biến thiên động năng của nó lại được coi bằng 0. Trong phần a của ví dụ 1 năng lượng của trái đất nói chung không hiện diện, tuy nhiên bất cứ học sinh nào cũng nói rằng, ở đây chắc chắn mọi thứ đã được viết đúng. Vậy rắc rối là ở đâu? Tại sao khi chọn một hệ quy chiếu nào đó lại nhận được kết quả đúng, trong khi chọn những hệ khác lại nhận được các “ nghịch lí”? Phải chọn hệ quy chiếu nào để giải bài toán sao cho có thể bỏ qua vật có khối lượng rất lớn và chính bằng cách làm đó làm đơn giản quá trình giải? Để trả lời câu hỏi đó, chúng ta hãy quay trở lại các “Bài toán nghịch lí” và tiến hành các lập luận một cách “tuyệt đối chặt chẽ”. Lời giải chặt chẻ ví dụ 1 a. Trong hệ quy chiếu gắn với khối tâm của hệ gồm hòn đá và trái đất, tại thời điểm ban đầu, trái đất đứng yên và toàn bộ năng lượng của hệ bằng thế năng của 9
- hòn đá. Tới thời điểm hòn đá sắp chạm mặt đất, năng lượng của hệ bằng , trong đó là vận tốc mà hòn đá có được dưới tác dụng lực hấp dẫn trái đất còn là vận tốc mà trái đất có được dưới tác dụng lực hấp dẫn của hòn đá. Chúng ta sẽ tìm vận tốc từ định luật bảo toàn động lượng. Ta có: Bây giờ chúng ta hãy viết định luật bảo toàn năng lượng của hệ. Biểu thức trên là “tuyệt đối chặt chẽ”. Tuy nhiên, rõ ràng là trong tất cả các bài toán thực (về sự rơi của các vật xuống mặt đất) ta đều có m
- Đại lượng này lớn hơn động năng của hòn đá. Dễ dàng thấy rằng sai lầm của chúng ta chính là ở chỗ đó, và do đó mà dẫn tới “nghịch lí”. Định luật bảo toàn năng lượng “chặt chẽ” phải được viết dưới dạng. Sử dụng điều kiện vật có khối lượng rất lớn, tức coi m
- Những kết quả này chứng tỏ rằng độ biến thiên động năng của cùng một vật có thể sẽ khác nhau trong các hệ quy chiếu khác nhau.Tuy nhiên, định luật bảo toàn năng lượng đối với một hệ kín vẫn đúng trong mọi hệ quy chiếu quán tính. Đến đây chúng ta đã bắt đầu hiểu tại sao lại xuất hiện “nghịch lý”. Để vấn đề được rõ ràng hơn bây giờ chúng ta sẽ quay trở lại ví dụ 2. Lời giải chặt chẻ ví dụ 2 Độ biến thiên động năng của viên đạn trong các hệ quy chiếu đang xét cũng khác nhau: Do đó theo định lí động năng , công của ngoại lực, tức lực của sườn núi tác dụng lên viên đạn cũng khác nhau. Nói một cách khác, do tính tương đối của độ dịch chuyển trong các hệ quy chiếu khác nhau, nên cả công của các ngoại lực cũng là tương đối. Vì vậy nguyên nhân dẫn đến “nghịch lí” trong ví dụ này là do cách viết: Biểu thức này chỉ đúng với các hệ kín, vì đối với các hệ này, độ biến thiên động năng của tất cả các vật trong hệ là bất biến (tức không thay đổi) đối với bất kì hệ quy chiếu quán tính nào. Do những điều nói trên, trong ví dụ 2, nhiệt lượng toả ra phải được viết là , trong đó và là độ biến thiên động năng của viên đạn và của trái đất. Tuy nhiên, đáp số ở câu a của ví dụ 2 là đúng, bất kể ta giải bài toán trong hệ quy chiếu nào: Ta sẽ chứng minh khẳng định này. Muốn vậy ta hãy tiến hành thật chặt chẽ tất cả các bước lập luận. a. Trong hệ quy chiếu trái đất (cũng tức là trái núi) ban đầu đứng yên, năng lượng của hệ bằng động năng của viên đạn. Khi viên đạn đập vào núi, trái đất có một vận tốc nào đó, mà ta có thể tìm từ định luật bảo toàn động lượng: 12
- Do đó trái đất có động năng , nên định luật bảo toàn năng lượng của cả hệ phải viết dưới dạng: Hay Sử dụng điều kiện vật có khối lượng rất lớn (m
- Như vậy, vốn chỉ đúng đối với những hệ kín (tức là khi là độ biên thiên năng lượng của toàn hệ), hoá ra cũng đúng cho cả những hệ không kín được khảo sát trong hệ quy chiếu mà vật có khối lượng rất lớn ban đầu đứng yên . Vậy “nghịch lý” trong lập luận ban đầu đã được hoá giải một cách thấu đáo. Lời giải chặt chẻ ví dụ 3 Không hề có mâu thuẫn với định luật bảo toàn năng lượng. “Nghịch lí” xuất hiện là do ta đã khảo sát một hệ không kín (tức hệ không cô lập). Khi ô tô A gia tốc là đã có tương tác của nó với trái đất. Với tương tác đó, năng lượng của trái đất thay đổi, đồng thời trong các hệ quy chiếu khác nhau sự thay đổi đó không chỉ khác nhau về độ lớn, mà dấu của nó cũng khác nhau. Trong hệ quy chiếu này, năng lượng của trái đất tăng, trong hệ quy chiếu khác năng lượng của trái đất lại giảm. Trong hệ quy chiếu mà trái đất ban đầu đứng yên, một phần năng lượng của nhiên liệu dùng để làm tăng động năng của ô tô, còn một phần khác làm tăng năng lượng của trái đất một lượng T Đ với TĐ Do m
- TĐ Như Vậy ngay cả trong trường hợp này, Nghịch lí củng sẻ không còn nữa khi tính đến độ biên thiên năng lượng của vật có khối lượng rất lớn là trái đất: Lời giải chặt chẻ ví dụ 4 Độ biến thiên động năng của viên đạn trong các hệ quy chiếu đã chọn quả thật là khác nhau: ; Tuy nhiên, một phần của năng lượng này đã được dùng để làm tăng động năng của bệ . Trong hệ quy chiếu mà bệ đứng yên, độ biến thiên năng lượng của bệ có thể bỏ qua vì M >> m. Trong trường hợp đó nhiệt lượng toả ra là: Trong hệ quy chiếu bệ (vật có khối lượng rất lớn) chuyển động với vận tốc , ta không thể bỏ qua độ biến thiên năng lượng của bệ. Thực vậy, độ biến thiên năng lượng của bệ khi này là: trong đó là độ biến thiên vận tốc của bệ sau khi tương tác với đạn. Theo định luật bảo toàn động lượng tức là: . Do đó: Tính đến độ biến thiên năng lượng này của bệ, ta có: Từ đó: Đến đây chúng ta sẻ thấy rõ bản chất của vấn đề, sự xuất hiện “nghịch lý” là do ta đã không hiểu rõ bản chất của hiện tượng Vật lý, nếu ta hiểu đúng sẻ chẳng có nghịch lý nào cả. Lời giải chặt chẻ ví dụ 5 15
- Ta hãy viết định luật bảo toàn động lượng có tính đến sự biến thiên năng lượng của vật có khối lượng rất lớn là máy bay. Trong hệ quy chiếu thứ nhất: và trong hệ quy chiếu thứ hai: Trong hệ quy chiếu thứ nhất, máy bay đứng yên nên độ biến thiên năng lượng của nó khi bắn có thể bỏ qua. Thực vậy, ta có: Độ biến thiên vận tốc được xác định từ định luật bảo toàn động lượng Do đó: Tuy nhiên, trong hệ quy chiếu gắn với trái đất (tức máy bay chuyển động), độ biến thiên năng lượng của máy bay không thể bỏ qua được nữa, vì trước khi bắn nó có vận tốc đối với trái đất. Khi đó, độ biến thiên động năng của máy bay là: Vì độ biến thiên vận tốc của máy bay là một đại lượng bất biến (không phụ thuộc vào hệ quy chiếu), nên . Thay vào biểu thức trên ta tìm được: Vậy ta có: và Dễ dàng thấy rằng hai biểu thức trên bằng nhau, “nghịch lý” mà như ta thấy đã được giải quyết một cách thấu đáo. Từ những ví dụ trên chúng ta thấy rằng thay vì đi lập luận trực diện giải bài toán một cách chặt chẽ ngay từ đầu sẽ làm cho học sinh thấy vấn đề cần tìm hiểu rất khó để có thể “tiêu hoá”. Để học sinh giải bài toán một cách tự nhiên với vốn kiến thức đã có sẻ tạo ra những kết quả khác nhau mà ta gọi đó là “nghịch lý” đã mang lại cho học sinh nhiều hứng thú và một phần cảm nhận được vẻ đẹp của Vật lý. 3.2. Kết quả khảo nghiệm 16
- Tôi đã mạnh dạn triển khai nội dung đề tài cho các đội tuyển học sinh giỏi cấp tỉnh cũng như đối tượng học sinh khá về Vật lý trong hai năm học 20172018 và 20182019 và đã thu được kết quả tương đối khả quan, có thể tóm tắt như sau: Đội dự tuyển Trước khi áp Sau khi áp dụng đề tài HSG tỉnh dụng đề tài % học sinh chưa % học sinh hiểu % học sinh chưa % học sinh hiểu rõ bản chất rõ bản chất hiểu rõ bản chất hiểu rõ bản chất Năm học 20172018 80% 20% 0% 100% (số lượng: 5 hs) Năm học 20182019 95.7% 14.3% 0% 100% (số lượng: 7 hs) Học sinh khá Vật Trước khi áp Sau khi áp dụng đề tài lý dụng đề tài % học sinh chưa % học sinh hiểu % học sinh chưa % học sinh hiểu rõ bản chất rõ bản chất hiểu rõ bản chất hiểu rõ bản chất Năm học 20172018 97.5% 2.5% 12.5% 87.5% (số lương: 40 hs) Năm học 20182019 97.7% 2.3% 11.1% 88.9% (số lượng: 45 hs) Từ bảng khảo sát trên và kết quả của các đội tuyển trong kỳ thi học sinh giỏi tỉnh những năm qua của đơn vị nơi tôi công tác cho thấy hiệu quả của đề tài là khá tốt. C. Kết luận và kiến nghị 1. Kết luận Trong quá trình dạy học tôi nhận thấy rằng, để nâng cao hiệu quả nhận thức vấn đề của học sinh, thì việc chọn cách thức cho học sinh tiếp cận vấn đề đóng vai trò vô cùng quan trọng. Điều này cũng được các nhà khoa học nhất là tác giả sách giáo khoa rất coi trọng trong việc viết nội dung của mỗi bài học trong sách giáo khoa, họ đã lựa chọn cách thức tiếp cận sao cho vấn đề trở nên đơn giản nhất đối với người học và cả người dạy. Cùng chung quan điểm đó, trên đây tôi đã lựa chọn cách đưa ra các “nghịch lý” để học sinh tiếp cận nghiên cứu sự tương tác giữa các vật có khối lượng rất khác nhau và bước đầu cho thấy những tín hiệu rất tốt. Học 17
- sinh cảm thấy bất ngờ, thú vị, và rất thu hút sự tò mò từ đó tạo ra được sự hăng say, đam mê trong việc đi tìm câu trả lời và qua đó tôi đạt được mục đích giáo dục của mình. Kinh nghiệm rất nhỏ bé của bản thân. Tôi mạnh dạn viết thành SKKN và mong được sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp để làm cho đề tài ngày càng hoàn thiện hơn, nhằm nâng cao hiệu quả trong quá trình dạy và học Vật lý môn học nhiều thú vị nhưng ít học sinh yêu thích vì sợ khó, những học sinh giỏi Vật lý, thi Vật lý điểm cao nhưng bản chất Vật lý lại chưa hẳn đã hiểu đúng. 2. Kiến nghị Qua quá trình vận dụng đề tài ở truờng THPT nơi tôi công tác xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến như sau: Trước khi hướng dẫn các em giải quyết các vấn đề bằng các “nghịch lý” chúng ta hướng dẫn học sinh giải các bài tập một cách truyền thống giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản của bài toán tương tác giữa các vật. Cần tổ chức nhiều hơn nữa những buổi học chuyên đề, trao đổi kinh nghiệm nhằm giúp cho giáo viên nâng cao trình độ. Cần tổ chức thi khảo sát giáo viên một cách thường xuyên hơn, điều này sẽ thúc đẩy giáo viên đầu tư hơn về mặt chuyên môn. Trên đây là một vài ý kiến của bản thân tôi rút ra được trong quá trình dạy học tại trường THPT. Vì thời gian có hạn, triển khai đề tài ở phạm vi một đơn vị nên việc kiểm chứng gặp nhiều khó khăn. Mặc dù vậy tôi cũng mạnh dạn đề xuất mong được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp để đề tài hoàn thiện hơn. 18
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tô Giang (2009), Bồi dưỡng học sinh giỏi Vật lí THPT, NXB Giáo dục, Hà Nội. 2. Bùi Quang Hân (1998), Giải toán Vật lí 10, NXB Giáo dục, Hà Nội. 3. Vũ Thanh Khiết (1998), Bài tập cơ bản nâng cao vật lí 10, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 4. Tạp chí Vật lý và tuổi trẻ. 5. Tô Bá Hạ Phạm Gia Thiều, Những chuyên đề nâng cao vật lý THPT, NXB Giáo dục, Hà Nội. 19
- 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Đổi mới phương pháp dạy häc môn TDTT cấp THPT
20 p | 362 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lý phòng máy tính trong nhà trường
29 p | 274 | 62
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"
14 p | 190 | 28
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tăng cường hứng thú và tập trung của học sinh trong các tiết luyện tập môn Hóa học 11 THPT bằng các trò chơi
25 p | 26 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Ứng dụng classdojo – quản lý lớp, tạo tiết học hiệu quả, hỗ trợ kiểm tra đánh giá học sinh theo giáo dục STEM
43 p | 56 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh
28 p | 35 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển tư duy lập trình và khắc phục sai lầm cho học sinh lớp 11 thông qua sử dụng cấu trúc rẽ nhánh
24 p | 31 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Kinh nghiệm giáo dục tư tưởng chính trị trong việc giảng dạy địa lí tự nhiên Việt Nam ở lớp 12
21 p | 45 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả quản lý và giáo dục học sinh lớp 10 trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT
37 p | 24 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của học sinh THPT Thừa Lưu
26 p | 33 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 15 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nghiên cứu dạy học phần Động cơ đốt trong - Công nghệ 11 theo định hướng giáo dục STEM
21 p | 54 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập môn Lịch Sử theo định hướng 5 bước 1 vấn đề, đáp ứng yêu cầu mới của kỳ thi THPT Quốc gia
29 p | 35 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tích hợp kiến thức liên môn trong chuyên đề oxi- ozon – Hóa học 10- ban cơ bản
65 p | 47 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp nâng cao chất lượng dạy, học Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh cho học sinh lớp 11 trường THPT Nguyễn Xuân Ôn
38 p | 42 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng hiệu quả kế hoạch phong trào Nghiên cứu khoa học kỹ thuật trong học sinh tại Trường THPT Chuyên Thoại Ngọc Hầu
10 p | 28 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy lý thuyết môn Giáo dục Quốc phòng, An ninh ở trường THPT
45 p | 45 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p | 24 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn