Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát huy năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 11 trong hoạt động luyện tập và vận dụng khi dạy đọc hiểu văn bản thông qua hình thức trò chơi ở môn Ngữ văn GDTX
lượt xem 0
download
Sáng kiến "Phát huy năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 11 trong hoạt động luyện tập và vận dụng khi dạy đọc hiểu văn bản thông qua hình thức trò chơi ở môn Ngữ văn GDTX" được hoàn thành với mục tiêu nhằm nâng cao trình độ chuyên môn; thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy; phát huy năng lực của học sinh trong giờ đọc - hiểu văn bản văn học từ đó bồi dưỡng năng lực cho học sinh THPT ở các Trung tâm GDTX.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát huy năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 11 trong hoạt động luyện tập và vận dụng khi dạy đọc hiểu văn bản thông qua hình thức trò chơi ở môn Ngữ văn GDTX
- PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Đổi mới để nâng cao chất lượng giáo dục luôn là điều cần thiết và được cả xã hội quan tâm, là nhiệm vụ quan trọng của ngành giáo dục nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh. Trong định hướng phát triển chương trình sau 2015, môn Ngữ văn được coi là môn học công cụ, theo đó, năng lực giao tiếp tiếng Việt và năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mỹ là các năng lực mang tính đặc thù của môn học; ngoài ra, năng lực giao tiếp, năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân (là các năng lực chung) cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định các nội dung dạy học của môn học. Năng lực sáng tạo được hiểu là sự thể hiện khả năng của học sinh trong việc suy nghĩ và tìm tòi, phát hiện những ý tưởng mới nảy sinh trong học tập và cuộc sống, từ đó đề xuất được các giải pháp mới một cách thiết thực, hiệu quả để thực hiện ý tưởng. Trong việc đề xuất và thực hiện ý tưởng, học sinh bộc lộ óc tò mò, niềm say mê tìm hiểu khám phá. Việc hình thành và phát triển năng lực sáng tạo cũng là một mục tiêu mà môn học Ngữ văn hướng tới. Năng lực này được thể hiện trong việc xác định các tình huống và những ý tưởng, đặc biệt những ý tưởng được gửi gắm trong các văn bản văn học, trong việc tìm hiểu, xem xét các sự vật, hiện tượng từ những góc nhìn khác nhau, trong cách trình bày quá trình suy nghĩ và cảm xúc của học sinh trước một vẻ đẹp, một giá trị của cuộc sống. Năng lực suy nghĩ sáng tạo bộc lộ thái độ đam mê và khát khao được tìm hiểu của học sinh, không suy nghĩ theo lối mòn, theo công thức. Với bộ môn Ngữ văn, một trong những yêu cầu cao là học sinh, với tư cách là người đọc, phải trở thành người đồng sáng tạo với tác phẩm (khi có được những cách cảm nhận riêng, độc đáo về nhân vật, về hình ảnh, ngôn từ của tác phẩm; có cách trình bày, diễn đạt giàu sắc thái cá nhân trước một vấn đề,…). Một trong số những biện pháp để đạt được mục đích trên đó là sử dụng trò chơi. Đây là một phương pháp giáo dục tiên tiến trên thế giới đã vận dụng từ lâu. Lồng ghép trò chơi trong dạy và học môn Ngữ văn, kết hợp với những phương pháp dạy học khác sẽ có ý nghĩa tích cực đối với yêu cầu đổi mới hiện nay. Đối với học sinh trung học phổ thông, hoạt động vui chơi là nhu cầu không thể thiếu và nó giữ vai trò quan trọng đối với các em. Nếu giáo viên biết tổ chức cho học sinh chơi một cách hợp lí, khoa học trong giờ học sẽ mang lại hiệu quả giáo dục cao. Chính vì vậy việc vận dụng trò chơi trong giờ học môn Ngữ văn sẽ làm thay đổi không khí căng thẳng trong các giờ học, tăng thêm hứng thú cho người học, học sinh sẽ chú ý hơn, chủ động hơn trong chuẩn bị, mạnh dạn hơn trong đề xuất ý kiến của mình, phát huy tư duy sáng tạo,… Hứng thú và chủ động trong học tập là sự khởi đầu tốt cho việc nắm bắt kiến thức, hình thành kĩ năng và phát triển nhân cách ở học sinh qua bộ môn Ngữ văn. 1
- Thông qua thực tế giảng dạy, dự giờ học hỏi ở đồng nghiệp cộng với các đợt tập huấn chuyên môn bản thân tôi mạnh dạn áp dụng tổ chức một số trò chơi trong giờ dạy môn Ngữ văn. Qua nhiều năm học, kết quả cho thấy không khí của mỗi tiết học sôi nổi hẳn lên, học sinh không chỉ không còn cảm thấy căng thẳng mà trái lại rất hào hứng tham gia hoạt động một cách tích cực và đồng đều; các em đã mạnh dạn trình bày ý kiến, nêu thắc mắc,…từ đó tự chiếm lĩnh kiến thức và ghi nhớ một cách bền vững. Kết quả học tập của học sinh được nâng cao rõ rệt. Với mong muốn làm thế nào để học sinh của mình năng động sáng tạo hơn, hứng thú trong học tập, giờ học bớt căng thẳng, bớt áp lực, làm sao để các em có cảm giác “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, góp phần đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo. Chính vì thế chúng tôi chọn và nghiên cứu sáng kiến:“Phát huy năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 11 trong hoạt động luyện tập và vận dụng khi dạy đọc hiểu văn bản thông qua hình thức trò chơi ở môn Ngữ văn GDTX”. 2. Mục đích nghiên cứu 2.1. Đối với giáo viên Nghiên cứu đề tài này, tôi muốn nắm được thực trạng của việc phát huy năng lực học sinh của các Trung tâm GDTX, đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực học sinh trong việc giảng dạy bộ môn Ngữ Văn; giúp các em học sinh thể hiện được năng lực của bản thân. Nâng cao trình độ chuyên môn; thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy; phát huy năng lực của học sinh trong giờ đọc - hiểu văn bản văn học từ đó bồi dưỡng năng lực cho học sinh THPT ở các Trung tâm GDTX. 2.2. Đối với học sinh Được bồi dưỡng năng lực nhằm góp phần hoàn thiện nhân cách bản thân. Tăng sự hứng thú trong học tập. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu a. Đối tượng: Các giải pháp Phát huy năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 11 trong hoạt động luyện tập và vận dụng khi dạy đọc hiểu văn bản thông qua hình thức trò chơi ở môn Ngữ văn GDTX b. Phạm vi nghiên cứu: Sáng kiến bắt đầu có ý tưởng nghiên cứu lý luận, khảo sát thực trạng từ năm học 2022 - 2023, áp dụng và nghiệm thu đánh giá kết quả vào năm học 2023 - 2024. Trong suốt quá trình nghiên cứu, áp dụng thử nghiệm và áp dụng mở rộng, sáng kiến“Phát huy năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 11 trong hoạt động luyện tập và vận dụng khi dạy đọc hiểu văn bản thông qua hình thức trò chơi ở môn Ngữ văn GDTX” đã hoàn thành tất cả các mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đề ra. Là giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn tại Trung tâm GDNN-GDTX Tương Dương, có trình độ chuyên môn đào tạo đạt chuẩn; trách nhiệm, tâm huyết, có ý thức 2
- tìm tòi đổi mới PPDH. Học viên của Trung tâm đa số có nhận thức đúng đắn nhiệm vụ học tập, có ý thức tự học và phối hợp với giáo viên trong tổ chức các hoạt động học tập, nhất là hoạt động trò chơi,… Trong đề tài này vì điều kiện hạn chế là trong Trung tâm mỗi giáo viên một bộ môn nên chúng tôi chỉ có thể tham khảo tư vấn của giáo viên cùng chuyên môn ở các Trung tâm GDTX khác, giáo viên THPT trong và ngoài huyện; và các thầy cô chuyên môn khác môn Ngữ văn. 4. Thời gian nghiên cứu Năm học 2023 - 2024, từ tháng 8 năm 2023 đến tháng 4 năm 2024 tôi đã thực nghiệm đề tài: “Phát huy năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 11 trong hoạt động luyện tập và vận dụng khi dạy đọc hiểu văn bản thông qua hình thức trò chơi ở môn Ngữ văn GDTX”. 5. Những điểm mới của sáng kiến Những biện pháp sáng kiến đề xuất có căn cứ pháp lý từ các Nghị quyết, Nghị định, Quyết định... bám sát quan điểm chỉ đạo đổi mới PPDH theo định hướng phát triển năng lực của Bộ GD&ĐT. Những hình thức trò chơi ở môn Ngữ văn sáng kiến đề xuất cơ bản đảm bảo tính hệ thống, toàn diện, thiết thực; có tính mới và tính sáng tạo, phù hợp với đối tượng học sinh THPT. Khắc phục được thói quen học tập thụ động, xây dựng nề nếp học tập chủ động; Phát huy được tính tích cực, vốn hiểu biết, kinh nghiệm sống, khả năng sáng tạo, các kĩ năng và năng lực vốn có của học sinh; Góp phần định hướng hình thành, rèn luyện và phát triển các kĩ năng sống và các năng lực cơ bản của học sinh như: giao tiếp, lắng nghe tích cực, hợp tác, trình bày suy nghĩ ý tưởng, tư duy phê phán và học hỏi người khác... hướng tới mục tiêu của việc giáo dục toàn diện. Sáng kiến thực sự là những thể nghiệm về PPDHTC theo hướng phát triển năng lực phẩm chất học sinh, đón đầu Chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa mới 2018, ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT, thực hiện từ năm học 2022 - 2023 đối với cấp THPT. Đối với các trung tâm GDTX, đối tượng học sinh dưới sàng, việc áp dụng các hình thức trò chơi học tập là hữu ích. Tạo sự hứng thú, tò mò, nhẹ nhàng, dễ tiếp thu và phù hợp với năng lực của các em. Đặc biệt là cách để các em thỏa sức sáng tạo của mình ở các trò chơi đặc biệt như sân khấu hóa tác phẩm văn học hay vẽ tranh... Sáng kiến có khả năng áp dụng dễ dàng, rộng rãi trong tất cả các Trung tâm GDTX và các trường THPT khi giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn 11. Những biện pháp mà sáng kiến đề xuất còn có thể linh hoạt áp dụng khi giáo viên thực hiện dạy tất cả các văn bản trong chương trình Ngữ văn các cấp THCS và THPT. Thậm chí, giáo viên ở bộ môn khác trong trường phổ thông cũng có thể áp dụng các nguyên tắc, những định hướng này trong một số tiết học. 3
- PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở lý thuyết 1.1. Chương trình Ngữ văn GDPT TT 2018 Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo chỉ rõ:“Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”, với mục tiêu: “Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân..” Với mục tiêu đó, đường lối đổi mới chương trình giáo dục phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhất định phải thực hiện thành công việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng hiện đại phù hợp với yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện mới cụ thể là: Thứ nhất chuyển từ chương trình định hướng nội dung dạy học sang chương trình định hướng năng lực: PPDH truyền thống là “định hướng nội dung” hay “định hướng đầu vào”, theo định hướng đó, người thầy sẽ truyền thụ kiến thức một chiều cho HS. Thế kỉ XXI tri thức đến với HS từ nhiều nguồn đa dạng, phong phú, HS có thể tự học nếu biết được cách học. Bởi vậy phương pháp giáo dục đã chuyển từ giáo dục “định hướng nội dung” sang định hướng năng lực còn được gọi là “dạy học định hướng kết quả đầu ra”. GV ở thế kỉ này phải có năng lực hướng dẫn, để HS tự tìm tòi lấy nội dung cần học và áp dụng vào thực tiễn không ngừng thay đổi, từ đó để người học có thể khẳng định được mình trong cộng đồng phức tạp, đa dạng và đổi thay, tạo ra thích ứng cao với mọi hoàn cảnh. Thứ hai giao quyền tự chủ xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục, phát huy vai trò sáng tạo của nhà trường và người dạy: Hiện nay, các cơ sở giáo dục được chủ động, linh hoạt trong việc xây dựng kế hoạch giáo dục phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường, của địa phương và khả năng của HS. Kế hoạch giáo dục của mỗi trường được xây dựng từ tổ bộ môn, được ban chuyên môn góp ý và phê duyệt để làm căn cứ tổ chức thực hiện. Việc giao quyền tự chủ xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục, tạo điều kiện cho các trường được linh hoạt áp dụng các hình thức tổ chức giáo dục, các PPDH tiên tiến mà không bị áp đặt từ cấp trên. Thứ ba đổi mới hình thức dạy học, phương pháp dạy học và kỹ thuật dạy học: Về hình thức tổ chức dạy học có nhiều hình thức dạy học mới được áp dụng như vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống thực tiễn; dạy học tích hợp theo chủ đề; dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh...; Về phương pháp kĩ thuật dạy học, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người 4
- truyền đạt kiến thức, GV là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Từ đó, hình thành và phát triển nhiều năng lực, phẩm chất cho Hhọc sinh trong quá trình học tập. Thứ tư đổi mới kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học: Kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học là những hoạt động quan sát, theo dõi, trao đổi, kiểm tra, nhận xét quá trình học tập, rèn luyện của học sinh; tư vấn, hướng dẫn, động viên học sinh; nhận xét định tính hoặc định lượng về kết quả học tập, rèn luyện, sự hình thành và phát triển một số năng lực, phẩm chất của học sinh nhằm mục đích giúp học sinh tự rút ra bài học và nhận xét lẫn nhau trong quá trình học tập, tự điều chỉnh cách học, qua đó dần hình thành và phát triển năng lực vận dụng kiến thức, khả năng tự học, phát hiện và giải quyết vấn đề trong môi trường giao tiếp, hợp tác; bồi dưỡng hứng thú học tập và rèn luyện của học sinh trong quá trình giáo dục. Với tinh thần đó việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh có vai trò quan trọng, quyết định sự thành công mục tiêu giáo dục đó là đào tạo ra con người toàn diện, chủ động, sáng tạo, thích ứng tốt với cuộc sống trong kỉ nguyên hội nhập. 1.2. Phát huy năng lực sáng tạo Năng lực sáng tạo được hiểu là sự thể hiện khả năng của học sinh trong việc suy nghĩ và tìm tòi, phát hiện những ý tưởng mới nảy sinh trong học tập và cuộc sống, từ đó đề xuất được các giải pháp mới một cách thiết thực, hiệu quả để thực hiện ý tưởng. Trong việc đề xuất và thực hiện ý tưởng, học sinh bộc lộ óc tò mò, niềm say mê tìm hiểu khám phá. Năng lực sáng tạo được thể hiện qua những biểu hiện sau: Biết đặt các câu hỏi khác nhau về một sự vật, hiện tượng; xác định và làm rõ thông tin, ý tưởng mới; phân tích, tóm tắt những thông tin liên quan từ nhiều nguồn khác nhau. Đề xuất được ý tưởng dựa trên các nguồn thông tin đã cho; đề xuất giải pháp cải tiến hay thay thế các giải pháp không còn phù hợp; so sánh và bình luận được về các giải pháp đề xuất. Trình bày những suy nghĩ và khái quát hoá thành tiến trình khi thực hiện một công việc nào đó; tôn trọng các quan điểm trái chiều; áp dụng điều đã biết vào tình huống tương tự. Sáng tạo là một năng lực vô cùng cần thiết không chỉ với mỗi cá nhân mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của dân tộc và nhân loại. Nó giúp con người tìm ra được nhiều giải pháp, ý tưởng để nâng cao chất lượng sống của mình, để cải tạo môi trường tự nhiên và xã hội theo hướng tích cực và tiến bộ hơn. Nói cách 5
- khác, sáng tạo là tiền đề cho sự phát triển của cá nhân và toàn thể nhân loại. Vì lẽ đó, phát triển năng lực sáng tạo trở thành một trong những mục tiêu quan trọng nhất của mọi nền giáo dục tiến bộ trên thế giới. Năng lực sáng tạo đương nhiên phụ thuộc vào môi trường xã hội với các yếu tố chủ yếu như chính trị, văn hoá, tôn giáo và giáo dục. Trong đó, giáo dục giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển năng lực sáng tạo đối với mỗi con người. Mọi môn học trong nhà trường đều ít nhiều chứa đựng những tiềm năng để có thể phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh. Việc hình thành và phát triển năng lực sáng tạo cũng là một mục tiêu mà môn học Ngữ văn hướng tới. Năng lực này được thể hiện trong việc xác định các tình huống và những ý tưởng, đặc biệt những ý tưởng được gửi gắm trong các văn bản văn học, trong việc tìm hiểu, xem xét các sự vật, hiện tượng từ những góc nhìn khác nhau, trong cách trình bày quá trình suy nghĩ và cảm xúc của học sinh trước một vẻ đẹp, một giá trị của cuộc sống. Năng lực suy nghĩ sáng tạo bộc lộ thái độ đam mê và khát khao được tìm hiểu của học sinh, không suy nghĩ theo lối mòn, theo công thức. 1.3. Hình thức trò chơi ở môn Ngữ văn 1.3.1. Vai trò của việc tổ chức trò chơi trong giờ học môn Ngữ văn Tổ chức trò chơi là một trong những hình thức dạy học đổi mới nhằm phát huy năng lực học sinh phổ thông về những nội dung liên quan đến bài học. Trò chơi là hoạt động được kiến tạo bằng luật lệ riêng, diễn biến của nó rất khó đoán định (so với hiện thực ngoài trò chơi), gợi dậy ở người chơi niềm hứng thú đặc biệt. Trò chơi vừa là một hoạt động giải trí vừa là một phương pháp giáo dục: giáo dục bằng trò chơi - một phương pháp truyền tải được kiến thức đến học sinh dễ dàng và tạo không khí học tập sôi nổi. Ưu điểm của việc áp dụng trò chơi: Là một hình thức học tập bằng hoạt động, hấp dẫn học sinh do đó duy trì tốt hơn sự chú ý của các em với bài học. Trò chơi làm thay đổi hình thức học tập chỉ bằng hoạt động trí tuệ, đo đó giảm tính chất căng thẳng của giờ học, nhất là các giờ học kiến thức lý thuyết mới. Trò chơi có nhiều học sinh tham gia sẽ tạo cơ hội rèn luyện kỹ năng học tập hợp tác cho học sinh. Nhược điểm: Khó củng cố kiến thức, kỹ năng một cách có hệ thống. Học sinh dễ sa đà vào việc chơi mà ít chú ý đến tính chất học tập của các trò chơi. Vì vậy, khi thiết kế trò chơi, giáo viên phải chú ý đến mục đích của trò chơi. Mục đích của trò chơi phải thể hiện mục tiêu của bài học hoặc một phần của chương trình. Sử dụng trò chơi học tập để hình thành kiến thức, kỹ năng mới hoặc củng cố kiến thức, kỹ năng đã học. Trong thực tế dạy học, giáo viên thường tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến thức, kỹ năng. Tuy nhiên việc tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi để hình thành kiến thức, kỹ năng mới để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới. 6
- Trò chơi phải có mục đích lành mạnh, tính sư phạm, tính giáo dục thì trò chơi mới đạt được hiệu quả giá trị về tinh thần và thể chất của người chơi. Đạo đức: tạo cho người chơi tính nhẫn nại, đoàn kết, hoà đồng với tập thể, vui tính, vị tha. Trí tuệ: Giúp cho người chơi có tính sáng tạo có óc quan sát nhanh, nhận định được lời nói nhanh, phán đoán và ứng xử khôn khéo, nhớ được lâu, khéo léo. Thể lực: Rèn luyện cho người chơi nhanh nhẹn tai mắt, tay chân, có sức bền cao, tăng cường thêm sinh lực, tính chịu khó, tháo vát. Ngoài những giá trị kể trên, trò chơi còn làm giảm đi những tật xấu như: nóng tính, cục cằn, không trung thực, sửa được những khuyết điểm mà cá nhân hay tập thể mắc phải trong cuộc sống. Việc lồng ghép trò chơi trong dạy và học môn Ngữ văn, kết hợp với những hình thức dạy học khác sẽ có ý nghĩa tích cực đối với yêu cầu đổi mới hiện nay. Giải pháp này sẽ làm thay đổi không khí căng thẳng trong giờ học, tăng thêm hứng thú cho người học, học sinh sẽ chú ý, chủ động trong chuẩn bị, mạnh dạn hơn trong đề xuất ý kiến của mình, phát huy tư duy sáng tạo. Việc tạo được hứng thú học tập của học sinh qua trò chơi cũng đem lại nhiều kết quả tốt cho phương pháp dạy Ngữ văn. Con đường lĩnh hội kiến thức của học sinh qua hình thức trò chơi trở nên ngắn hơn, dễ dàng hơn. Điều này cũng giúp giáo viên tận dụng được “vốn sẵn có” của mình, đồng thời khích lệ người thầy không ngừng tìm tòi, sáng tạo để những trò chơi luôn mới, không lặp lại nhàm chám mà có tác dụng giáo dục thiết thực, bổ ích. 1.3.2. Nguyên tắc áp dụng phương pháp trò chơi trong giờ dạy Ngữ văn Giáo viên cần chú ý đến đặc thù của từng phân môn; lưu ý mối quan hệ giữa trò chơi với hệ thống câu hỏi; vận dụng linh hoạt, hợp lí, đúng mức và đúng lúc để không xáo trộn nhiều không gian lớp học, nhanh chóng ổn định lớp học khi trò chơi kết thúc; trò chơi phải phù hợp với nội dung, mục tiêu cần đạt, không vận dụng cho tất cả các tiết học, đôi khi gây phản cảm, phản tác dụng; trò chơi bao giờ cũng kết thúc bằng thưởng cho người (đội) thắng hoặc xử phạt nhẹ nhàng cho vui (dí dỏm, tế nhị). Do đặc thù của mỗi phân môn, việc vận dụng lồng ghép trò chơi có những điểm khác nhau, giáo viên nên xem việc sử dụng trò chơi là một phần không thể thiếu trong giờ học, liên tục tổ chức các trò chơi để học sinh tham gia trên lớp, tạo bầu không khí vui vẻ, thư giãn, nhiệt huyết, và mang tính hợp tác. Tuy vậy, giáo viên phải chú ý lựa chọn trò chơi phù hợp với trình độ của học sinh để các em có thể phát huy tối đa khả năng của mình. Giáo viên cần phải có luật chơi rõ ràng, có thi đua, có thưởng, phạt công minh, bất vụ lợi, vô tư. 1.3.3. Mục đích tổ chức trò chơi ở môn Ngữ văn a/ Sử dụng trò chơi để hình thành kỹ năng 7
- Xác định mục đích của việc tổ chức trò chơi nhằm hình thành kỹ năng cho các em, chúng ta tổ chức trò chơi trên cơ sở vận dụng những tri thức của bài vừa học. Từ đó, giúp học sinh hình thành được những kỹ năng lựa chọn, cách giải quyết khi gặp những tình huống trong cuộc sống cũng như một số kỹ năng quan trọng khi làm bài. Bên cạnh đó, còn tạo tâm lý thoải mái, phấn khởi, học sinh hào hứng học tập hơn, giải tỏa tâm lý mệt mỏi, căng thẳng tinh thần do giờ học trước hoặc mệt mỏi do hoàn cảnh xung quanh gây ra. b/ Sử dụng trò chơi nhằm củng cố tri thức, phát huy năng lực sáng tạo Khác với việc tổ chức trò chơi vào hoạt động khởi động và hoạt động hình thành tri thức mới, sử dụng trò chơi vào hoạt động luyện tập, vận dụng và mở rộng để củng cố tri thức, hình thành thái độ có mục đích khác đó là: để học sinh thâu tóm được nội dung bài học, giúp khắc sâu, nhớ rõ hơn nội dung vừa học xong và phát huy năng lực sáng tạo cho học sinh. Mục đích của hoạt động luyện tập là yêu cầu học sinh phải vận dụng những kiến thức vừa học được ở hoạt động hình thành kiến thức mới để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể. Thông qua đó giáo viên xem học sinh đã nắm được kiến thức hay chưa và nắm được ở mức độ nào. Hoạt động luyện tập gồm các bài tập, nhiệm vụ yêu cầu học sinh củng cố các tri thức vừa học và rèn luyện các kỹ năng liên quan. Các bài tập trong hoạt động luyện tập tập trung hướng đến việc hình thành các kỹ năng cho học sinh, khác với bài tập trong hoạt động hình thành kiến thức mới chủ yếu hướng tới việc khám phá tri thức. Đây là hoạt động gắn với thực tiễn để học sinh hiểu và biết được mình hiểu kiến thức như thế nào, có góp gì vào hoạt động nhóm và xây dựng các hoạt động của tập thể lớp. Hoạt động nhóm để trao đổi, chia sẻ kết quả mình làm được, thông qua đó học sinh có thể học tập lẫn nhau, tự sửa lỗi cho nhau, giúp cho quá trình học tập, năng lực sáng tạo cũng được phát huy cao độ. Mục đích của hoạt động vận dụng giúp học sinh sử dụng kiến thức, kỹ năng đã học để giải quyết các vấn đề, nhiệm vụ trong thực tế. "Thực tế" ở đây được hiểu là thực tế trong nhà trường, trong gia đình và trong cuộc sống của học sinh. Hoạt động này sẽ khuyến khích học sinh nghiên cứu, sáng tạo, tìm ra cái mới theo sự hiểu biết của mình; tìm phương pháp giải quyết vấn đề và đưa ra những cách giải quyết vấn đề khác nhau; góp phần hình thành năng lực học tập với gia đình và cộng đồng. Hoạt động mở rộng là hoạt động được triển khai ở nhà, cộng đồng; động viên khuyến khích học sinh nghiên cứu, sáng tạo. Mục đích của các hoạt động này nhằm giúp học sinh tiếp tục mở rộng kiến thức, kỹ năng; phát huy năng lực sáng tạo của học sinh, định hướng để đáp ứng nhu cầu tiếp tục học tập, rèn luyện sau mỗi bài học cụ thể. 1.3.4. Phương tiện khi tổ chức trò chơi Thực tế, qua các tiết dự giờ của đồng nghiệp, tôi thấy thường khi cho học sinh chơi trò chơi, đa số chỉ tổ chức “suông” mà thiếu sự chuẩn bị như: không hóa trang nhân vật, không đủ phiếu cá nhân, không có thẻ xanh, thẻ đỏ để phục vụ đánh giá, không có phần thưởng…Chính vì điều đó, mà mỗi lần tổ chức trò chơi là một lần 8
- thiếu hấp dẫn học sinh, dẫn đến sự đơn điệu và nhàm chán. Vì vậy để tổ chức trò chơi trong giờ học văn đòi hỏi giáo viên và học sinh phải chuẩn bị đầy đủ các phương tiện cần thiết. Nội dung phải vừa sức học sinh, phải đảm bảo đủ thông tin kiến thức mà học sinh đã nắm được, không dễ quá và cũng không khó quá, cần phù hợp với cuộc sống thực tế của học sinh, giúp các em dễ vận dụng vào thực tiễn. Nội dung trò chơi phải có tính khả thi, trò chơi đưa ra phải phù hợp với thực tế trường, lớp. 1.3.5. Chọn cách tổ chức trò chơi có hiệu quả Phương pháp và hình thức dạy học môn ngữ văn rất phong phú, đa dạng bao gồm các phương pháp hiện đại: hoạt động nhóm, đóng vai, đặt và giải quyết vấn đề, nghiên cứu trường hợp điển hình, trò chơi, dự án, động não... và các phương pháp truyền thống: thuyết trình, đàm thoại, kể chuyện…Mỗi phương pháp dạy học đều có mặt tích cực và hạn chế riêng, phù hợp với từng thể loại và đòi hỏi những điều kiện thực hiện riêng.Vì vậy, giáo viên không nên phủ định hoặc lạm dụng phương pháp nào. Điều quan trọng là căn cứ vào nội dung, tính chất của từng bài, căn cứ vào trình độ nhận thức của học sinh và năng lực, sở trường của giáo viên, căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của lớp, của trường mà lựa chọn và sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học một cách hợp lý. Trong dạy học môn Ngữ văn, có thể vận dụng phương pháp “Trò chơi” nhằm khởi động cho giờ học, hình thành kiến thức mới, luyện tập, vận dụng và sáng tạo. Cách tổ chức các trò chơi: * Bước 1: Phổ biến trò chơi Giáo viên giúp học sinh nắm vững trò chơi như: Tên trò chơi, nội dung, cách chơi, cách phân thắng bại… Giáo viên chọn một số học sinh tham gia trò chơi, bảo đảm qua các giờ học, lần lượt học sinh được tham gia tất cả, đặc biệt chú ý những học sinh nhút nhát, ít phát biểu. * Bước 2: Học sinh thực hiện trò chơi Các em thảo luận với nhau về việc thực hiện trò chơi. Một nhóm học sinh thực hiện trò chơi trước lớp, cả lớp theo dõi. Những em khác, nhóm khác có thể tiếp tục thực hiện trò chơi (đối với trò chơi sắm vai thì có cách giải quyết khác). * Bước 3: Tổng kết, đánh giá Giáo viên hướng dẫn học sinh đánh giá việc thực hiện trò chơi: trò chơi có được thực hiện đúng quy tắc không, có phù hợp với nội dung bài học không, có thể rút ra bài học gì qua trò chơi này? Giáo viên nhận xét, đánh giá chung và tuyên bố nhóm (hay cá nhân) thắng cuộc (nếu có). 9
- Giáo viên khen thưởng nhóm có kết quả tốt bằng cách: Tặng một tràng pháo tay cùng với những lời động viên khen ngợi. Ghi điểm các thành viên trong nhóm. Trao thẻ đỏ cho nhóm thực hiện tốt, thẻ xanh cho nhóm chưa tốt. Trao thưởng một hoặc hai gói quà cho đội thắng. Như vậy, với những biện pháp đã vận dụng vào từng thời điểm, mục đích, nội dung khác nhau thật sự phát huy tác dụng, giờ dạy học thực sự là giờ “vừa học, vừa chơi”, kết hợp được giữa “học và hành”, hấp dẫn học sinh và gây sự chú ý học hơn nhiều. 1.3.6. Một số trò chơi lồng ghép trong giờ dạy học a. Trò chơi điền bảng Thay bằng việc cho học sinh lập bảng thống kê kiến thức bình thường, ta có thể làm thành những tờ phiếu kiến thức, sau đó phát cho nhóm và yêu cầu các nhóm học sinh dùng thẻ này để điền vào ô trống trên bảng thống kê. Mục tiêu cuối cùng là giúp học sinh thống kê được kiến thức. Cách này nhẹ nhàng mà huy động được sự tham gia của cả lớp. Cách tiến hành: GV làm một bảng tổng kết trong đó chỉ có đề mục và các tiêu chí thống kê. Phần nội dung các ô trong bảng sẽ được chuyển thành các thẻ, các thẻ này phát cho các nhóm. Các nhóm thực hiện công việc của mình sau đó trình bày kết quả, giáo viên đánh giá hiệu quả của mỗi nhóm và trao thưởng cho nhóm làm tốt nhất. b. Trò chơi “Thuyết minh biểu tượng” Trò chơi này kích thích khả năng sáng tạo, trí tưởng tượng và khả năng diễn đạt của học sinh. Mục đích chủ yếu của trò chơi này là rèn luyện kỹ năng thuyết trình. Cách tiến hành: GV chia học sinh thành nhóm (4-10 học sinh) Mỗi nhóm sẽ vẽ một bức tranh biểu tượng trong khoảng thời gian quy định sau đó thuyết minh ý nghĩa của nó. Từng nhóm lên thuyết trình về biểu tượng của nhóm mình. Các nhóm khác đặt câu hỏi phản biện với nhóm thuyết trình. c. Trò chơi “Ô chữ” Là hình thức mà người tổ chức ô chữ, yêu cầu người chơi phải điền cho đúng những chữ mà người tổ chức đã đưa ra cho mỗi ô chữ bằng một từ khóa. Cách tiến hành: 10
- GV soạn ra một ô chữ cùng với các câu hỏi đi kèm tương ứng với kiến thức của các ô hàng ngang cần thực hiện. Giáo viên lần lượt nêu ra các câu hỏi, học sinh có quyền lựa chọn ô hàng ngang. Nếu ai không trả lời được theo thời gian quy định thì phải nhường lượt cho nhóm khác tiếp tục trò chơi. Nhóm nào tìm được kiến thức ở ô hàng ngang thì được cộng điểm, tìm được ô hàng dọc khi chưa giải hết ô hàng ngang sẽ là đội thắng cuộc. d. Trò chơi “đuổi hình bắt chữ” Trò chơi này thường sử dụng chơi chữ, ẩn dụ, hoán dụ một cách linh hoạt. Nhìn vào hình ảnh, học sinh phải đoán được nội dung liên quan. Có tác dụng bổ trợ kiến thức; kích thích trí liên tưởng, tưởng tượng của học sinh; mang lại hứng thú cho học sinh và tạo giờ học sôi nổi. Chuẩn bị: Câu hỏi, đáp án Tranh, ảnh hấp dẫn có liên quan đến nội dung hỏi Máy chiếu Đồng hồ đếm ngược Cách thức tiến hành: GV cho học sinh quan sát ảnh và đặt câu hỏi Học sinh suy nghĩ, liên tưởng trong vòng 10 giây rồi trả lời. Tổ chức lồng ghép linh hoạt trò chơi vào quá trình dạy học tạo được sự hứng thú, lôi cuốn học sinh, tăng sức hút của bộ môn với học sinh. e. Trò chơi sắm vai “Sắm vai” là phương pháp học sinh thực hành, “làm thử”, “diễn thử” một đoạn hội thoại nào đó hay đóng vai một nhân vật trong một đoạn trích, tác phẩm nào đó. Sắm vai là thể hiện nhân vật trong kịch bản lên sân khấu hay màn ảnh bằng cách hành động, nói năng như thật. Học sinh có thể là tác giả, là nhân vật, là độc giả hay một người dẫn chương trình phỏng vấn nhà văn, nhà thơ về nhân vật hoặc tác phẩm hay ý tưởng sáng tác. Tổ chức trò chơi sắm vai trong quá trình dạy học tạo được sự hứng thú giảm căng thẳng cho giờ học. Học sinh rèn luyện được kĩ năng giao tiếp và tự tin trước đám đông. g. Trò chơi ghép tranh Trò chơi ghép tranh là xếp các mảnh ghép khác nhau thành một bức tranh hoàn chỉnh có chứa thông tin liên quan đến nội dung bài học. 11
- Mục đích: Rèn luyện năng lực tư duy, sự nhanh nhẹn, khéo léo giúp học sinh nhớ lại nội dung bài học một cách lôgic và giờ học sẽ vui vẻ, nhẹ nhàng, học sinh sẽ rất hào hứng với môn học. h. Trò chơi giải mật thư Giao cho học sinh tự tổ chức, chuẩn bị bài tập, câu đố … để làm thành mật thư. Mỗi nhóm phụ trách một chặng. Học sinh nào giải được tất cả các mật thư thì sẽ chiến thắng. Trò chơi này giúp học sinh phát huy năng lực làm việc nhóm, giải quyết vấn đề và hợp tác cùng nhau. Ngoài những trò chơi kể trên, giáo viên có thể sử dụng nhiều hình thức trò chơi khác như: Hỏi nhanh đáp gọn; gián giấy; Hiểu ý đồng đội; điền vào ô trống; giải ô chữ; chung sức... qua đó tái hiện được đời sống xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định cũng như bài học gửi gắm sau mỗi tác phẩm văn học cụ thể. Hình thành và rèn luyện nhiều năng lực cho HS: năng lực hoạt động nhóm, năng lực tổ chức sự kiện, năng lực cảm thụ... đáp ứng nhu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy năng lực HS. Như vậy, thay vì chỉ được học những kiến thức mà thầy cô truyền đạt, tự bản thân mỗi học sinh cũng có thể tìm tòi, khám phá thêm những kiến thức, những vận dụng mới liên quan đến bài học thông qua các hình thức trải nghiệm phong phú, sinh động, hấp dẫn từ các trò chơi trong giờ học. 1.4. Hoạt động luyện tập và hoạt động vận dụng 1.4.1. Hoạt động luyện tập Tổ chức cho học sinh luyện tập là thao tác sử dụng kĩ năng và khả năng tiếp thu kiến thức để thực hiện các nhiệm vụ nhằm khắc sâu kiến thức trọng tâm của bài học. Giáo viên tạo ra các bài tập hoặc nhiệm vụ (không phải những câu hỏi vấn đáp thường gặp) để thông qua đó, học sinh được lặp lại các thao tác, kĩ năng như phân tích, giải thích, so sánh, suy luận, tổng hợp… Bên cạnh đó giáo viên cần vận dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để hoạt động luyện tập trở nên phong phú, hấp dẫn và học sinh được hoạt động một cách hào hứng và hiệu quả. Sản phẩm của hoạt động luyện tập cũng được học sinh tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau qua bảng kiểm và phiếu đánh giá theo tiêu chí. Giáo viên có thể kết hợp đánh giá và cho điểm với các sản phẩm có chất lượng tốt. 1.4.2. Hoạt động vận dụng Việc đánh giá kết quả vận dụng sau khi học xong bài học thể hiện qua các câu hỏi, vấn đề, tình huống mà giáo viên đặt ra trong quá trình truyền thụ kiến thức lần lượt qua các mức độ tự học để biết, để hiểu và vận dụng được. Và để phát huy năng lực sáng tạo cho học sinh giáo viên cần thể hiện bằng cách cộng điểm khuyến kích cho HS. Nhưng để đảm bảo kiến thức tự học là khoa học, chính xác thì nhất thiết phải dành thời gian cho học sinh hoạt động suy nghĩ, thực hành, phán đoán, thảo 12
- luận…thời gian càng nhiều càng tốt, miễn là tổ chức khoa học. Nên có phần dành riêng cho học sinh khá - giỏi, có phần phù hợp với học sinh yếu - kém. Như vậy các nhóm học sinh có trình độ khác nhau đều được thử thách và đánh giá sẽ không gây hiện tượng nhàm chán hay “ đuối sức” trong tự học nói riêng và học tập nói chung. 1.5. Học sinh của các Trung tâm GDTX Một thực tế là cùng học một chương trình THPT, cùng bộ SGK và cùng chung một kì thi tốt nghiệp THPT QG; nhưng giữa học sinh các trường THPT và các Trung tâm GDTX chênh lệch nhau về đầu vào tuyển sinh. Học sinh GDTX thường là học sinh dưới sàng, một là thi vào trường THPT không đậu; hai là học xong chương trình cấp THCS và không đăng kí thi THPT. Vì chất lượng đầu vào thấp kéo theo đó là đa số ý thức học tập chưa cao, ít chủ động trong các hoạt động học tập. Đặc biệt với các Trung tâm miền núi cao như Tương Dương, mục đích các em đi học để được nhận tiền hỗ trợ của Chính phủ, thành ra ý thức tự chủ tự học và tìm tòi sáng tạo là chưa có. Để kích thích sự tò mò, tạo không khí vui vẻ cho học sinh trong các giờ học, việc lồng ghép các trò chơi vào học tập là thiết thực đối với tất cả các bộ môn. Với những ứng dụng cụ thể cho phân môn đọc hiểu văn bản của bộ môn Ngữ văn, lồng ghép trò chơi vào phần luyện tập và vận dụng sẽ giúp học sinh phát huy được năng lực sáng tạo và thỏa sức thể hiện năng khiếu của các em. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Về phía GV Hầu hết giáo viên đã nhận thức khá rõ về tầm quan trọng, sự cần thiết phải vận dụng đa dạng các PPDHTC nhằm phát triển phẩm chất, năng lực học sinh trong các bài đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn hiện nay. Trong quá trình thiết kế giáo án, không phải thầy cô không chú ý xác định mục tiêu và tổ chức thực hiện vận dụng đa dạng các PPDHTC nhằm phát triển phẩm chất, năng lực HS vào bài dạy. Tuy nhiên, việc vận dụng đa dạng các PPDHTC nhằm phát triển phẩm chất, năng lực HS chưa thành hệ thống, còn tùy tiện, nếu không nói là mạnh ai nấy dạy. GV nào có hứng thú thì tự mình thực hiện vận dụng đa dạng các PPDHTC nhằm phát triển phẩm chất, năng lực HS trong một vài tiết dạy, phục vụ chuyên đề, hội giảng...đôi khi việc vận dụng còn thiếu sự cẩn trọng, lựa chọn chưa kĩ càng dẫn đến tình trạng lan man, phá vỡ mạch bài giảng... cùng với nữa là mức độ áp dụng chưa thường xuyên, kết quả vận dụng còn nhiều hạn chế, chủ yếu là mang tính hình thức, thiếu tự nhiên, chưa thuyết phục. Chúng tôi tiến hành khảo sát thực trạng vận dụng một số PPDHTC nhằm phát triển năng lực, phẩm chất HS qua giảng dạy bộ môn Ngữ văn GDTX. Kết quả khảo sát giáo viên như sau: Phương pháp khảo sát là trao đổi bằng bảng hỏi, thông qua ứng dụng Google forms: https://docs.google.com/forms/d/e/1FAIpQLSeh85IpasOmLhLswML9_ GJL9KK0ArAx2NkT-1qZlRzR1isDuA/viewform?usp=sf_link 13
- Số giáo viên được khảo sát: 7 giáo viên dạy THPT của Trung tâm GDNN-GDTX Tương Dương; 02 giáo viên giảng dạy Ngữ văn Trường THPT Tương Dương I và 08 giáo viên giảng dạy Ngữ văn ở các Trung tâm khác (không bao gồm tác giả đề tài; Câu hỏi khảo sát ở Phụ lục 2). Nhận xét: các giáo viên Ngữ văn giảng dạy lớp 11 tại các đơn vị có thực hiện việc thiết kế và lồng ghép trò chơi trong giảng dạy môn Ngữ văn và bộ môn khác thì 94,1% GV được khảo sát khẳng định đều tập trung vào mục đích Tạo ra hứng thú và phát huy tính chủ động, tích cực cho học sinh. 100% GV đều thiết kế sẵn trò chơi học tập lồng ghép khi dạy học. Mức độ thu hút HS khi tham gia trò chơi ở mức độ cao là 80%, mức độ trung bình là 20%. Khi thiết kế và lồng ghép trò chơi vào dạy học có 82,4 % GV đánh giá giờ học đạt hiệu quả cao, có 17,6 % GV đánh giá hiệu quả trung bình. Như vậy, thông qua đánh giá của giáo viên với việc thiết kế và lồng ghép trò chơi học tập trong dạy học nói chung và dạy môn Ngữ văn nói riêng hiện nay là vô cùng cần thiết để tăng hiệu quả trong dạy và học. Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng trên là: Thứ nhất: Đại đa số GV vẫn chủ yếu phụ thuộc vào tiến trình các bài học được trình bày trong SGK, GVchưa chủ động rà soát nội dung chương trình, chưa chủ động cấu trúc lại nội dung chương trình cho phù hợp với định hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho HS. Thứ hai: GV chưa thực sự đầu tư có hiệu quả trong công tác giảng dạy, chưa chịu khó đổi mới trong dạy học, chưa chú trọng đến tổ chức hoạt động trải nghiệm và sáng tạo cho HS ở cả trong và ngoài lớp, đặc biệt chưa quan tâm đến hoạt động thực hành và ứng dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. Thứ ba: Chưa xem HS là chủ thể của hoạt động học văn, chưa trao cho các em tính chủ động trong học tập, chưa coi HS là chủ thể của hoạt động học tập. Thứ tư: Yếu tố không gian, các công cụ hỗ trợ phù hợp với từng hình thức như sân khấu ngoài trời, phòng hóa trang, hoạt động trải nghiệm thực tế...chưa đáp ứng được yêu cầu. 14
- Thứ năm: Việc áp dụng các PPDHTC, sáng tạo mất khá nhiều thời gian và cũng tốn kém về vật chất nên tâm lý một số thầy cô còn e ngại và né tránh. 2.2. Về phía HS Việc tổ chức dạy học có vận dụng các PPDHTC đã tạo điều kiện để mỗi HS bộc lộ thế mạnh và khả năng, sở thích cá nhân trong việc tự kiến tạo kiến thức cho mình, khuyến khích sự tìm tòi cá nhân, các hướng tư duy và lập luận theo các góc độ khác nhau trong quá trình học tập; HS có sự hứng thú với việc học, các em có cơ hội bộc lộ quan điểm riêng của mình. Bên cạnh đó vẫn còn những HS yếu kém hoặc chưa mạnh dạn bày tỏ quan điểm riêng. Nhiều HS không thích học môn Văn, càng ngại phải thực hiện các nhiệm vụ học tập do thầy cô giao nên lúng túng trong việc lựa chọn kiến thức. Đối với học sinh hệ GDTX lại càng khó khăn hơn trong việc thực hiện các nhiệm vụ học tập. Điểm đầu vào thấp, học lực dưới sàng so với các trường THPT; gia đình lại ít quan tâm đến việc học của con em. Tâm lý đi học để được nhận chế độ của Nhà nước nên thụ động trong việc học nói chung ở tất cả các bộ môn. Kết quả khảo sát học sinh như sau: Phương pháp khảo sát là trao đổi bằng bảng hỏi, thông qua ứng dụng Google forms: (Câu hỏi khảo sát ở phụ lục 3) https://docs.google.com/forms/d/e/1FAIpQLScc_57Xj129nzdbwIn- f8McB7EL8_KDNrEZ26LqMh0MjowZnw/viewform?usp=sf_link Để có căn cứ chính xác, khách quan đánh giá thực trạng việc vận dụng các PPDHTC nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 11 trong hoạt động luyện tập và vận dụng thông qua hình thức trò chơi ở môn Ngữ văn 11 GDTX; tôi tiến hành khảo sát học sinh tại Trung tâm GDNN-GDTX Tương Dương ở miền núi cao, Trung tâm GDNN-GDTX Tân Kỳ thuộc khu vực miền núi, Trung tâm GDNN- GDTX Thái Hòa đại diện cho học sinh vùng trung du và Trung tâm GDTX Số 2 Nghệ An đại diện cho học sinh vùng đồng bằng. Tổng TT Tên đơn vị Lớp Số học sinh số Trung tâm GDNN-GDTX Tương 11 A 20 1 Dương 45 11B 25 Trung tâm GDNN-GDTX Thái Hòa 11A 30 2 60 11C 30 3 Trung tâm GDTX Số 2 Nghệ an 11A2 45 45 Trung tâm GDNN-GDTX Tân Kỳ 11A 30 4 62 11B;11D 32 Bảng 1: Danh sách Trung tâm, lớp khảo sát năm học 2023-2024 15
- Khảo sát 212 học sinh lớp 11 ở 04 Trung tâm, có tới 67% em khẳng định không thích học phần luyện tập và vận dụng. 51,4% cho biết các em không được trình bày suy nghĩ, ý kiến của mình và gần 100% phản ánh không chủ động và ít chủ động trong tiết đọc hiểu khi sang phần luyện tập và vận dụng. Học sinh ở các Trung tâm 100% khẳng định chơi trò chơi học tập sẽ giúp khắc sâu kiến thức hơn nhưng 61,8% thỉnh thoảng mới được chơi trò chơi học tập hoặc 38,2% không được chơi trò chơi. 100% em khẳng định: trong các giờ đọc hiểu văn bản ở môn Ngữ văn, các em rất có khả năng hoặc có khả năng tham gia đóng vai, viết kịch bản, tạo video, vẽ tranh, vẽ sơ đồ tư duy, tạo powerpoint, thuyết trình.... Về mong muốn được tham gia các hoạt động học tập, 100% học sinh được khảo sát đều mong muốn được thể hiện năng khiếu, thỏa sức sáng tạo học tập vào các trò chơi. Một trong những nguyên nhân của thực trạng ấy là: Thứ nhất: Tâm lí lựa chọn nghề nghiệp theo thực tiễn xã hội hiện nay dẫn đến tình trạng nhiều HS ít hoặc không chú ý đến môn Ngữ văn, những phạm vi kiến thức mà mình không phải thi. Thứ hai: HS chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, tiếp nhận kiến thức, lười suy nghĩ, sáng tạo nên không tránh khỏi bỡ ngỡ, lạ lẫm chưa phát huy được năng lực chủ động, sáng tạo vì vậy giờ học trở nên căng thẳng, mệt mỏi, bó buộc thậm chí có cả sự ức chế. Thứ ba: Một số em thường nhút nhát, e rè khi tham gia hoạt động, hình thức học tập mới của bộ môn. Cha mẹ HS chưa nhận thức rõ tác dụng, tầm quan trọng 16
- của phương pháp học tập mới nên còn chưa quan tâm và ủng hộ đúng mức tới các hoạt động chuyên môn của nhà trường. Thứ tư: Khi áp dụng một số PPDHTC, HS được giao nhiệm vụ chuẩn bị trước ở nhà, nhiệm vụ vận dụng sáng tạo nhiều hơn, phong phú hơn nên đòi hỏi thời gian công sức của các em nhiều hơn so với cách học truyền thống. Từ thực tế ta thấy việc vận dụng các PPDHTC nhằm phát triển năng lực, phẩm chất HS qua các bài đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn GDTX hiện nay là một việc làm cần thiết để đem lại hiệu quả như mục tiêu đặt ra. Tất cả những vấn đề trên đây là cơ sở để tôi quyết định chọn đề tài “Phát huy năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 11 trong hoạt động luyện tập và vận dụng khi dạy đọc hiểu văn bản thông qua hình thức trò chơi ở môn Ngữ văn GDTX” để nghiên cứu. 3. Các giải pháp phát huy năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 11 thông qua hình thức trò chơi được áp dụng trong hoạt động luyện tập và vận dụng khi dạy đọc hiểu văn bản ở môn Ngữ văn GDTX 3.1. Mục đích của giải pháp Đề xuất một số hình thức tổ chức giáo dục qua môn Ngữ văn, khi dạy chương trình Ngữ văn 11 GDTX giúp học sinh nhận thức “chuẩn” vai trò, nhiệm vụ của mình, để từ đó thay đổi hoạt động học trong việc tiếp cận tri thức và các phẩm chất cần có, cần đạt từ bộ môn để phát huy năng lực sáng tạo của học sinh nhằm: Làm cho giờ dạy trở nên sinh động, không còn không khí căng thẳng, tạo sự thân thiện, gần gũi giữa giáo viên và học sinh. Đồng thời tạo sự hứng thú học tập, kích thích sự chú ý, tập trung cho học sinh. Giúp học sinh hình thành và khắc sâu kiến thức một cách tự nhiên; chủ động trong chuẩn bị, hình thành thói quen, năng lực tự học, tinh thần hợp tác, mạnh dạn trong đề xuất ý kiến cá nhân và phát triển khả năng tư duy, sáng tạo, liên tưởng. Từ đó các em rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn. 3.2. Những điểm cần lưu ý khi thực hiện giải pháp Sự khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp cũ: Giải pháp cũ Giải pháp mới - Giáo án: Luyện tập và vận dụng được - Kế hoạch bài dạy, luyện tập và vận cụ thể hóa ở mục Củng cố và ghi nhớ. dụng nằm trong 5 hoạt động: Hoạt động Khởi động (Mở đầu), Hình thành kiến thức, Luyện tập, Vận dụng và Mở rộng sáng tạo. - Chưa được chú trọng. - Rất được chú trọng là một hoạt động đặc biệt quan trọng trong việc phát triển năng lực tư duy, sáng tạo cho học sinh. 17
- - Là những bài tập nhanh, trắc nghiệm - Là những bài tập công phu, sinh động khách quan dễ làm và nhanh quên. giúp học sinh khắc sâu kiến thức, phát huy sự chủ động sáng tạo. Học sinh được đặt vào các tình huống có vấn đề, yêu cầu sử dụng các kĩ năng phân tích, tổng hợp, khái quát, so sánh để giải quyết nhiệm vụ, bài tập. - Những câu hỏi và đơn vị kiến thức áp - Học sinh tiếp thu kiến thức dễ dàng, đặt từ phía giáo viên. đơn giản. - Học sinh nhàm chán, ngại làm bài - Kích thích trí tò mò, tăng thêm lòng tập. yêu thích bộ môn Văn. 3.3. Cách thức thực hiện Trò chơi là phương tiện có ý nghĩa trong việc góp phần thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo và gây hứng thú trong giờ học của học sinh. Ngoài ra thông qua hoạt động trò chơi còn giúp các em phát triển được nhiều phẩm chất đạo đức như tình đoàn kết, thân ái, lòng trung thực, tinh thần cộng đồng trách nhiệm. Do vậy quan điểm“Thông qua hoạt động vui chơi để tiến hành hoạt động học tập” là phù hợp với từng lứa tuổi, từng môn học đặc biệt là đối với môn Ngữ văn. Như vậy, thay vì chỉ được học những kiến thức mà thầy cô truyền đạt, tự bản thân mỗi học sinh cũng có thể tìm tòi, khám phá thêm những kiến thức, những vận dụng mới liên quan đến bài học thông qua các hình thức trải nghiệm phong phú, sinh động, hấp dẫn từ các trò chơi trong giờ học. Các hình thức trò chơi trong môn Ngữ văn bao gồm: Trò chơi điền bảng; Trò chơi Thuyết minh biểu tượng; Trò chơi Ô chữ; Trò chơi đuổi hình bắt chữ; Trò chơi sắm vai; Trò chơi ghép tranh; Trò chơi giải mật thư; Trò chơi Ai nhanh hơn ai; Đi tìm bí mật bức tranh (lật mảnh ghép, đoán hình nền, thông điệp bức tranh); Củng cố qua sơ đồ tư duy; Vẽ tranh tái hiện lại nội dung văn bản... Trong dạy học môn Ngữ văn theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực như hiện nay, việc vận dụng các hình thức “Trò chơi” nhằm phát huy năng lực sáng tạo cho học sinh trong các hoạt động học tập nói chung và hoạt động luyện tập, vận dụng nói riêng đã trở thành việc làm thiết yếu. Để tổ chức có hiệu quả giải pháp này, trong phạm vi sáng kiến, người viết đề xuất cách thức thực hiện như sau: - Thứ nhất: căn cứ vào nội dung, tính chất của từng hoạt động; căn cứ vào trình độ nhận thức của học sinh và năng lực, sở trường của giáo viên; căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của lớp, của trường mà lựa chọn hình thức trò chơi sao cho phù hợp. - Thứ hai: Khi đã lựa chọn được trò chơi, GV phổ biến luật chơi, giới thiệu nội dung trò chơi, cách chơi và cách phân định kết quả trò chơi. - Thứ ba: Tổ chức cho học sinh tham gia trò chơi. 18
- - Thứ tư: Tổng kết, đánh giá Như vậy, với những biện pháp đã vận dụng vào từng thời điểm, mục đích, nội dung khác nhau thật sự phát huy tác dụng, giờ dạy học thực sự là giờ “vừa học, vừa chơi”, kết hợp được giữa “học và hành”, hấp dẫn học sinh và gây sự chú ý học hơn nhiều. 3.4. Các giải pháp cụ thể 3.4.1. Hình thức trò chơi “Thông điệp bức tranh” phát huy năng lực sáng tạo khi dạy đọc hiểu văn bản truyện Chí Phèo của Nam Cao a. Mục tiêu: - Phát triển phẩm chất năng lực học sinh - Phát triển năng lực sáng tạo - Đạt kết quả bài học về đặc trưng thể loại: HS biết đọc hiểu văn bản truyện ngắn hiện đại: + Nhận biết và phân tích được một số yếu tố của truyện ngắn hiện đại như: không gian, thời gian, câu chuyện, nhân vật, người kể chuyện ngôi thứ 3 (người kể chuyện toàn tri) và người kể chuyện ngôi thứ nhất (người kể chuyện hạn tri), sự thay đổi điểm nhìn, sự nối kết giữa lời người kể chuyện, lời nhân vật,... + Phân tích được các chi tiết tiêu biểu, đề tài, câu chuyện, sự kiện, nhân vật và mối quan hệ của chúng trong tính chỉnh thể của tác phẩm; nhận xét được những chi tiết quan trọng trong việc thể hiện nội dung văn bản. + Phân tích và đánh giá được chủ đề, tư tưởng, thông điệp được tác giả gửi gắm trong văn bản; phân biệt chủ đề chính, chủ đề phụ trong một văn bản có nhiều chủ đề. + Phân tích và đánh giá được tình cảm, cảm xúc, cảm hứng chủ đạo được người viết thể hiện qua văn bản; phát hiện được các giá trị văn hoá, triết lí nhân sinh từ văn bản. b. Quy trình: Chọn một học sinh dẫn chương trình. Học sinh xung phong trả lời, nếu trả lời đúng có phần thưởng, nếu sai mất quyền trả lời ở câu sau, bạn khác trả lời. Kết thúc giáo viên tuyên dương học sinh, cho điểm hoặc trao quà. c. Cách tiến hành qua bài học: Khi dạy xong hình thành kiến thức mới cho học sinh trong tác phẩm Chí phèo, đến phần luyện tập, tôi đưa ra một bức tranh chứa đựng chủ đề sẽ được giải mã thông qua các câu hỏi có liên quan. Yêu cầu các em giải mã được thông điệp của bức tranh. 19
- Các câu hỏi gợi ý để tìm hiểu bí ẩn chủ đề: Câu 1: Điền vào dấu ba chấm: Một tác phẩm văn học chân chính, đích thực luôn song song tồn tại giá trị hiện thực và …. Đáp án: giá trị nhân đạo Câu 2: Một chương trình được phát sóng thường xuyên trên VTV1 vào trước chương trình Thời sự mỗi ngày để lan tỏa cách sống đẹp đến cộng đồng là gì? Đáp án: Việc tử tế Câu 3: Bệnh phong ngày nay được gọi là bệnh gì theo quan niệm của người xưa ? Đáp án: Bệnh hủi Câu 4: Khi chê ai đó xấu người ta thường dùng thành ngữ nào? Đáp án: Ma chê quỷ hờn Câu 5: Điền vào dấu ba chấm: Nói về thời gian hưởng thụ thành quả trồng trọt, có câu: trẻ trồng na, già trồng…? Đáp án: Chuối Câu 6: Điền từ còn thiếu vào dấu ba chấm trong câu thơ sau: … vằng vặc giữa trời Đinh ninh hai miệng một lời song song Đáp án: Vầng trăng Câu 7: Quá lứa lỡ thì mà chưa kết hôn thì gọi là gì? Đáp án: Ế chồng Thông điệp của bức tranh là ngợi ca tấm lòng thơm thảo của thị Nở, một người con gái xấu ma chê quỷ hờn nhưng sống có tình người, chính thị Nở đã giúp Chí Phèo hoàn lương, mang đến cho Chí những tháng ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời. Bát cháo hành là biểu tượng của tình người ấm nóng duy nhất còn sót lại 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tăng cường sử dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy môn Toán THPT
37 p | 41 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Soạn dạy bài Clo hóa học 10 ban cơ bản theo hướng phát triển năng lực học sinh
23 p | 55 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng hệ thống câu hỏi bài tập chương Liên kết hóa học - Hóa học 10 - Nâng cao nhằm phát triển năng lực học sinh
24 p | 70 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p | 31 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh
28 p | 36 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực học tập của học sinh thông qua dạy học dự án môn hóa học
54 p | 48 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển tư duy lập trình và khắc phục sai lầm cho học sinh lớp 11 thông qua sử dụng cấu trúc rẽ nhánh
24 p | 31 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát huy tính tích cực và chủ động trong học tập cho học sinh khi áp dụng phương pháp dạy học theo góc bài Axit sunfuric - muối sunfat (Hóa học 10 cơ bản)
26 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Ứng dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực theo định hướng phát triển năng lực học sinh vào dạy học truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
33 p | 73 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM phần hóa học phi kim lớp 11 nhằm phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh
71 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp thực hiện một số công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh trong dạy học môn Địa lí ở trườngTHPT Lạng Giang số 2
57 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực học văn cho học sinh THPT thông qua kiểu bài làm văn thuyết minh
48 p | 24 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp phát huy tính tự chủ của học sinh lớp chủ nhiệm trường THPT Vĩnh Linh
12 p | 13 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lựa chọn một số bài tập phát triển sức mạnh tốc độ nhằm nâng cao thành tích chạy cự ly ngắn 100m cho nam đội tuyển Điền kinh trường THPT Tiên Du số 1- Tiên Du- Bắc Ninh
39 p | 16 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh thông qua bài tập thí nghiệm Vật lí
38 p | 19 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực tư duy cho học sinh thông qua dạy học Bài tập hóa học chương Ancol - Phenol lớp 11 trung học phổ thông
74 p | 8 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tích hợp kiến thức các môn học dạy bài: Cacbohiđrat và lipit
67 p | 30 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực thực hành thí nghiệm cho học sinh trong dạy học phần Sinh học tế bào – Sinh học 10
84 p | 0 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn