intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát huy tính tích cực học tập cho học sinh thông qua dạy học Hình học bằng phương pháp Bàn tay nặn bột

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:54

15
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Phát huy tính tích cực học tập cho học sinh thông qua dạy học Hình học bằng phương pháp Bàn tay nặn bột" nhằm hệ thống hóa làm rõ 6 nội dung của việc phát triển năng lực cho học sinh trong dạy học Toán nói chung. Từ đó nghiên cứu đề xuất việc áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học bộ môn Hình học nhằm phát huy tính tích cực học tập cho học sinh THPT.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát huy tính tích cực học tập cho học sinh thông qua dạy học Hình học bằng phương pháp Bàn tay nặn bột

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT DIỄN CHÂU 5 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CHO HỌC SINH THÔNG QUA DẠY HỌC HÌNH HỌC BẰNG PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT” Thuộc lĩnh vực: Toán học Người thực hiện : Phan Thị Thu Hương Số điện thoại : 0912 741 530 Năm thực hiện : 2020 - 2023 Diễn Châu, tháng 04 năm 2023 1
  2. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 1. GV: Giáo viên 2. HS: Học sinh 3. THPT: Trung học phổ thông 4. BTNB: Bàn tay nặn bột 5. TBDH: Thiết bị dạy học 6. GDPT: Giáo dục phổ thông 7. NB: Nhận biết 8. TH: Thông hiểu 9. VD: Vận dụng 2
  3. MỤC LỤC Trang PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ.............................................................................................. 1 I. Lí do chọn đề tài....................................................................................................... 1 II. Mục đích nghiên cứu............................................................................................... 2 III. Nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................................. 3 IV. Đối tượng nghiên cứu............................................................................................ 3 V. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 3 PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU...................................................................... 4 Chương I: Lý luận cơ bản về phương pháp Bàn tay nặn bột..................................... 4 1. Cơ sở khoa học của phương pháp Bàn tay nặn bột ............................................... 4 2. Các nguyên tắc cơ bản của phương pháp Bàn tay nặn bột..................................... 5 3. Tiến trình dạy học theo phương pháp Bàn tay nặn bột ......................................... 6 4. Mối quan hệ giữa phương pháp BTNB với các phương pháp dạy học khác…… 7 Chương II: Các kỹ thuật dạy học và rèn luyện kỹ năng cho học sinh trong phương pháp Bàn tay nặn bột.................................................................................................. 7 1. Tổ chức lớp học………………………………………………………………….. 7 2. Kỹ thuật tổ chức hoạt động thảo luận cho học sinh…………………..…………. 8 3. Kỹ thuật tổ chức hoạt động nhóm trong phương pháp BTNB…………………… 8 4. Kỹ thuật đặt câu hỏi của giáo viên……………………………………..………… 9 5. Rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh thông qua dạy học bằng phương pháp Bàn tay 9 nặn bột ……………………………………………………………………………… 6. Kỹ thuật chọn ý tưởng, nhóm ý tưởng của học sinh ……………….…………… 10 7. Hướng dẫn học sinh đề xuất ý tưởng nghiên cứu hay phương án tìm câu trả lời.. 10 8. Hướng dẫn học sinh sử dụng vở thí nghiệm .......................................................... 10 9. Hướng dẫn học sinh phân tích thông tin, hiện tượng quan sát khi nghiên cứu để đưa ra kết luận............................................................................................................. 11 10. So sánh kết quả thu nhận được và đối chiếu với kiến thức khoa học.................... 11 11. Đánh giá học sinh trong dạy học bằng phương pháp BTNB …………….……... 11 Chương III: Sử dụng phương pháp BTNB trong dạy học Hình học ở trường phổ thông …………………………………………………………………………..…….. 12 1. Những thuận lợi và khó khăn khi sử dụng phương pháp BTNB trong dạy học ở Việt Nam…………………………………………………………………………….. 12 2. Lựa chọn và sử dụng thiết bị trong dạy học bằng phương pháp BTNB………..… 13 3. Tổ chức hoạt động quan sát và thí nghiệm trong phương pháp BTNB………..…. 14 4. Một số ví dụ minh hoạ tiến trình dạy học bằng phương pháp BTNB………..…… 15 Chương IV: Khảo sát sự cấp thiết và tính khả thi của phương pháp đề xuất.............. 44 1. Mục đích khảo sát.................................................................................................... 44 2. Nội dung và phương pháp khảo sát ......................................................................... 44 3. Đối tượng khảo sát................................................................................................... 45 4. Kết quả khảo sát về sự cấp thiết và tính khả thi của phương pháp đề xuất... 45 3
  4. PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong bối cảnh toàn cầu hoá hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ đạt những bước tiến thần kỳ, khối lượng thông tin, tri thức nhân loại tăng theo hàm số mũ, hầu hết các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đều nhận thức giáo dục và đào tạo trở thành nhân tố vừa là nền tảng, vừa là động lực góp phần quyết định tương lai của mỗi dân tộc. Với ý nghĩa đó, Đảng và Nhà nước ta khẳng định: “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình, của các lực lượng xã hội. Để thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển GD&ĐT trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Hội nghị lần thứ VIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã thông qua Nghị quyết số 29-NQ/TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”; Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2014 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông được xác định: “Chương trình giáo dục phổ thông nhằm giúp học sinh phát triển khả năng vốn có của bản thân, hình thành tính cách và thói quen, phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần; trở thành người học tích cực, tự tin, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp và học tập suốt đời, có những phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người công dân có trách nhiệm, người lao động cần cù, có tri thức và sáng tạo”. Để thực hiện thành công việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo nước nhà, chúng ta cần phải thực hiện nhiều giải pháp, trong đó có giải pháp đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học theo định hướng “coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học của học sinh” ở tất cả các cấp như Bác Hồ đã dạy “Cách học tập: Phải lấy tự học làm gốc”. Hiện nay ở Việt Nam, việc học quá chú trọng đến rèn luyện kĩ năng, luyện tập theo cái có sẵn. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực tự học, tự khám phá và tư duy của học sinh. Vì vậy, tập dượt cho các em biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của cá nhân, gia đình và cộng đồng không chỉ có ý nghĩa ở khía cạnh phương pháp dạy học mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục và đào tạo. Tuy vậy, trên thực tế dạy học hiện nay ở nhà trường phổ thông thì việc phát huy nội lực của học sinh còn nhiều hạn chế. Phương pháp dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức, tình trạng học lệch, học tủ, học thêm tràn lan vẫn còn. Một thực tế nữa là hiện nay, thông tin đến với học sinh rất đa dạng, phong phú. Sách tham khảo, sách giải bài tập, mạng Internet 4
  5. quá nhiều khiến học sinh ỷ lại, thiếu độc lập suy nghĩ, thiếu chọn lọc thông tin để biến kiến thức của thầy, kiến thức trong sách vở thành kiến thức của mình, có thể vận dụng để phát triển hoặc vận dụng trong thực tiễn. Sự thụ động trong học tập của học sinh đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy và học nói chung và chất lượng dạy học bộ môn Toán nói riêng, biểu hiện ở: người học không chủ động tiếp thu kiến thức, rất ít tranh luận, thảo luận về các kiến thức liên quan, chưa tích cực phát biểu ý kiến trong lớp, ngại ghi chép bài, ít tập trung nghe giảng, không học bài và làm bài trước khi đến lớp, thiếu đầu tư, không quan tâm đến việc xây dựng kế hoạch học tập hợp lý, chưa có phương pháp học tập để đạt kết quả tối ưu, nặng về “học tủ”, “học vẹt”…Nhiều học sinh chưa thể hiện sự độc lập, tự giác trong quá trình học, việc tự học còn mang tính tự phát, chưa có sự tự nguyện hay có động cơ thực sự. Một trong những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế nêu trên của học sinh được cho rằng vì nội dung môn Toán chưa thể hiện sự cân đối giữa “dạy chữ” với “dạy người”, giữa dung lượng kiến thức, kỹ năng và thời lượng thực hiện trong tiết học, nhiều kiến thức trở nên lạc hậu và “thừa”, sự sắp xếp giữa các bài học với nhau giữa các khối lớp còn chưa có tính hợp lý, khoa học, nhiều bài học còn thiên về kiến thức lý thuyết mà thiếu đi phần rèn luyện kỹ năng thực hành nên đã phần nào ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình dạy học. Ngoài ra, một bộ phận học sinh cho rằng môn Toán là môn học khô khan, khó học, khó hiểu và không đem lại nhiều hứng thú, niềm say mê cũng như động lực để học do phương pháp dạy học của giáo viên chưa hay, chưa hấp dẫn người học. Rõ ràng, việc đổi mới phương pháp không chỉ dừng lại ở việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy mà giáo viên còn phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau nhằm đơn giản hoá, cụ thể hoá những đơn vị kiến thức, giúp các em dễ dàng lĩnh hội kiến thức dù dễ hay khó, biết cách khơi gợi, hướng đúng đối tượng với những câu hỏi, những hoạt động phù hợp, vừa bám sát được nôi dung bài học, vừa phù hợp với khả năng của học sinh, nhằm huy động được sự hợp tác tích cực ở các em để đem lại hiệu quả cao nhất cho tiết dạy. Tuy nhiên, nhiều giáo viên chưa coi trọng vấn đề này nên không những không phát huy được tính chủ động, tích cực của người học, ngược lại, thậm chí còn làm cho học sinh có tâm lý chán nản, “sợ học toán”. Vì vậy, việc đề xuất các phương pháp hữu hiệu nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình dạy học là cần thiết và hết sức quan trọng. Chính vì các lý do nêu trên, tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: Phát huy tính tích cực học tập cho học sinh thông qua dạy học Hình học bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột”. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Qua kinh nghiệm thực tế giảng dạy, với những kiến thức được bồi dưỡng về đổi mới phương pháp, về triển khai chương trình GDPT 2018, hệ thống hóa làm rõ 5
  6. nội dung của việc phát triển năng lực cho học sinh trong dạy học Toán nói chung. Từ đó nghiên cứu đề xuất việc áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học bộ môn Hình học nhằm phát huy tính tích cực học tập cho học sinh THPT. III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Đề tài đã đi sâu nghiên cứu: Tình hình thực tế học sinh, việc dạy học bộ môn Toán tại trường THPT Diễn Châu 5 các năm học từ 2019-2020 đến 2022- 2023. Làm rõ thực trạng của việc dạy học Toán nói chung, bộ môn Hình học nói riêng để cải tiến phương pháp nhằm thông qua việc dạy học một số nội dung của bộ môn Hình học bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột” nhằm phát huy tính tích cực học tập cho học sinh THPT. IV. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Phát huy tính tích cực học tập của học sinh thông qua việc dạy học bộ môn Hình học bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột”. V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn - Phương pháp quan sát, trao đổi, điều tra - Phương pháp khảo sát thực tế - Phương pháp nghiên cứu hỗ trợ: Toán học, bảng biểu, sơ đồ - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. 6
  7. PHẦN II : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG I LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT” 1. Cơ sở khoa học của phương pháp “Bàn tay nặn bột” 1.1. Cơ sở lý luận Như chúng ta đã biết, không có phương pháp dạy học nào là vạn năng. Việc tìm kiếm và vận dụng các phương pháp tiên tiến vào quá trình dạy học các môn học nói chung và môn Hình học nói riêng là vấn đề quan trọng nhằm hình thành cho học sinh phương pháp học tập độc lập, sáng tạo, có khả năng tự học, tự nghiên cứu, qua đó nâng cao chất lượng dạy học. Một trong những phương pháp có nhiều ưu điểm, đáp ứng được mục tiêu yêu cầu đổi mới và vận dụng tốt vào quá trình dạy học đó là phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Trong những năm gần đây phương pháp “Bàn tay nặn bột” đã được được đưa vào thử nghiệm và áp dụng trong các trường học tại Việt Nam. Việc nghiên cứu áp dụng phương pháp này vào dạy học sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của nhà trường là vấn đề hết sức cần thiết góp phần đổi mới phương pháp dạy học. Có như vậy mới hình thành cho học sinh phương pháp học tập đúng đắn, giúp họ thực sự trở thành chủ thể tìm kiếm tri thức. Toán học nói chung, hình học nói riêng là môn học chiếm vị trí quan trọng trong các môn học. Dạy học hình học bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột” sẽ hình thành và phát triển cho học sinh những kỹ năng cần thiết như quan sát và làm một số thí nghiệm thực hành khoa học đơn giản gần gũi với đời sống sản xuất, nêu thắc mắc và đặt câu hỏi trong quá trình học tập, biết tìm thông tin để giải đáp. Biết diễn đạt những biểu cảm bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ, phân tích so sánh rút ra những dấu hiệu chung và riêng của một số sự vật hiện tượng đơn giản trong tự nhiên. Tăng cường tổ chức các hoạt động học tập nhằm tạo điều kiện cho học sinh phát huy tính tích cực, tự lực, tìm tòi phát hiện ra kiến thức. Qua đó hình thành và phát triển những thái độ và hành vi như: Ham hiểu biết khoa học, có ý thức vận dụng những kiến thức đã học vào đời sống, yêu con người, thiên nhiên, đất nước, yêu cái đẹp, có ý thức và hành động bảo vệ môi trường xung quanh. Hướng đổi mới này không những nâng cao hiệu quả dạy học môn Toán mà còn phù hợp với xu hướng đổi mới phương pháp dạy học và yêu cầu đào tạo con người trong giai đoạn hiện nay. 1.2. Cơ sở thực tiễn. 1.2.1. Đối với giáo viên. 7
  8. Chúng ta đã biết, môn Hình học được đưa vào giảng dạy ở tất cả các khối lớp với một dung lượng kiến thức lớn. Đội ngũ giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc trao đổi, học hỏi, tự bồi dưỡng cũng như trong việc cải tiến các phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nói trên, việc dạy học môn Hình học còn có những hạn chế nhất định làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dạy học môn học này. Khó khăn lớn nhất của giáo viên trong dạy học môn Hình học đó là việc vận dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Đặc biệt là về mặt phương pháp, nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc sử dụng các phương pháp dạy học, chưa tìm thấy phương pháp dạy học hữu hiệu sao cho phù hợp với mục đích, yêu cầu của từng bài học cũng như đặc trưng của môn học. Trong khi cần chú trọng việc hình thành cho học sinh phương pháp học tập, rèn kỹ năng và thói quen tự tìm tòi nghiên cứu để tìm ra kiến thức, sử dụng kiến thức để giải thích, giải quyết các vấn đề thực tiễn thì không ít giáo viên lại yêu cầu học sinh học thuộc lòng, nhồi nhét kiến thức, bắt học sinh phải công nhận một cách miễn cưỡng không phát huy được tính tò mò ham hiểu biết của học sinh. 1.2.2. Đối với học sinh. Qua dự giờ tôi thấy, các em biết làm việc tập thể, hợp tác, trao đổi, trình bày các ý kiến cá nhân, biết làm một số thí nghiệm thực hành đơn giản. Tuy nhiên, giờ học thiếu sinh động, không khí học tập còn nặng nề, các em không được tự chủ trong việc tìm kiếm tri thức nên không gây được hứng thú trong học tập, thờ ơ với bài học và chưa thật sự chú tâm. Các em ít tò mò, ít đặt ra những câu hỏi thắc mắc và hầu như mơ hồ về biểu tượng của những sự vật hiện tượng mà các em được tìm hiểu, sự lập luận còn kém, các kỹ năng kỹ xảo thực hành còn vụng về, lúng túng. Việc vận dụng những kiến thức mà các em thu thập được vào thực tiễn là khoảng cách khá xa, bởi vì các em thiếu hẳn kỹ năng thực hành. Các em chưa có thói quen ghi lại những gì mà các em quan sát được. Việc xác lập mục đích quan sát và mục đích của thí nghiệm còn kém. 2. Các nguyên tắc cơ bản của phương pháp “Bàn tay nặn bột” Trong quá trình sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”, để thực sự có hiệu quả đòi hỏi người giáo viên và học sinh cần tuân thủ theo các nguyên tắc sau: - Các em cần được quan sát một số sự vật, hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi, dễ cảm nhận và tiến hành thực nghiệm về chúng. - Trong quá trình học tập, các em tự lập luận và đưa ra các lý lẽ, thảo luận những ý nghĩ và các kết quả đạt được trên cơ sở xây dựng kiến thức cho mình, một hoạt động mà hoàn toàn chỉ dựa trên sách vở là không đủ. 8
  9. - Các hoạt động giáo viên đề ra cho học sinh được tổ chức trong các giờ học nhằm đến một sự tiến bộ trong học tập. Các hoạt động này gắn với chương trình và dành phần lớn quyền tự chủ cho học sinh. - Mỗi học sinh có một quyển vở ghi chép thí nghiệm và các em trình bày trong đó bằng ngôn ngữ của riêng mình. - Mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần các khái niệm khoa học và kĩ thuật được thực hành, kèm theo sự vững vàng trong diễn đạt nói và viết. 3. Tiến trình dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề. - Là một tình huống do giáo viên chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học - Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học. - Câu hỏi phải phù hợp với trình độ học sinh, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò của học sinh. - Giáo viên phải dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng. Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh. - Giáo viên khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình về sự vật, hiện tượng mới. - Giáo viên cho học sinh trình bày bằng nhiều hình thức: viết, vẽ, nói, …. - Giáo viên không nhất thiết phải chú ý tới các quan niệm đúng, cần phải chú trọng đến các quan niệm sai. Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm. 3.1. Đề xuất câu hỏi. - Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu, giáo viên giúp học sinh đề xuất câu hỏi. - Giáo viên cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp từ đó học sinh đặt câu hỏi liên quan đế bài học và để giúp học sinh so sánh. 3.2. Đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu. - Từ những câu hỏi của học sinh, giáo viên nêu câu hỏi cho học sinh, đề nghị các em đề xuất thực nghiệm để tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi đó. - Giáo viên ghi chú lên bảng các đề xuất của học sinh để các ý kiến sau không trùng lặp. - Khuyến khích học sinh tự đánh giá ý kiến nhau hơn là ý kiến của giáo viên nhận xét. Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu 9
  10. - Quan sát tranh, mô hình và ưu tiên thực nghiệm trên vật thật - Giúp học sinh thảo luận, tranh luận để giải quyết vấn đề - Từ những kết quả đạt được ở các bước trên, giáo viên giúp học sinh kết luận hoặc giáo viên kết luận kết quả tìm tòi, nghiên cứu. Bước 5: Kết luận kiến thức mới 4. Mối quan hệ giữa phương pháp “Bàn tay nặn bột” với các phương pháp dạy học khác. Ngày nay, trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông, chúng ta thấy xuất hiện khá nhiều phương pháp và hình thức dạy học mới như: Dạy học giải quyết vấn đề; Dạy học nêu và giải quyết vấn đề; Dạy học theo lí thuyết kiến tạo, dạy học theo dự án... với nhiều kĩ thuật tổ chức hoạt động học tích cực cho học sinh. Tuy có những điểm khác biệt nhau nhưng nhìn chung thì các chiến lược dạy học, phương pháp dạy học đó đều được xây dựng trên tinh thần dạy học giải quyết vấn đề thông qua việc tổ chức cho học sinh hoạt động tự chủ chiếm lĩnh kiến thức, hình thành và phát triển năng lực trí tuệ cũng như quan điểm đạo đức, thái độ. Đối chiếu với tiến trình sư phạm của phương pháp BTNB, chúng ta có thể nhận thấy điểm tương đồng của phương pháp này so với các phương pháp dạy học tích cực khác là ở chỗ đều nhằm tổ chức cho học sinh hoạt động tích cực, tự lực giải quyết vấn đề. Về cơ bản thì tiến trình dạy học cũng được diễn ra theo 3 pha chính là: 1. Chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh; 2. Học sinh hoạt động tự chủ giải quyết vấn đề; 3. Báo cáo, hợp thức hóa và vận dụng kiến thức mới. Điểm khác biệt của phương pháp BTNB so với các phương pháp khác là ở chỗ các tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề là những sự vật hay hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận và các em sẽ thực hành trên những cái đó. Đặc biệt, phương pháp BTNB chú trọng việc giúp cho học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu để tạo ra các mâu thuẫn nhận thức làm cơ sở đề xuất các câu hỏi và giả thuyết. Hoạt động tìm tòi - nghiên cứu trong phương pháp BTNB rất đa dạng, trong đó các phương án thí nghiệm nếu được tiến hành thì chủ yếu là các phương án được đề xuất bởi chính học sinh, với những dụng cụ đơn giản, dễ kiếm. Đặc biệt, trong phương pháp BTNB, học sinh bắt buộc phải có mỗi em một quyển vở thí nghiệm do chính các em ghi chép theo cách thức và ngôn ngữ của chính các em. Thông qua các hoạt động như vậy, phương pháp BTNB nhằm đạt được mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần của học sinh các khái niệm khoa học và kĩ thuật được thực hành, kèm theo là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói. CHƯƠNG II 10
  11. CÁC KỸ THUẬT DẠY HỌC VÀ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG CHO HỌC SINH TRONG PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT” 1. Tổ chức lớp học - Bố trí vật dụng trong lớp học: Thực hiện dạy học khoa học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” có rất nhiều hoạt động theo nhóm. Vì vậy nếu muốn tiện lợi cho việc tổ chức thảo luận, hoạt động nhóm thì lớp học nên được sắp xếp bàn ghế theo nhóm cố định. - Không khí làm việc trong lớp học: Phương pháp “Bàn tay nặn bột” cần một không khí làm việc thoải mái, học sinh có thể tham gia và ham thích các hoạt động dạy học. - Cần có chỗ để các vật dụng dự kiến làm thí nghiệm cho học sinh. Không nên để sẵn các vật dụng thí nghiệm lên bàn của học sinh trước khi dạy học vì có thể sẽ mất tập trung với học sinh và có thể sẽ làm lộ ý đồ dạy học của giáo viên khi giáo viên muốn học sinh tự đề xuất thí nghiệm nghiên cứu. 2. Kỹ thuật tổ chức hoạt động thảo luận cho học sinh Thảo luận được thực hiện ở nhiều thời điểm trong dạy học bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Có hai hình thức thảo luận trong dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”: thảo luận nhóm nhỏ (trong nhóm làm việc) và thảo luận nhóm lớn (toàn bộ lớp học). Cần phân biệt rõ thảo luận theo truyền thống trong một số phương pháp dạy học và thảo luận trong phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Thảo luận truyền thống được thực hiện bằng cách giáo viên đặt câu hỏi, lựa chọn một học sinh trả lời, sau đó nhận xét đúng hay sai. Thảo luận trong phương pháp “Bàn tay nặn bột” hoàn toàn khác biệt vì được thực hiện bằng sự tương tác giữa các học sinh với nhau, có nghĩa là phần trả lời của học sinh sau bổ sung cho học sinh trước, hoặc đặt câu hỏi đối với ý kiến trước; hoặc trình bày một quan điểm mới; hoặc đưa ra tranh cãi ý kiến của nhóm mình. Như vậy, điều quan trọng là giáo viên hướng dẫn cho học sinh thảo luận, giúp các em tìm thấy sự thống nhất ý kiến và khuyến khích học sinh thảo luận tích cực. Một tình huống đối thoại cần thoả mãn một trong các yêu cầu sau: - Tình huống có nhiều cách giải quyết, từ đó, học sinh sẽ tìm được phương án tối ưu để mở rộng hoặc đào sâu vấn đề. - Tình huống dẫn đến học sinh dễ mắc sai lầm, chứa đựng những khó khăn để học sinh thâm nhập vấn đề. - Tình huống chứa đựng nhiều nội dung phong phú. 3. Kỹ thuật tổ chức hoạt động nhóm trong phương pháp “Bàn tay nặn bột” 11
  12. - Hoạt động nhóm giúp học sinh làm quen với phong cách làm việc hợp tác với nhau giữa các cá nhân. Kỹ thuật hoạt động nhóm được thực hiện ở nhiều phương pháp dạy học khác, không phải một đặc trưng của phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Tuy nhiên trong việc dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”, hoạt động nhóm được chú trọng nhiều. - Không chia nhóm học sinh quá đông, mỗi nhóm chỉ từ 2, 4 đến 6 em và từ hai bàn ghép lại. Mỗi nhóm học sinh được tổ chức gồm một nhóm trưởng - là người đại diện cho nhóm trình bày trước lớp các ý kiến, quan điểm của nhóm mình và một thư kí để ghi chép chung các phần thảo luận của nhóm hay phần trình bày ra giấy. - Không nên cho học sinh biết trước kiến thức của bài học một cách tiêu cực mà phải để cho các em tự khám phá ra chúng. Không để các em sử dụng sách giáo khoa để trả lời câu hỏi mà giáo viên đưa ra vì như vậy sẽ làm cho học sinh có thói quen ỷ lại không chịu suy nghĩ, tìm tòi trong học tập. Sách giáo khoa có thể chỉ được sử dụng làm tài liệu quy chiếu với các kết quả nghiên cứu của học sinh ở cuối tiết học. - Không nêu tên bài học trước khi học (với những bài thể hiện nội dung bài học ở đề bài). - Lựa chọn hoạt động phù hợp với phương pháp “Bàn tay nặn bột” để áp dụng, không nhất thiết hoạt động nào cũng áp dụng phương pháp này. 4. Kỹ thuật đặt câu hỏi của giáo viên Trong dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”, câu hỏi của giáo viên đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công của của phương pháp và thực hiện tốt ý đồ dạy học. Câu hỏi "tốt" có thể giúp cho học sinh xác định rõ phần trả lời của mình, và làm tiến trình dạy học đi đúng hướng. Người ta gọi những câu hỏi này là câu hỏi "mở" vì nó kích thích một "hành động mở", khuyến khích học sinh suy nghĩ tới những câu hỏi riêng của học sinh và phương án trả lời những câu hỏi đó. Trong dạy học giáo viên thường sử dụng câu hỏi nêu vấn đề và câu hỏi gợi ý. + Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học hay mô đun kiến thức. Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi đặc biệt nhằm định hướng học sinh theo chủ đề của bài học nhưng cũng đủ "mở" để kích thích sự tự vấn của học sinh. Chất lượng của câu hỏi nêu vấn đề sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ý đồ dạy học ở các bước tiếp theo của tiến trình phương pháp và sự thành công của bài học. + Câu hỏi gợi ý là các câu hỏi được đặt ra trong quá trình làm việc của học sinh. Câu hỏi gợi ý có thể là câu hỏi "ít mở" hơn hoặc là dạng câu hỏi "đóng". Vai trò của nó nhằm gợi ý, định hướng cho học sinh rõ hơn hoặc kích thích một suy nghĩ mới của học sinh. Giáo viên đặt các câu hỏi gợi ý tùy thuộc vào tình huống xảy ra trong lớp học, xuất phát từ hoạt động học của học sinh (làm thí nghiệm, thảo luận…). 12
  13. 5. Rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh thông qua dạy học bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột” Mặc dù phương pháp “Bàn tay nặn bột” là một phương pháp dạy học dựa trên thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, nhưng ngoài việc làm thực nghiệm, khám phá kiến thức, học sinh cần được chú ý rèn luyện ngôn ngữ nói và viết. Đây là một đặc điểm quan trọng của phương pháp và cũng là một nhiệm vụ quan trọng trong dạy học khi mà học sinh đang trong quá trình phát triển ngôn ngữ. Dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” là sự hòa quyện ba phần gần như tương đương nhau đó là thực nghiệm, nói và viết. Phương pháp “Bàn tay nặn bột” đề nghị dành một thời gian để ghi chép cá nhân, để thảo luận xây dựng tập thể những câu thuật lại các kiến thức đã được trao đổi và học cách thức sử dụng các cách thức viết khác nhau. 6. Kỹ thuật chọn ý tưởng, nhóm ý tưởng của học sinh Trong các tiết học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”, giáo viên cần nhanh chóng nắm bắt ý kiến phát biểu của từng học sinh và phân loại các ý tưởng đó để thực hiện ý đồ dạy học. Ý kiến phát biểu của học sinh rất đa dạng, đặc biệt là đối với các kiến thức phức tạp. Ý kiến của học sinh càng khác biệt, có ý kiến sai lệch so với kiến thức đúng thì tiết học càng sôi nổi và giáo viên cũng dễ điều khiển tiết học hơn. Nắm bắt nhanh ý tưởng và phân loại ý tưởng để từ đó điều khiển lớp học đi đúng ý đồ dạy học đóng vai trò quan trọng trong sự thành công về mặt sư phạm của giáo viên. 7. Hướng dẫn học sinh đề xuất thí nghiệm nghiên cứu hay phương án tìm câu trả lời. Bước đề xuất thí nghiệm nghiên cứu hay các giải pháp tìm câu trả lời của học sinh cũng là một bước khá phức tạp, cần chú ý mấy điểm sau: - Đối với ý kiến hay vấn đề đặt ra đơn giản, ít phương án hay thí nghiệm chứng minh thì giáo viên có thể cho học sinh trả lời trực tiếp phương án đề xuất. - Phương án tìm câu trả lời hay thí nghiệm kiểm chứng đều xuất phát từ những sự khác biệt của các ý tưởng ban đầu (quan niệm ban đầu) của học sinh, vì vậy, giáo viên nên xoáy sâu vào các điểm khác biệt gây tranh cãi đó để giúp học sinh tự đặt câu hỏi thắc mắc và thôi thúc học sinh đề xuất các phương án để tìm ra câu trả lời. - Khi học sinh đề xuất phương án tìm câu trả lời, giáo viên không nên nhận xét phương án đó đúng hay sai mà chỉ nên hỏi ý kiến các học sinh khác nhận xét, phân tích. Nếu các học sinh khác không trả lời được thì giáo viên gợi ý những mâu thuẫn mà phương án đó không đưa ra câu trả lời được nhằm gợi ý để học sinh tự rút ra nhận xét và loại bỏ phương án; thảo luận và lựa chọn phương án khác tối ưu. 8. Hướng dẫn học sinh sử dụng vở thí nghiệm 13
  14. Vở thí nghiệm (vở ghi) là một đặc trưng quan trọng trong thực hiện phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Thông qua việc ghi chép trong vở thí nghiệm, học sinh được tập làm quen với công tác nghiên cứu khoa học và giáo viên cũng giúp học sinh rèn luyện ngôn ngữ viết. Nội dung ghi chép trong vở thí nghiệm là các ý kiến, quan niệm ban đầu trước khi học kiến thức, các dự kiến, đề xuất, có thể là các sơ đồ, tiến trình thí nghiệm đề xuất của học sinh khi làm việc với nhóm, hoặc có thể là các câu hỏi cá nhân mà học sinh đưa ra trong khi học. Học sinh có thể ghi chép bằng lời, hình vẽ hay sơ đồ, bảng biểu. Vở thí nghiệm chứa đựng các phần ghi chú cá nhân, phần ghi chú tổng kết của nhóm (học sinh viết lại phần thống nhất thảo luận trong nhóm) hoặc phần ghi chú tổng kết thảo luận của cả lớp (kết luận về kiến thức) được xây dựng bởi trí tuệ tập thể. Ngoài việc hướng dẫn trình bày, giáo viên cố gắng hướng dẫn học sinh sử dụng phần ghi chép trong vở thí nghiệm như một công cụ hữu ích để so sánh kết quả, ý tưởng với các học sinh khác, theo dõi kết quả của cá nhân, tìm thấy những lý lẽ để giải thích cho thí nghiệm của mình… 9. Hướng dẫn học sinh phân tích thông tin, hiện tượng quan sát khi nghiên cứu để đưa ra kết luận. Khi làm thí nghiệm hay quan sát hoặc nghiên cứu tài liệu để tìm ra câu trả lời, giáo viên cần hướng dẫn học sinh biết chú ý đến các thông tin chính để rút ra kết luận tương ứng với câu hỏi. Giáo viên cần chú ý mấy điểm sau: - Lệnh thực hiện phải rõ ràng, gắn gọn, dễ hiểu để giúp học sinh nhớ, hiểu và làm theo đúng hướng dẫn. - Đối với các thí nghiệm cần quan sát một số hiện tượng trong thí nghiệm để rút ra kết luận, giáo viên nên lưu ý cho học sinh chú ý vào các hiện tượng hay phần thí nghiệm đó để lấy thông tin, nhắc nhở học sinh bám vào mục đích của thí nghiệm để làm gì, trả lời cho câu hỏi nào… - Đối với các thí nghiệm cần đo đạc, lấy số liệu, giáo viên yêu cầu học sinh ghi chép lại các số liệu để từ đó rút ra nhận xét. 10. So sánh kết quả thu nhận được và đối chiếu với kiến thức khoa học. Trong hoạt động học của học sinh theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”, học sinh khám phá các sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên, đưa ra dự đoán, thực hiện thí nghiệm, thảo luận với nhau và đưa ra kết luận như công việc của các nhà khoa học thực thụ để xây dựng kiến thức. Nhưng các kiến thức của học sinh không phải là các kiến thức khoa học mới với nhân loại mà chỉ là mới với vốn kiến thức của học sinh. Các kiến thức này cũng được trình bày ở nhiều sách, tài liệu khoa học khác ngoài sách giáo khoa. Do vậy, giáo viên cũng nên giới thiệu thêm sách, tài liệu… mà học sinh có thể có điều kiện tiếp cận được để giúp các em hiểu sâu hơn. Tất nhiên, giáo viên phải biết lựa chọn tài liệu đơn giản, dễ hiểu, phù hợp cho học sinh tham khảo. 14
  15. 11. Đánh giá học sinh trong dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” - Đánh giá học sinh qua quá trình thảo luận, trình bày, phát biểu ý kiến tại lớp học. - Đánh giá học sinh trong quá trình làm thí nghiệm. - Đánh giá học sinh thông qua sự tiến bộ nhận thức của học sinh trong vở thí nghiệm. CHƯƠNG III SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT” TRONG DẠY HỌC HÌNH HỌC Ở TRƯỜNG THPT 1. Những thuận lợi và khó khăn khi sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học ở Việt Nam 1.1. Thuận lợi Hiện nay, Bộ Giáo dục Đào tạo đang thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục, trong đó đổi mới phương pháp dạy học là một trong các nhiệm vụ cấp bách. Cùng với các phương pháp dạy học tích cực khác đang tiếp tục thực hiện, tháng 12/2011 Bộ Giáo dục Đào tạo quyết định thực hiện đề án "Triển khai phương pháp Bàn tay nặn bột ở trường phổ thông". Phương pháp “Bàn tay nặn bột” là một phương pháp có tiến trình dạy học rõ ràng, dễ hiểu, có thể áp dụng được ở điều kiện ở các nhà trường hiện nay. Qua tham khảo một số tiết học áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”, có thể nhận thấy sự ham thích, hứng thú của học sinh với những hoạt động tìm hiểu kiến thức mới. Điều này chứng tỏ học sinh luôn ham thích được học tập, hăng say tìm tòi và sáng tạo. 1.2. Khó khăn a) Về điều kiện, cơ sở vật chất Hiện nay, bàn ghế lớp học được bố trí theo dãy, nối tiếp nhau, không thuận lợi cho việc tổ chức học theo nhóm; phòng học học bộ môn chưa đủ chuẩn để thuận lợi cho việc giảng dạy các bộ môn khoa học. b) Chương trình sách giáo khoa Cấu trúc, chương trình sách giáo khoa hiện hành đang bố trí theo bài, không theo chủ đề có tính hệ thống; một số kiến thức của bài dạy còn dài dòng và có nhiều phần chưa phù hợp dạy theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Học sinh thường lệ thuộc vào nội dung có sẵn trong sách giáo khoa, hạn chế đến việc tìm tòi, tự bộc lộ quan điểm, ý kiến cá nhân. c) Về đội ngũ giáo viên 15
  16. Với phương pháp “Bàn tay nặn bột”, để có thể cung cấp những kiến thức toàn diện và kỹ năng thực hành mới cho học sinh sẽ mất rất nhiều thời gian, đòi hỏi giáo viên cần phải có sự chuẩn bị kỹ càng, chu đáo, dự kiến nhiều tình huống cần giải quyết… Nếu không sẽ ảnh hưởng đến thời lượng của toàn tiết học và các môn học khác. Áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”, nếu kiến thức khoa học, năng lực giáo viên hạn chế sẽ bỡ ngỡ, lúng túng khi xử lý tình huống giảng dạy (nhất là tình huống mở đầu), trong việc trả lời, giải đáp các câu hỏi, thắc mắc của học sinh nêu ra … d, Về học sinh Số học sinh trên một lớp quá đông nên việc tổ chức học tập theo nhóm rất khó khăn. Điều này cũng gây khó khăn trong tổ chức các hoạt động thực tế cho học sinh. Trình độ của học sinh không đồng đều, khó tiếp cận với phương pháp giảng dạy mới. Nếu lớp học thụ động, kiến thức yếu thì tình huống đưa ra các em sẽ không tìm được vấn đề cần đặt ra, không đề xuất được thực nghiệm, sẽ không dự báo được kết quả thực nghiệm … và tiết dạy theo phương pháp này không hiệu quả. 2. Lựa chọn và sử dụng thiết bị trong dạy học bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột” 2.1. Yêu cầu chung khi sử dụng thiết bị dạy học trong phương pháp “Bàn tay nặn bột” Thiết bị dạy học là một phần không thể thiếu của quá trình dạy học trên lớp của giáo viên và học sinh. Trong quá trình thực hiện bước thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu của phương pháp BTNB, TBDH làm cho tiết học trở nên sinh động, dễ hiểu. Khi sử dụng phương pháp BTNB, TBDH có ý nghĩa to lớn đối với quá trình dạy học vì học sinh được tri giác trực tiếp đối tượng. Con đường nhận thức này được thể hiện qua việc học sinh quan sát các đối tượng nghiên cứu, thông qua các TBDH để tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu. Trong quá trình thực hiện các bước thí nghiệm tìm tòi, nghiên cứu, học sinh tri giác không phải bản thân các đối tượng nghiên cứu mà tri giác những hình ảnh, biểu tượng, sơ đồ, mô hình hoá phản ánh một bộ phận nào đó của đối tượng cũng như nghiên cứu những đặc tính cơ bản của sự vật hiện tượng. TBDH còn giúp học sinh phát triển năng lực nhận thức, đặc biệt là khả năng quan sát, tư duy, giúp học sinh hình thành cảm giác thẩm mỹ, được hấp dẫn bởi cái đẹp, cái đơn giản, tính chính xác của thông tin chứa trong đồ dùng dạy học. TBDH giúp làm sinh động nôi dung học tập, nâng cao hứng thú học tập bộ môn, nâng cao lòng tin của học sinh vào khoa học. Trong phương pháp BTNB, TBDH được sử dụng bao gồm các thiết bị truyền thống như: bảng đen, bảng trắng, mô hình, vật thật, tranh ảnh, bản đồ, biểu đồ, dụng cụ thí nghiệm…và các TBDH hiện đại như: máy tính, các loại máy chiếu, 16
  17. các loại băng đĩa, phim khoa học…Việc kết hợp hài hoà các loại TBDH sẽ tạo được hứng thú, tăng hiệu quả học tập cho học sinh và giảm sự vất vả cơ bản của giáo viên trong quá trình dạy học. Khi sử dụng phương pháp BTNB, giáo viên cần phải sử dụng TBDH phù hợp, đúng lúc, đúng chỗ để tạo được hiệu quả cao nhất. Chẳng hạn, ở bước “Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề”, giáo viên có thể sử dụng tranh ảnh hay video khoa học để kích thích hứng thú nhận thức và khơi dậy những biểu tượng ban đầu vốn có của các em về chủ đề nghiên cứu. Trong bước “Tiến hành hoạt động tìm tòi-nghiên cứu”, giáo viên có thể cho học sinh sử dụng máy tính, mạng Internet, tranh ảnh khoa học, sơ đồ, vật thật…để giúp học sinh tìm ra những đặc điểm, tính chất của đối tượng cần nghiên cứu. Với phương pháp mô hình, giáo viên có thể sử dụng các mô hình tự tạo hoặc các mô hình có sẵn, sưu tầm để giúp học sinh khám phá những đặc tính cơ bản của đối tượng khó quan sát bằng vật thật. Việc sử dụng TBDH trong phương pháp BTNB có những yêu cầu bắt buộc, khác với các phương pháp dạy học khác. Với các phương pháp dạy học thông thường, việc sử dụng tranh ảnh, bảng biểu, mô hình, vật thật…nhiều khi chỉ mang tính minh hoạ, kiểm chứng kiến thức do giáo viên đưa ra. Trong phương pháp BTNB, giáo viên chỉ đưa cho học sinh tìm hiểu tranh vẽ khoa học, mô hình, vật thật…khi học sinh đã đề xuất được các phương án thí nghiệm nghiên cứu. Trước đó, các TBDH phải được cất dấu nhằm yêu cầu học sinh phải tự suy nghĩ và đề xuất phương án thí nghiệm nghiên cứu. Trong trường hợp giáo viên cùng học sinh chuẩn bị các vật dụng cho bài dạy, giáo viên chỉ phân cho các nhóm chuẩn bị những vật dụng đơn giản mà học sinh không biết chúng được dùng để làm gì trong bài học. 2.2. Phát triển thiết bị dạy học tự làm trong phương pháp “Bàn tay nặn bột” Trong điều kiện cơ sở vật chất chưa đảm bảo cho việc dạy học, việc tự làm TBDH của giáo viên rất quan trọng và cần thiết. TBDH tự làm giúp giáo viên chủ động hơn trong quá trình xây dựng tiến trình cho bài học và quá trình tổ chức hoạt động học cho học sinh trên lớp. Từ đó có thể giúp học sinh chiếm lĩnh các tri thức của bài học một cách chủ động, biến quá trình dạy và học của thầy trò là một quá trình gắn kết chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành. 3. Tổ chức hoạt động quan sát và thí nghiệm trong phương pháp “Bàn tay nặn bột” Trong dạy học các bộ môn khoa học, những đặc điểm của phương pháp khoa học nhất thiết phải được phản ánh trong lý luận dạy học bộ môn. Cũng như các phương pháp dạy học khác, trong quá trình dạy học các môn khoa học theo phương pháp BTNB, việc sử dụng các hoạt động quan sát và thí nghiệm giữ vai trò đặc biệt quan trọng, cần phải được vận dụng một cách rộng rãi và linh hoạt trong các khâu khác nhau của quá trình dạy học. Trong phương pháp BTNB, hoạt động quan sát và thí nghiệm của học sinh đặc biệt quan trọng, quyết định đến sự thành 17
  18. công hay thất bại ý đồ sư phạm của giáo viên. Từ bước đầu tiên, khi giáo viên đưa ra tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề, học sinh đã phải liên tưởng được đến những hiểu biết ban đầu của mình về các sự vật, hiện tượng thông qua sự quan sát. Trong thảo luận về các biểu tượng ban đầu giữa các nhóm, học sinh cũng cần phải có kỹ năng quan sát để thấy được những điểm khác biệt, từ đó xuất hiện các câu hỏi, các giả thuyết hay dự đoán. Đặc biệt, quan sát , thí nghiệm là hoạt động chủ yếu trong giai đoạn tìm tòi, nghiên cứu, giải quyết vấn đề của học sinh. Nguyên tắc thiết kế quy trình các hoạt động quan sát, thí nghiệm theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh: - Nguyên tắc 1: Đảm bảo mục tiêu của từng chương và của từng bài học về kiến thức, kỹ năng và thái độ. - Nguyên tắc 2: Phát huy tính chủ động, tích cực sáng tạo, bồi dưỡng hứng thú học tập, phát triển năng lực nhận thức, rèn luyện phương pháp tự học, phù hợp với đặc điểm tâm - sinh lý học sinh. - Nguyên tắc 3: Đảm bảo sự thống nhất giữa phương pháp khoa học và phương pháp dạy học bộ môn. - Nguyên tắc 4: Đảm bảo tính khả thi của các hoạt động quan sát, thí nghiệm trong nhiều hoàn cảnh dạy học khác nhau. 4. Một số ví dụ minh hoạ tiến trình dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” Ví dụ 1: Dạy học nội dung Định lý sin (Hình học lớp 10) Nội dung định lý sin trong tam giác: “Trong tam giác ABC bất kỳ với BC = a ; CA = b ; AB = c và R là bán kính đường tròn ngoại tiếp, ta có: a b c = = = 2 R ”. sin A sin B sin C Định lý là một công cụ giúp “giải tam giác”: Tìm một yếu tố của tam giác khi đã biết vừa đủ các yếu tố khác: độ dài ba cạnh, độ dài hai cạnh và một góc, hai góc và một cạnh. Có thể phân tích và chỉ ra hai cách tiếp cận nội dung định lý này: Thứ nhất: Trong tam giác ABC bất kỳ với BC = a ; CA = b ; AB = c , ta có: a b c = = (*) sin A sin B sin C Thứ hai: Trong tam giác ABC bất kỳ với BC = a ; CA = b ; AB = c và R là bán a b c kính đường tròn ngoại tiếp, ta có: = 2 R; = 2 R; = 2R sin A sin B sin C 18
  19. Như vậy, nếu tiếp cận theo cách thứ nhất, nội dung định lý có thể không liên quan đến đường tròn ngoại tiếp tam giác, còn tiếp cận theo cách thứ hai thì có liên quan đến đường tròn ngoại tiếp tam giác. Từ các cách tiếp cận như trên, có thể thiết kế hai tình huống dạy học khác nhau, giúp học sinh kiến tạo định lý sin trong tam giác. Tóm tắt các cách thiết kế như sau: Tình huống dạy học thứ nhất (Theo cách tiếp cận thứ nhất), xuất phát từ bài toán thực tiễn như sau: Hoạt động 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận, lí giải cách làm của các kĩ sư khi đo chiều cao của cột cờ Hà Nội. Nội dung: Các kĩ sư đã làm như sau: Sử dụng giác kế, tại điểm A, xác định góc A = 300 , tại điểm B thì góc CBH = 450 ; đoạn AB = 29,3m; từ đó xác định được chiều cao của cột cờ Hà Nội. Em hãy giải thích cách làm của họ và tính xem, cột cờ Hà Nội cao khoảng bao nhiêu mét? 300 450 A 29,3 B H Hình 1: Cột cờ Hà Nội Hình 2: Mô tả cách đo chiều cao của cột cờ Hà Nội Sử dụng giả thiết của bài toán, học sinh tính chiều cao CH = h như sau: h = BC.sin 450 ; h = AC.sin 300  BC.sin 450 = AC.sin 300 a b  a.sin 450 = b.sin 300 (1)  0 = (2) sin 30 sin 450 a b Vì sin 450 = sin B nên (2) trở thành: = (3) sin A sin B Hoạt động 2: Bộc lộ quan điểm ban đầu của học sinh Vấn đề tiếp theo là khai thác giả thiết thứ ba như thế nào. Có hai cách làm: 19
  20. - Cách thứ nhất: Học sinh có thể đặt vấn đề tương tự (do vai trò của A ; B ; a c b c C cũng như a ; b ; c tương đương nhau), sẽ có = ; = , tức là sẽ có (*). sin A sin C sin B sin C b c - Cách thứ hai: Có thể kẻ thêm đường cao BH1  = (giống cách sin B sin C làm trên), và do đó có (*) Bởi vì, đã biết giá trị góc C (từ giả thiết suy ra), biết c (giả thiết) nên biết giá c trị . Từ đó tính được a (hoặc b) và do đó tính được chiều cao h. sin C Đến đây, học sinh phát hiện một tính chất (quy luật) thú vị, được mô tả bởi (*), thông qua một trường hợp cụ thể. Hoạt động 3: Tổ chức cho học sinh phát biểu và chứng minh định lý Giáo viên yêu cầu học sinh phát biểu tính chất (định lý) bằng lời, bằng công thức (dưới dạng một phỏng đoán) và yêu cầu học sinh chứng minh phỏng đoán của mình. Giáo viên có thể gợi ý cho học sinh xét các trường hợp góc A (hoặc B, hoặc C) là các góc tù hoặc nhọn, sau đó dựng đường tròn ngoại tiếp tam giác ABC, từ đó, học sinh tiếp tục nghiên cứu để tìm ra đẳng thức (*). Tình huống dạy học thứ hai (theo cách tiếp cận thứ hai): Có hai cách tổ chức cho học sinh kiến tạo định lý. Cách 1: Hoạt động 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề Giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện nhiệm vụ và trả lời câu hỏi: Cho đường tròn (C) có tâm I, bán kính R và điểm A cố định. Hãy dùng thước Eke vẽ hai tam giác vuông tại A, nội tiếp đường tròn là ABC ; AB1C1 . Nhận xét về độ dài của BC; B1C1 và giải thích. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0