intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực khoa học cho học sinh thông qua tổ chức thực hiện một số chủ đề giáo dục STEM trong bài ancol hóa học cơ bản 11

Chia sẻ: Cỏ Xanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:61

20
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài được thực hiện học tập dưới dạng hoạt động STEM. Đây được coi là chìa khóa thực hiện việc học đi đôi với hành, học qua làm, học giải quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống ngay trong lớp, trong trường và có mối quan hệ bổ sung, hỗ trợ cho hoạt động dạy học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực khoa học cho học sinh thông qua tổ chức thực hiện một số chủ đề giáo dục STEM trong bài ancol hóa học cơ bản 11

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT DIỄN CHÂU 3 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM HÓA HỌC Đề tài: PHÁT TRỂN NĂNG LỰC KHOA HỌC CHO HỌC SINH THÔNG QUA TỔ CHỨC THỰC HIỆN MỘT SỐ CHỦ ĐỀ GIÁO DỤC STEM TRONG BÀI “ANCOL” HÓA HỌC CƠ BẢN 11 Người thực hiện: ĐINH SƠN HOÀI TRẦN THỊ THANH HÀ Chức vụ: Giáo viên Đơn vị: Trường THPT Diễn Châu 3 – Nghệ An Điện thoại: 0975.975.627 - 0348.100.553 Email: hoaids.c3dc3@nghean.edu.vn thanhha.dienchau3@gmail.com Diễn Châu, tháng 3 năm 2021
  2. PHÁT TRỂN NĂNG LỰC KHOA HỌC CHO HỌC SINH THÔNG QUA TỔ CHỨC THỰC HIỆN MỘT SỐ CHỦ ĐỀ GIÁO DỤC STEM TRONG BÀI “ANCOL” HÓA HỌC CƠ BẢN 11 Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) mới được xây dựng theo mô hình phát triển năng lực, thông qua những kiến thức cơ bản, thiết thực, hiện đại và các phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học, giúp học sinh hình thành, phát triển những phẩm chất, năng lực mà nhà trường và xã hội kì vọng. Theo cách tiếp cận này, kiến thức được dạy học không nhằm mục đích tự thân. Đó cũng là một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Nói cách khác, giáo dục không phải để truyền thụ kiến thức mà giúp học sinh hoàn thành các công việc, giải quyết các vấn đề trong học tập và đời sống nhờ vận dụng hiệu quả và sáng tạo những kiến thức đã học. Quan điểm này được thể hiện nhất quán ở nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục. Thực hiện nghị quyết hội nghị lần thứ 8, ban chấp hành Trung Ương khóa XI (Nghị quyết số 29 – NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, toàn nghành giáo dục đang ra sức nỗ lực thực hiện nhằm nâng cao chất lượng của nền giáo dục nước nhà. Trong xu hướng của cách mạng công nghiệp 4.0, nguồn lao động chất lượng cao không chỉ cần có kiến thức chuyên ngành mà đòi hỏi có sự hiểu biết của liên ngành. Ngoài ra các kỹ năng sử dụng kiến thức để giải quyết vấn đề, tạo sản phẩm sáng tạo và làm việc nhóm ngày càng được đề cao. Vì thế đòi hỏi giáo viên phải thay đổi phương pháp, học sinh phải thay đổi cách học. Do vậy, vai trò của giáo viên phải chuyển đổi từ “dạy cái gì”, “điều gì” sang dạy cho học sinh “phải làm gì” và “làm như thế nào”. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 định hướng phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh, mục tiêu của chương trình nhằm để trả lời cho câu hỏi: Học xong chương trình học sinh làm được gì? Chính vì vậy mà cần phải đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh. Các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cần phải gắn nội dung bài học với những vấn đề thực tiễn và giáo viên tổ chức hoạt động để học sinh tìm hiểu và giải quyết được vấn đề, thông qua đó tiếp thu tri thức một cách chủ động. Giáo dục STEM cũng xuất phát từ vấn đề nảy sinh trong thực tiễn được xây dựng thành các chủ đề/bài học STEM, thông qua việc giáo viên tổ chức các hoạt động học sẽ giúp học sinh tìm ra được những giải pháp để giải quyết vấn đề 1
  3. mà chủ đề/bài học STEM nêu ra. Phương pháp dạy học STEM đang là sự lựa chọn của nhiều nước có nền giáo dục hiện đại vì thông qua quá trình học giúp các em tự lĩnh hội được kiến thức, kĩ năng và có khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết các vấn đề thực tế. Trong quá trình dạy học hóa học ở trường THPT tôi nhận thấy việc truyền thụ kiến thức gắn liền với một số hoạt động thường ngày như: Nấu rượu theo phương pháp truyền thống từ các nguồn nguyên liệu quen thuộc khác nhau như gạo, ngô, khoai…hoặc sử dụng nước trái cây lên men...rất phổ biến. Hay như việc học sinh, sinh viên tô son ngày càng nhiều nhưng lại chủ yếu sử dụng các loại son rẻ tiền với hàm lượng chì cao ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe người sử dụng và đặc biệt, năm 2020 đến nay, cả thế giới chịu tổn thất to lớn bởi đại dịch covid 19, Việt Nam không ngoại lệ, trong bối cảnh đó, để phòng tránh dịch, bộ y tế đã khuyến cáo người dân thực hiện quy định 5k, trong đó có rửa tay với dung dịch sát khuẩn và thực trạng người dân đổ xô đi mua nước rửa tay khô, thậm chí mua về dự trữ khiến cho mặt hàng này trở nên khan hiếm... Trong khi đó, học sinh hoàn toàn có thể tự làm ra các sản phẩm trên an toàn – hiệu quả dựa trên các kiến thức đã được học. Với mong muốn phát triển năng lực khoa học, kích thích sự hứng thú , niềm say mê, sáng tạo trong việc tìm hiểu kiến thức cũng như vận dụng các kiến thức đó vào đời sống nên chúng tôi mạnh dạn kết hợp cùng nhau thực hiện một chủ đề mang lại hiệu quả khá khả quan trên phạm vi các lớp11 ban khoa học tự nhiên tại trường mình giảng dạy, đó là “Phát triển năng lực khoa học cho học sinh thông qua tổ chức thực hiện một số chủ đề giáo dục STEM trong bài ancol hóa học cơ bản 11”. 2. Mục tiêu, ý nghĩa, tính mới của đề tài Giáo dục STEM đề cao đến việc hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho người học. Trong mỗi bài học theo chủ đề STEM, học sinh được đặt trước tình huống có vấn đề thực tiễn cần giải quyết liên quan đến các kiến thức khoa học. Để giải quyết được vấn đề đó, học sinh phải tìm tòi, nghiên cứu những kiến thức thuộc các môn học có liên quan đến vấn đề( qua sách giáo khoa, học liệu, thiết bị thí nghiệm, thiết bị công nghệ…) và sử dụng chúng để giải quyết các vấn đề đặt ra. Hoạt động STEM ở trường THPT đề cao một phong cách học tập mới cho người học, đó là phong cách học tập sáng tạo. Đặt người học vào vai trò của một nhà phát minh, người học sẽ phải hiểu thực chất của các kiến thức được trang bị, phải biết cách mở rộng kiến thức, biết cách sửa chữa, chế biến chúng lại cho phù hợp với tình huống có vấn đề mà người học đang cần giải quyết. Ngoài ra, hoạt động STEM còn giúp mỗi cá nhân khẳng định được giá trị riêng, giúp học sinh thể hiện tình yêu đất nước, con người, trách nhiệm công dân...bằng việc làm, hành động cụ thể giúp học sinh tiếp tục hoàn thiện những phẩm chất và năng lực chung 2
  4. của chương trình giáo dục như năng lực hoạt động và tổ chức hoạt động, năng lực tự nhận thức và tích cực hóa bản thân, năng lực khám phá và sáng tạo...Đó cũng chính là những phẩm chất và năng lực cơ bản của người lao động tương lai và người công dân toàn cầu. Đề tài được thực hiện học tập dưới dạng hoạt động STEM. Đây được coi là chìa khóa thực hiện việc học đi đôi với hành, học qua làm, học giải quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống ngay trong lớp, trong trường và có mối quan hệ bổ sung, hỗ trợ cho hoạt động dạy học. Với đề tài trên, học sinh vận dụng kiến thức được học kết hợp với sự sáng tạo để trực tiếp thực hiện những công việc quen thuộc trong cuộc sống: Nấu rượu từ gạo, khoai, lên men rượu từ trái cây hoặc tìm phương pháp khoa học để tạo ra loại son đẹp mà an toàn cho sức khỏe, hay điều chế dung dịch sát khuẩn trong bối cảnh đại dịch covid 19 hiện nay… Để từ đó các em học sinh nhận thức được ý nghĩa của việc bảo vệ môi trường, giữ gìn nền văn hóa dân tộc, xây dựng ý thức bảo vệ sức khỏe cho bản thân, gia đình và xã hội. Bên cạnh đó các em còn được bày tỏ quan điểm, ý tưởng và lựa chọn ý tưởng của chính mình. Do vậy các em thật sự hào hứng và rất tích cực khi được học tập theo định hướng STEM. 3. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài tôi sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp giải quyết vấn đề. - Phương pháp sắm vai. - Phương pháp trò chơi. - Phương pháp làm việc nhóm. - Phương pháp thống kê 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài - Năm học 2018 -2019 chúng tôi đã tiến hành riêng lẻ đề tài này tại một số lớp mình giảng dạy và đạt kết quả khá khả quan. Vì vậy năm học 2019-2020 chúng tôi thảo luận thống nhất kết hợp cùng nhau mở rộng thực hiện đề tài trên các lớp khối 11 theo định hướng ban khoa học tự nhiên tại trường THPT A nhằm giúp học sinh tăng cơ hội được học hỏi, làm việc và trao đổi, thảo luận, không những với các bạn trong lớp mà trong khối, từ đó nâng cao hứng thú trong học tập cũng như phát triển được khả năng tư duy, sáng tạo và khám phá khoa học. Cụ thể: + Thầy A triển khai tại các lớp 11A1, 11A3 trong đó: Lớp 11A1( sĩ số 40) là lớp thực nghiệm: Dạy học theo đề tài. Lớp 11A3( sĩ số 41) là lớp đối chứng: không dạy theo đề tài. 3
  5. + Cô B triển khai tại các lớp 11A2, 11A4, 11A5, 11A7 trong đó: Lớp 11A4( sĩ số 44), 11A2( sĩ số 43) là lớp thực nghiệm: Dạy học theo đề tài. Lớp 11A5( sĩ số 39),11A7 ( sĩ số 38) là lớp đối chứng: không dạy theo đề tài. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài - Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài . - Phân tích các nội dung trong chương trình hóa học phổ thông, từ đó lựa chọn nội dung phù hợp với đề tài nghiên cứu . - Thiết kế câu hỏi nhằm nâng cao năng lực chuyên biệt của học sinh đối với môn hóa học . - Thực nghiệm sư phạm để thăm dò hiệu quả của đề tài nghiên cứu đối với môn hóa học Phần II. NỘI DUNG Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 2.1. Tổng quan về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định “giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, học đi đôi với hành, lí luận gắn với thực tiễn...”. Định hướng quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học( PPDH) là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học. Đó cũng là xu hướng tất yếu trong cải cách PPDH ở nhà trường phổ thông. Qua tìm hiểu các đề tài SKKN đã làm của các giáo viên, chúng tôi thấy đã có nhiều công trình nghiên cứu, sách, bài viết sưu tầm được đề cập đến vấn đề đổi mới PPDH cho học sinh như dạy học chủ đề, dạy học dự án hay dạy học STEM, dạy học trải nghiệm…có một số đề tài nghiên cứu về ancol và ứng dụng của ancol, tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về hướng dẫn cho học sinh vận dụng kiến thức ancol vào thực tiễn. Đó là "khoảng trống" về lý luận và thực tiễn đòi hỏi đề tài sáng kiến phải làm rõ. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ có những đóng góp về lý luận và thực tiễn đối với dạy học hóa học trong trường THPT hiện nay. 2.2. Định hướng chung 4
  6. Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành được xây dựng theo định hướng nội dung, nặng về truyền thụ kiến thức, chưa chú trọng giúp học sinh vận dụng kiến thức học được vào thực tiễn. Các văn kiện của Đảng và Nhà nước về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông như Nghị quyết 29, Nghị quyết 88 và Quyết định 404 đều xác định mục tiêu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là góp phần chuyển nềngiáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của người học. Ngày 4/5/2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số16/CT-TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chỉ thị của Thủ tướng đề ra những giải pháp và nhiệm vụ, mà một trong các giải pháp đó là: “Thay đổi mạnh mẽ các chính sách, nội dung, phương pháp giáo dục và dạy nghề nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới, trong đó cần tập trung vào thúc đẩy đào tạo về khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán học (STEM), ngoại ngữ, tin học trong chương trình giáo dục phổ thông”. Chỉ thị cũng giao nhiệm vụ cho Bộ GDĐT “thúc đẩy triển khai giáo dục về khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán học (STEM) trong chương trình giáo dục phổ thông; tổ chức thí điểm tại một số trường phổ thông ngay từ năm học 2017 - 2018…”. Với việc ban hành Chỉ thị trên, Việt Nam chính thức ban hành chính sách thúc đẩy giáo dục STEM trong chương trình giáo dục phổ thông. 2.3. Cơ sở lí luận 2.3.1 Khái niệm STEM STEM là viết tắt của các từ Science (Khoa học), Technology (Công nghệ), Engineering (Kỹ thuật) và Math (Toán học). Giáo dục STEM về bản chất được hiểu là trang bị cho người học những kiến thức và kỹ năng cần thiết liên quan đến các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học. Những kiến thức và kỹ năng vừa nêu phải được tích hợp, lồng ghép và bổ trợ cho nhau giúp học sinh không chỉ hiểu biết về nguyên lý mà còn có thể áp dụng để thực hành và tạo ra được những sản phẩm trong cuộc sống hằng ngày. Trong đó với kỹ năng khoa học, học sinh được trang bị kiến thức về các khái niệm, các nguyên lý, các định luật và các cơ sở lý thuyết của giáo dục khoa học. Mục tiêu quan trọng nhất là thông qua giáo dục khoa học, học sinh có khả năng liên kết các kiến thức này để thực hành và có tư duy để sử dụng kiến thức vào thực tiễn để giải quyết các vấn đề trong thực tế. Với kỹ năng công nghệ, học sinh có khả năng sử dụng, quản lý, hiểu biết, và truy cập được công nghệ, từ những vật dụng đơn giản như cái bút, chiếc quạt đến những hệ thống phức tạp như mạng Internet, máy móc. Về kỹ năng kỹ thuật, học sinh được trang bị kỹ năng sản xuất ra đối tượng và hiểu được quy trình để làm ra nó. Vấn đề này đòi hỏi học sinh phải có khả năng tổng hợp và kết hợp để biết cách làm thế nào để cân bằng các yếu tố liên quan (như 5
  7. khoa học, nghệ thuật, công nghệ, kỹ thuật) để có được một giải pháp tốt nhất trong thiết kế và xây dựng quy trình. Ngoài ra học sinh còn có khả năng nhìn nhận ra nhu cầu và phản ứng của xã hội trong những vấn đề liên quan đến kỹ thuật. Và cuối cùng, kỹ năng toán học là khả năng nhìn nhận và nắm bắt được vai trò của toán học trong mọi khía cạnh tồn tại trên thế giới. Học sinh có kỹ năng toán học sẽ có khả năng thể hiện các ý tưởng một cách chính xác, có khả năng áp dụng các khái niệm và kỹ năng toán học vào cuộc sống hằng ngày. Với học sinh phổ thông, việc theo học các môn học STEM còn có ảnh hưởng tích cực tới khả năng lựa chọn nghề nghiệp tương lai. Khi được học nhiều dạng kiến thức trong một thể tích hợp, học sinh sẽ chủ động thích thú với việc học tập thay vì thái độ e ngại hoặc tránh né một lĩnh vực nào đó, từ đó sẽ khuyến khích các em có định hướng tốt hơn khi chọn chuyên ngành cho các bậc học cao hơn và sự chắc chắn cho cả sự nghiệp về sau. Những học sinh học theo cách tiếp cận giáo dục STEM đều có những ưu thế nổi bật như: kiến thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ và toán học chắc chắn; khả năng sáng tạo, tư duy logic; hiệu suất học tập và làm việc vượt trội; và có cơ hội phát triển các kỹ năng mềm toàn diện hơn trong khi không hề gây cảm giác nặng nề, quá tải đối với học sinh. 2.3.2. Giáo dục STEM Giáo dục STEM vận dụng phương pháp học tập chủ yếu dựa trên thực hành và các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, các phương pháp giáo dục tiến bộ, linh hoạt nhất như: Học qua dự án - chủ đề, học qua trò chơi và đặc biệt phương pháp học qua hành luôn được áp dụng triệt để cho các môn học tích hợp STEM. Giáo dục STEM được sử dụng theo mô tả trong Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 như sau: Giáo dục STEM là mô hình giáo dục dựa trên cách tiếp cận liên môn, giúp học sinh áp dụng các kiến thức khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán học vào giải quyết một số vấn đề thực tiễn trong bối cảnh cụ thể. Giáo dục STEM là phương pháp tiếp cận, khám phá trong giảng dạy và học tập giữa hai hay nhiều hơn các môn học STEM, hoặc giữa mộtchủ đề STEM và một hoặc nhiều môn học khác trong nhà trường. Phỏng theo chu trình STEM, giáo dục STEM đặt học sinh trước những vấn đề thực tiễn (“công nghệ” hiện tại) cần giải quyết, đòi hỏi học sinh phải tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức khoa học và vận dụng kiến thức để thiết kế và thực hiện giải pháp giải quyết vấn đề. Như vậy, mỗi bài học STEM sẽ đề cập và giao cho học sinh giải quyết một vấn đề tương đối trọn vẹn, đòi hỏi học sinh phải huy động kiến thức đã có và tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức mới để sử dụng. Quá trình đó đòi hỏi học sinh phải thực hiện theo “Quy trình khoa học” ( để chiếm lĩnh kiến thức mới) và “Quy trình kĩ thuật” để thực hiện kiến thức đó vào việc thiết kế và thực hiện giải pháp (“công nghệ” mới) để giải quyết vấn đề. 6
  8. 2.3.3. Xu thế tất yếu của dạy học STEM trong thời gian tới Chương trình giáo dục phổ thông 2018 định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh, mục tiêu của chương trình nhằm để trả lời cho câu hỏi: Học xong chương trìnhhọc sinh làm được gì? Chính vì vậy mà cần phải đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh. Các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cần phải gắn nội dung bài học với những vấn đề thực tiễn và giáo viên tổ chức hoạt động để học sinh tìm hiểu và giải quyết được vấn đề, thông qua đó tiếp thu tri thức một cách chủ động. Giáo dục STEM cũng xuất phát từ vấn đề nảy sinh trong thực tiễn được xây dựng thành các chủ đề bài học STEM, thông qua việc giáo viênt ổ chức các hoạt động học sẽ giúp học sinh tìm ra được những giải pháp để giải quyết vấn đề mà chủ đề bài học STEM nêu ra. Trong những năm qua, Đảng, Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện và đổi mới giáo dục trong có liên quan đến giáo dục STEM được ban hành, cụ thể như: Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018 –2025”; Công văn số 3535/BGDĐT–GDTrH, ngày 27/5/2013 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá thông qua việc hướng dẫn xây dựng các chủ đề dạy học; Công văn số 5555/BGDĐT–GDTrH, ngày 8/10/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc đổi mới quản lí sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học; Công văn số 791/ BGDĐT–GDTrH, ngày 25/6/2013 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc thí điểm giao quyền tự chủ xây dựng kế hoạch nhà trường; Các công văn hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học đối với giáo dục trung học hằng năm; Thông tư 32/2018/TT–BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018; Công văn số 4612/BGDĐT–GDTrH ngày 03/10/2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ thông hiện hành theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh từ năm học 2017–2018; Kế hoạch số 10/KH–BGDĐT, ngày 7/1/2016 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ứng dụng ICT trong quản lí các hoạt động giáo dục ở trường trung học năm học 2016–2017, trong đó thí điểm triển khai giáo dục STEM tại một số trường trung học.Về phía Sở Giáo duc Đào tạo Nghệ An số 1602/SGD&ĐT-GDTrH cũng nói rõ trong mục đổi mới hình thức dạy học cần: Đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học. Ngoài việc tổ chức cho học sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập ở trên lớp, cần coi trọng giao nhiệm vụ và hướng dẫn học sinh học tập ở nhà, ở ngoài nhà trường; tăng cường các hoạt động trải nghiệm; tổ chức dạy học gắn liền với di sản văn hóa, với các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ở địa phương; sử dụng các hình thức dạy học trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Xây dựng và tổ chức thực hiện các chủ đề tích hợp liên môn, nhấtlà những chủ đề xây dựng theo tỉnh thần giáo dục tích hợp khoa học - công nghệ - kỹ thuật - toán (STEM) trong việc thực hiện CT GDPT ở những môn học liên quan. Khuyến khích mỗi nhóm 7
  9. chuyên môn xây dựng một chủ đề giáo dục STEM, tập trung vào mức độ “Dạy học các môn khoa học theo phương thức giáo dục STEM”. Gần đây nhất Sở Giáo dục Nghệ An có Công vănsố:1841/SGD&ĐT-GDTrH ngày 7/10/2019 V/v Hướng dẫn thực hiện giáo dục STEM trong trường trung học từ năm học 2019-2020. Công văn nói rõ: Giáo dục STEM là một phương thức giáo dục nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức khoa học gắn liền với ứng dụng của chúng trong thực tiễn, qua đó phát triển cho học sinh năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề cùng với những năng lực khác tương ứng, đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế – xã hội. Mỗi bài học STEM trong chương trình giáo dục phổ thông đề cập đến một vấn đề tương đối trọn vẹn, đòi hỏi học sinh phải học và sử dụng kiến thức thuộc các môn học trong chương trình để sử dụng vào giải quyết vấn đề đó. Giáo dục STEM đảm bảo giáo dục toàn diện, nâng cao hứng thú học tập các môn học, hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh, kết nối trường học với cộng đồng, góp phần hướng nghiệp, phân luồng. 2.3.4. Một số vấn đề chung về dạy học định hướng STEM 2.3.4.1. Vì sao nên vận dụng phương pháp dạy học STEM vào môn hóa học trường phổ thông Hoá học là ngành khoa học thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, nghiên cứu về thành phần cấu trúc, tính chất và sự biến đổi của các đơn chất và hợp chất. Hoá học có sự kết hợp chặt chẽ giữa lí thuyết và thực nghiệm, là cầu nối các ngành khoa học tự nhiên khác như vật lí, sinh học, y dược và địa chất học. Những tiến bộ trong lĩnh vực hoá học gắn liền với sự phát triển của những phát hiện mới trong các lĩnh vực của các ngành sinh học, y học và vật lí. Hoá học đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, sản xuất, góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội. Trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018 môn Hóa học là môn học thuộc giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp ở cấp trung học phổ thông, được học sinh lựa chọn theo định hướng nghề nghiệp, sở thích và năng lực của bản thân. Các kiến thức trong Hóa học đều có mối quan hệ hữu cơ với các môn học khác như Toán học, Vật lí, Sinh học. Do đó, việc dạy học Hóa học bằng phương thức giáo dục tích hợp theo cách tiếp cận liên môn là cần thiết. Thông qua mô hình STEM, học sinh được học Hóa học trong một chỉnh thể có tích hợp với toán học, công nghệ, kĩ thuật và các môn khoa học khác; không những thế học sinh còn được trải nghiệm, được tương tác với xã hội, với các doanh nghiệp. Từ đó kích thích được sự hứng thú, tự tin, chủ động trong học tập của học sinh; hình thành và phát triển các năng lực chung và năng lực đặc thù học tập; tạo ra sản phẩm giáo dục đáp ứng với nhu cầu nguồn nhân lực hiện đại. 8
  10. Với mục tiêu của việc dạy học là làm sao để học sinh vận dụng các kiến thức vào quá trình thực tế, do đó nên tiếp cận với các quan điểm dạy học định hướng tích hợp giáo dục STEM. Khi vận dụng phương pháp này các em sẽ thấy một chỉnh thể của khoa học trong đó hóa học không tách rời các bộ môn khoa học khác. Qua đó các em có sự thay đổi phần nào trong cảm nhận về môn khoa học tự nhiên – những bộ môn thường bị coi rằng khô khan và khó học, nặng lý thuyết và không có liên hệ thực tế - nay trở thành một niềm hấp dẫn mới mẻ, khơi gợi cảm hứng, niềm yêu thích và say mê khoa học với nhiều em học sinh. Và qua việc học theo định hướng STEM, có khá nhiều em học sinh chia sẻ sẽ lựa chọn khoa học là con đường tương lai cho bản thân mình. Sau đó trên các diễn đàn dạy học tích cực, qua các cuộc tập huấn và các lớp học nâng hạng, chúng tôi đã biết đến giáo dục Stem. Chúng tôi đã tìm ra câu trả lời cho những trăn trở của mình và mạnh dạn áp dụng vào dạy học trong thời gian vừa qua và đã mang lại những tín hiệu đáng mừng. Chúng tôi mạnh dạn trình bày những sáng kiến cũng như kinh nghiệm của bản thân và mong muốn cùng với các đồng nghiệp tạo ra những tiết học lí thú, truyền cảm hứng cho học sinh qua chủ đề cụ thể. Trong đề tài này chúng tôi đề cập đến việc tổ chức thực hiện một số chủ đề giáo dục STEM trong bài ancol hóa học cơ bản 11, thích hợp cho việc thiết kế và tổ chức dạy học theo định hướng giáo dục STEM cho học sinh trường THPT hiện nay. Qua quá trình thực hiện tôi nhận thấy những hiệu quả cụ thể sau: Đối với giáo viên: Cần huy động kiến thức của nhiều môn học về khoa học, kĩ thuật, sinh học, toán học và tin học. Giáo viện sẽ học hỏi tham vấn ý kiến chuyên môn của các bộ môn liên quan. Qua mỗi lần soạn bài như vậy kiến thức của mình không chỉ được nâng lên mà các kĩ năng cũng được rèn luyện, kĩ năng sử dụng thí nghiệm thực hành, kĩ năng tổ chức quản lí học sinh bên ngoài lớp học va kĩ năng ứng dụng công nghệ thông tin, … Đối với người học: Ngoài những mục tiêu mà một tiết học mang lại là nội dung kiến thức, khả năng áp dụng kiến thức vào thực tiễn thì bài học giúp người học hiểu rõ bản chất, thấy được mọi sự vật hiện tượng trong thế giới luôn có mối liên hệ biện chứng với nhau. Đồng thời người học rèn luyện được tính tự học, tự giác cao, năng lực làm việc nhóm, năng lực giải quyết vấn đề trong bối cảnh thực tế. Người học có thể hình thành các dự án khoa học cho việc phát triển bản thân trong tương lai. 2.3.4.2. Các bước xây dựng chủ đề/bài học STEM Hướng dẫn thực hiện giáo dục STEM trong trường trung họctừ năm học 2019-2020; Sở Giáo dục Nghệ An có Công văn số:1841/SGD&ĐT-GDTrH ngày 7/10/2019 cụ thể như sau: 9
  11. Bước 1: Lựa chọn chủ đề bài học Căn cứ vào nội dung kiến thức trong chương trình các môn học và các hiện tượng, quá trình gắn với các kiến thức đó trong tự nhiên; quy trình hoặc thiết bị công nghệ có sử dụng của kiến thức đó trong thực tiễn... để lựa chọn chủ đề của bài học. Bước 2: Xác định vấn đề cần giải quyết Sau khi chọn chủ đề của bài học, cần xác định vấn đề cần giải quyết để giao cho học sinh thực hiện sao cho khi giải quyết vấn đề đó, học sinh phải học được những kiến thức, kĩ năng cần dạy trongchương trình môn học đã được lựa chọn (đối với STEM kiến tạo) hoặc vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã biết (đối với STEM vận dụng) để xây dựng bài học. Bước 3: Xây dựng tiêu chí của thiết bị/giải pháp giải quyết vấn đề Sau khi đã xác định vấn đề cần giải quyết sản phẩm cần chế tạo, cần xác định rõ tiêu chí của giải pháp sản phẩm. Những tiêu chí này là căn cứ quan trọng để đề xuất giả thuyết khoa học giải pháp giải quyết vấn đề thiết kế mẫu sản phẩm. Bước 4: Thiết kế tiến trình tổ chức hoạt động dạy học Mỗi bài học STEM được tổ chức theo 5 hoạt động: Xác định vấn đề; Nghiên cứu kiến thức nền và đề xuất giải pháp; Lựa chọn giải pháp; Chế tạo mẫu, thử nghiệm và đánh giá; Chia sẻ, thảo luận, điều chỉnh. Tiến trình bài học STEM tuân theo quy trình kĩ thuật nêu trên nhưng các "bước" trong quy trình không được thực hiện một cách tuyến tính (hết bước nọ mới sang bước kia) mà có những bước được thực hiện song hành, tương hỗ lẫn nhau. Việc "Nghiên cứu kiến thức nền" được thực hiện đồng thời với "Đề xuất giải pháp"; "Chế tạo mô hình" được thực hiện đồng thời với "Thử nghiệm và đánh giá", trong đó bước này vừa là mục tiêu vừa là điều kiện để thực hiện bước kia. Tiến trình mỗi bài học STEM được thực hiện phỏng theo quy trình kĩ thuật, trong đó việc "Nghiên cứu kiến thức nền" trong tiến trình dạy học mỗi bài học STEM chính là việc học để chiếm lĩnh nội dung kiến thức trong chương trình giáo dục phổ thông tương ứng với vấn đề cần giải quyết trong bài học, trong đó học sinh là người chủ động nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu bổ trợ, tiến hành các thí nghiệm theo chương trình học (nếu có) dưới sự hướng dẫn của giáo viên; Vận dụng kiến thức đã học để đề xuất, lựa chọn giải pháp giải quyết vấn đề; Thực hành thiết kế, chế tạo, thử nghiệm mẫu; Chia sẻ, thảo luận, điều chỉnh thiết kế. Thông qua quá trình học tập đó, học sinh được rèn luyện nhiều kĩ năng để phát triển phẩm chất, năng lực. 2.4. Cơ sở thực tiễn 10
  12. 2.4.1. Thực trạng dạy học môn hóa học trong trường phổ thông A hiện nay. - Môn hóa học là một trong những bộ môn khoa học cơ bản, lí do lựa chọn môn hóa học của học sinh là chủ yếu học để thi đại học, cao đẳng. - Do chương trình thi cử nặng nề về lí thuyết và nhiều bài tập tính toán nên đa số các em học theo kiểu nhồi nhét kiến thức để đáp ứng cho các kì thi, chính vì vậy mà các em ít nhận thấy vai trò ứng dụng của hóa học vào đời sống. - Học sinh không được trải nghiệm thực tế, nên việc đưa kiến thức khoa học trở nên nặng nề. - Việc tổ chức dạy học theo hướng giáo dục STEM ở các trường THPT nói chung còn hạn chế, các trường chủ yếu còn giao nhiệm vụ cho tổ nhóm tạo ra 1 sản phẩm STEM chứ chưa mang tính tự giác. Đó là lí do các em học sinh học chủ yếu là để đối phó với các kì thi còn yếu tố đam mê yêu thích rất ít. Chính vì vậy đầu năm học 2019-2020 chúng tôi đã tiến hành khảo sát 240 em học sinh khối 11 (gồm 6 lớp 11A1, 11A2, 11A3, 11A4, 11A5, 11A7) về sự hứng thú, cách thức học và nội dung phương pháp học môn hóa. PHIẾU KHẢO SÁT Em hãy tích vào nội dung câu hỏi sau: Ý kiến học sinh Câu Nội dung Lớp thực Lớp đối nghiệm chứng 1 Sự hứng thú học môn Hóa ở các em thuộc mức nào ? Rất thích Thích Bình thường Không thích 2 Em thích học môn Hóavì: Môn hóa là một trong những môn thi vào các trường ĐH, CĐ Bài học sinh động, thầy cô dạy vui vẻ, dễ hiểu 11
  13. Kiến thức dễ nắm bắt Kiến thức gắn thực tế nhiều 3 Trong giờ học môn hóa em thích được học như thế nào Tập trung nghe giảng, phát biểu ý kiến, thảo luận và làm việc Nghe giảng và ghi chép một cách thụ động Được làm các thí nghiệm thực hành để hiểu sâu sắc vấn đề về hóa học Làm các bài tập nhiều để ôn thi đại học 4 Nội dung dạy học Không cần thí nghiệm thực hành nhiều Tăng cường học lí thuyết và giải bài tập tính toán gắn với kì thi đại học cao đẳng Giảm tải lí thuyết, vận dụng kiến thức đã học để đưa kiến thức vào thực tiễn, tăng cường thí nghiệm thực hành. Kết quả khảo sát: Kết quả Câu Nội dung Lớp thực nghiệm Lớp đối chứng Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % 1 Sự hứng thú học môn hóa ở các em thuộc mức nào ? Rất thích 17 13,38 13 11,02 Thích 20 15,75 15 12,71 Bình thường 65 51,18 68 57,62 Không thích 25 19,68 22 2 Em thích học môn hóa vì: Môn hóa là một trong những 31 24,41 28 23,73 môn thi vào các trường ĐH, CĐ 12
  14. Bài học sinh động, thầy cô dạy 55 43,3 53 44,91 vui vẻ, dễ hiểu Kiến thức dễ nắm bắtKiến thức 30 23,62 22 18,64 dễ nắm bắt Kiến thức gắn thực tế nhiều 11 8,66 13 11,02 3 Trong giờ học môn hóa em thích được học như thế nào Tập trung nghe giảng, phát biểu 47 37 40 33,89 ý kiến, thảo luận và làm việc Nghe giảng và ghi chép một 28 22,04 30 25,42 cách thụ động Được làm các thí nghiệm thực hành để hiểu sâu sắc vấn đề về 35 27,56 35 29,66 hóa học Làm các bài tập nhiều để ôn thi 14,17 18 11,01 đại học 13 4 Nội dung dạy học Không cần thí nghiệm thực 32 25,19 37 31,36 hành nhiều Tăng cường học lí thuyết và giải bài tập tính toán gắn với kì thi 52 40,94 45 38,13 đại học cao đẳng Giảm tải lí thuyết, vận dụng kiến thức đã học để đưa kiến 43 33,85 36 30,52 thức vào thực tiễn, tăng cường phần thực hành. Kết quả khảo sát cho thấy số lượng học sinh yêu thích và thích môn hóa rất thấp chỉ chiếm 15,75% và 12,71%; các em thích học vì môn hóa là do giáo viên dạy, do là môn thi đại học và kiến thức gắn với thực tiễn. Các em cũng rất chú trọng các nội dung dạy học gắn với các kì thi chiếm 33,85 và 30,52%. Rõ ràng qua phân tích thì các em vẫn chủ yếu học theo lối truyền thống nặng về thi cử đối phó, do vậy mà các em ít có yếu tố đam mê nghiên cứu và thực sự yêu thích là rất ít, kĩ năng thực hành rất hạn chế và là nguyên nhân năng lực làm việc hạn chế sau khi ra trường, đặc biệt là trong thời đại 4.0 với kỉ nguyên của thế giới phẳng thì khả năng đáp ứng đầu ra sau khi ra trường lại càng rất khó khăn. Vậy đó là lí do tôi muốn 13
  15. đưa phương pháp dạy học STEM vào để giảng dạy kết hợp phương pháp truyền thống. 2.4.2. Những thuận lợi và khó khăn khi đưa STEM vào trường phổ thông hiện nay 2.4.2.1. Thuận lợi - Học sinh và giáo viên có thể tham khảo các mô hình dạy học STEM của các trường học trong và ngoài nước, có khả năng tiếp cận với các phương pháp dạy học và học tập tương đối dễ dàng nhờ hệ thống kết nối toàn cầu. - Mỗi trường học đều khuyến khích cho các giáo viên dạy học tiếp cận năng lực người học và có chiến lược phát triển, đầu tư cho các hoạt động dạy học, đặc biệt các trường tiến tới Kiểm định chất lượng ở mức độ cao thì càng được chú trọng hơn. - Bộ Giáo dục, Sở giáo dục, các phòng đào tạo và trường học của một số trường học ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Nam Định…đã được thực hiện thí điểm và cho nhiều kết quả rất tốt, học sinh rất tích cực và sáng tạo chủ động trong cách tiếp cận phương pháp học tập này. - Thủ tướng Chính phủ cũng đã giao trách nhiệm cho Bộ GD&ĐT thúc đẩy triển khai giáo dục STEM trong chương trình giáo dục phổ thông; tổ chức thí điểm tại một số trường phổ thông cũng ngay từ năm học 2017-2018. 2.4.2.2. Khó khăn - Việc học sinh tiếp cận phương pháp dạy học STEM cũng đòi hỏi nhất định về mặt năng lực khoa học tự nhiên, chỉ nên áp dụng các chủ đề này đối với các lớp theo khối khoa học tự nhiên, các em phải đam mê và chịu khó làm việc với chương trình hiện tại mới đạt hiệu quả cao. - Học sinh hiện tại yếu tố đam mê nghiên cứu chưa nhiều vì các em ngại làm việc do lối giáo dục chỉ tiếp cận kiến thức đã quen thuộc nên các em tương đối bị động trong công việc. - Việc thực hiện ngoài không gian trường học cũng gặp một số khó khăn, vì các em ở trong một đội nhóm ở nhiều địa bàn khác nhau. - Đa số suy nghĩ giáo viên và học sinh vẫn với một lối tư duy ‘‘thi gì học nấy’’. Vì với chương trình thi cử hiện hành bản thân môn hóa đang rất nặng về năng lực tính toán chưa chú trọng yếu tố thực hành và khả năng vận dụng vào cuộc sống đó cũng là rào cản mà giáo viên và học sinh không tích cực với phương pháp dạy học này. 14
  16. - Ở các trường phổ thông hiện tại thời gian ngoài trên lớp các em chủ yếu là học thêm ngoài để thi nên rất khó khăn trong triển khai công việc ngoài giờ, vì các em học thêm 3,4 ca mỗi ngày lịch học dày đặc không có thời gian sắp xếp. - Đa số giáo viên chưa hiểu về phương pháp dạy học tiếp cận STEM còn ngại tìm hiểu và tham gia. - Cơ sở vật chất để ở các trường vẫn còn hạn chế. - Hình thức dạy học truyền thống đã ăn sâu vào tâm thức mỗi giáo viên để họ thay đổi nhận thức không phải một sớm một chiều. Tư tưởng an phận không chịu tiếp thu cái mới cũng là một rào cản mới trong việc đưa STEM vào trong trường phổ thông. 2.4.3. Các biện pháp đưa STEM vào môn hóa trường trung học phổ thông hiện nay 2.4.3.1. Về phía nhà trường - Làm cho học sinh và giáo viên hiểu được đầy đủ và đúng đắn ý nghĩa của hình thức học tập này bằng cách tổ chức tập huấn tốt về hình thức dạy học STEM. - Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, các tổ nhóm chuyên môn mở các câu lạc bộ STEM . - Có hình thức động viên, khuyến khích, khen thưởng kịp thời với những giáo viên có những đóng góp cho sự phát triển phong trào dạy học STEM của nhà trường. - Tích cực tuyên truyền cho giáo viên và học sinh thấy được ý nghĩa của dạy học STEM. - Cơ sở vật chất của các nhà trường được đầu tư thêm để đáp ứng nhu cầu cho giáo viên và học sinh giảng dạy và học tập. 2.4.3.2. Về phía giáo viên - Tích cực tham gia các buổi tập huấn, các chương trình học STEM qua các khóa học có chất lượng. - Tích cực soạn bài giảng có định hướng STEM. - Tham gia diễn đàn của các chương trình dạy học STEM trên khắp cả nước và diễn đàn của nhà trường nói riêng. - Hướng dẫn học sinh cách học tập và nghiên cứu theo phương pháp này để học sinh cảm nhận được tính ưu việt của phương pháp dạy học này. 15
  17. - Bên cạnh phát huy các ưu điểm của dạy học truyền thống cũng cần học sinh thấy được vai trò của thực hành và khả năng vận dụng kiến thức vào cuộc sống mang lại những bài giảng phong phú hấp dẫn cho học sinh. 2.4.3.3. Về phía học sinh - Học sinh là người học là người trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ học tập một cách tự giác và chủ động, vì việc thực hiện các nhiệm vụ không những thực hiện trong phạm vi không gian lớp học mà còn ở ngoài trường học nữa. - Các em phải có sự kết nối các thành viên trong tổ nhóm khi thực hiện ở ngoài trường, nên cần tinh thần trách nhiệm của các thành viên trong nhóm để đảm bào thành quả của sự hợp tác nhóm. + Giáo viên tham gia hướng dẫn và tư vấn. 2.4.3.4. Kết hợp xây dựng các chủ đề dạy học STEM với phương pháp dạy học truyền thống Rõ ràng STEM có rất nhiều ưu điểm, tuy nhiên có những hạn chế như sau: Thứ nhất là mất nhiều thời gian thực hiện. Một chủ đề thực hiện sẽ mất khá nhiều thời gian ở trên lớp cũng như ngoài lớp nên ảnh hưởng đến việc học tập trên lớp các em cũng như thời gian học tập các môn học khác vì các em cần đầu tư thời gian tương đối nhiều khi thực hiện một chủ đề. Thứ hai trong khi các kì thi hiện tại vẫn chủ yếu rèn luyện trí nhớ kiến thức hàn lâm và nặng về các bài tập tính toán nên các em vẫn phải học để đáp ứng các kì thi, do thói quen học tập cũ nặng về nhồi nhét kiến thức vậy nên chưa chú tâm học tập và trải nghiệm các công việc được giao ở nhà, một số em còn làm theo đối phó và suy nghĩ rằng chưa thiết thực với thi cử hiện hành. Thứ ba đó kinh phí thực hiện một số dụng cụ, nguyên liệu khi làm thực hành chưa đầy đủ, và khá tốn kém nên đôi khi giáo viên và các em cũng ngại làm. Thứ tư đó là STEM là phương pháp tích hợp nên chắc chắn giáo viên giảng dạy đòi hỏi phải nắm rõ phương pháp và cách thức tổ chức giảng dạy cũng như trình độ liên môn nhất định vì STEM như là khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán học. Đòi hỏi giáo viên phải có trình độ và đam mê công việc nó mất nhiều thời gian và công sức của giáo viên. Do vậy chúng ta nên phối hợp lồng ghép giữa phương pháp học tập truyền thống và giáo dục STEM để học sinh có thể đạt hiệu quả học tập tốt nhất hiện nay 2.5. Một số vấn đề liên quan khác 2.5.1. Ancol 2.5.1.1. Khái niệm 16
  18. Ancol là những hợp chất hữu cơ mà phân tử có nhóm hiđroxyl (OH) liên kết trực tiếp với nguyên tử cacbon no. Ancol quen thuộc với chúng ta là C2H5OH, được gọi là ancol etylic hoặc etanol. Trong đời sống thông thường, từ ancol được hiểu như là những đồ uống có chứa cồn, (cồn (etanol) hay ancol etylic) (C2H5OH). 2.5.1.2. Lợi ích và tác hại của đồ uống có cồn( rượu/bia) đối với sức khỏe Uống rượu là thói quen rất lâu đời của con người từ thời cổ đại, cách đây hơn 2000 năm người ta đã biết uống rượu và dùng rượu, rượu còn là một nét văn hóa là niềm tự hào, là đặc sản của từng địa phương như: Rượu Sâm Banh của Pháp, rượu Vodka của Nga, rượu Đế, rượu Cần của Việt Nam... rượu khác nhau sẽ có nồng độ khác nhau và tùy thuộc vào nồng độ cồn có trong rượu, người ta phân thành ba loại: Rượu chưng cất, bia và rượu vang. Mặc dù rượu, bia đóng một trò thiết yếu trong tương tác xã hội nhưng nó cũng được biết đến với những tác động tiêu cực. Tuy nhiên, nếu sử dụng rượu, bia ở mức độ cho phép thì rượu, bia cũng mang lại nhiều lợi ích. a. Lợi ích của rượu, bia Trong hơn 2 thập niên qua, thế giới đã có hàng trăm khảo sát trên cả triệu người từ trung niên đến cao tuổi, cả nam và nữ giới, với thời gian từ 10 năm trở lên đều cho thấy rượu, bia khi uống vừa phải sẽ giúp giảm 20 - 40% nguy cơ tử vong do tim mạch so với người không uống rượu. Có nghĩa là, lượng rượu, bia nên uống trong khoảng 12 - 14g ethanol/ngày, quy theo ly chuẩn với 113,4ml rượu vang hoặc 341ml bia hoặc một ngụm rượu mạnh tương ứng với 43ml, nam giới không quá 2 ly chuẩn (đơn giản là không quá 2 lon bia, 2 ly rượu vang), nữ giới không quá 1 ly chuẩn mỗi ngày đối với người có cơ thể khỏe mạnh. Nếu uống rượu, bia trong giới hạn cho phép thì rượu, bia sẽ làm giảm các chất tham gia tạo cục máu đông gây tắc mạch ở tim, não… làm tăng nhịp tim, tăng sức co bóp cơ tim làm tăng lưu thông máu giúp hạn chế nhồi máu cơ tim, đột quỵ; kích thích tiêu hóa, ăn uống ngon miệng, tăng điều kiện bổ dưỡng; giúp tinh thần trở nên phấn chấn, tỉnh táo, còn có tác dụng làm dịu bớt căng thẳng, làm tinh thần thanh thản hơn, ngủ ngon. Trong rượu, bia lại có vitamin B2, B6, B9 giúp giảm homocystein và ngăn sự oxy hóa lipoprotein nên làm chậm tiến trình xơ vữa động mạch. b. Tác hại của rượu, bia Đầu tiên, chất cồn trong rượu, bia có tác dụng kích thích làm cho cơ thể hưng phấn dần dẫn đến kích động, bạo lực, sau đó sẽ ức chế não làm giảm nhịp thở, nhịp tim, giảm khả năng cử động chính xác, giảm tập trung chú ý, suy nghĩ kém nhanh nhạy, nhìn mọi vật đều mờ ảo… 17
  19. Phụ nữ mang thai uống rượu có thể gây những phản ứng bất lợi cho bào thai như: Nhiễm độc bào thai, chậm phát triển tâm thần và có vấn đề về hành vi, nặng dẫn đến thai nhi bị dị tật… Bên cạnh đó, mỗi năm còn gây ra hơn 16.000 ngươì bị tai nạn giao thông có liên quan đến rượu, bia. Về kinh tế lạm dụng rượu, bia tiêu tốn hơn 180 tỉ đô la mỗi năm. Không chỉ vậy, uống rượu nhiều quá mức còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe cho người uống như: Gan nhiễm mỡ, viêm gan do rượu, sau đó là xơ gan và tử vong; gây tăng huyết áp, tổn thương cơ tim, loét dạ dày tá tràng, liên quan đến nhiều bệnh ung thư miệng, họng, thực quản, ruột già và vú. Đặc biệt nguy hiểm đến tính mạng nếu sử dụng rượu, bia với thuốc. Bởi rượu có thể tương tác nguy hiểm vơi nhiều loại thuốc như paracetamol, thuốc giảm đau, an thần, chống co giật. Như vậy, việc sử dụng rượu bia là có lợi hay hại là do người dùng, chứ bản thân bia rượu là không hoàn toàn gây hại cho người sử dụng. Vì thế, để phòng chống những tác hại do rượu, bia gây ra thì người sử dụng nên hạn chế ở mức độ vừa phải, đồng thời nên bổ sung kẽm và vitamin nhóm B để tăng cường sức khỏe. 2.5.2. Một số ứng dụng khác của ancol 2.5.2.1. Dung dịch rửa tay sát khuẩn Nước rửa tay khô hiện nay đang ngày càng được ưa chuộng bởi sự tiện lợi, không cần rửa lại bằng nước, mà lại còn có tính sát khuẩn cao. Đặc biệt trong tình trạng Dịch SARS-CoV-2 đang diễn ra ngày càng phức tạp. Nước rửa tay khô là gì? Nước rửa tay khô hay dung dịch rửa tay khô là một dạng nước dùng để rửa tay sát khuẩn y tế dạng xịt hoặc dạng gel mà khi sử dụng không cần rửa lại bằng nước. Thành phần của nước rửa tay khô chủ yếu bao gồm ethanol – cồn , deionized water – nước tinh khiết, sodium lactate – chất hút ẩm, fragrance – hương liệu tạo mùi hay tinh dầu thơm và benzalkonium chloride – chất diệt khuẩn. Nước rửa tay khô được dùng trong các trường hợp như: trước và sau khi ăn, khi hoạt động ngoài trời, sau khi cầm tiền … Cách sử dụng khá đơn giản chỉ cần cho vào tay, thoa đều trong vòng 30 giây. Đặc biệt, bạn có thể dễ dàng mang nó đi khắp nơi vô cùng thuận tiện. Đồng thời, mùi hương của dung dịch sẽ không làm bạn khó chịu, chỉ thoáng một lát rồi biến mất. Tại sao cần sử dụng nước rửa tay khô Giữa mùa dịch bệnh, một trong những cách quan trọng và dễ làm giúp ngăn ngừa các virus xâm nhập vào cơ thể đó là rửa tay thường xuyên. Và bạn có 2 sự lựa chọn đó là rửa tay bằng xà phòng hoặc rửa tay bằng nước rửa khô. Trong đó, 18
  20. có lẽ cách 2 thuận tiện hơn rất nhiều và khả năng diệt vi khuẩn cũng hiệu quả không kém. Khi sử dụng, bạn không cần rửa lại tay lại với nước. Nước rửa tay khô vô cùng thích hợp trong các trường hợp bạn gấp rút hoặc thiếu điều kiện vệ sinh tay. Ethanol – là thành phần cơ bản trong nước rửa tay khô và cũng là thành phần chủ yếu của rượu, bia và các loại nước giải khát có cồn – có khả năng giết chết vi sinh vật bằng cách làm biến đổi tính chất của lớp vỏ bọc protein bảo vệ virus khiến chúng tê liệt và không phát triển nữa. Công dụng và lợi ích khi dùng rửa tay khô – Vô cùng tiện lợi: Khi sử dụng nước rửa tay khô, bạn không cần rửa lại với nước, chỉ cần xịt trực tiếp dung dịch vào tay và thoa đều. Lưu ý, cho đến khi tay bạn khô hoàn toàn, bạn không được chạm vào đồ ăn hay bất cứ thứ gì. – Bạn có thể sử dụng bất kỳ lúc nào nếu thấy cần thiết như trước và sau khi ăn, sau khi đi vệ sinh, cầm tiền, cầm nắm các vật dụng nhỏ, đi tàu xe, ra vào bệnh viện, … – Không chỉ có tác dụng diệt khuẩn, nước rửa tay khô còn giúp các bạn sát trùng vết thương, làm giảm những vết sưng đỏ, cảm giác ngứa ngáy, không thoải mái do bị côn trùng cắn. Bạn chỉ cần thấm một chút dung dịch lên vải sạch rồi lau nhẹ nhàng khu vực bị thương, tránh việc thoa trực tiếp làm trầy xước thêm hoặc chấm trực tiếp lên nốt mụn, vết đốt côn trùng. – Phù hợp với thị hiếu của nhiều người: Chai thường được đóng gói với dung tích 30ml, 50ml, 70ml… và được pha chế với nhiều mùi hương như táo, trà xanh, lavender, hoa nhài, chanh xả, cam quế, sen,… Rất nhiều người còn tận dụng mùi hương này để khử mùi cơ thể một cách nhanh chóng. – Với những bề mặt kính, thép không gỉ dễ để lại dấu vân tay, bạn chỉ cần thấm nước rửa tay khô lên vải mềm và lau nhẹ, các dấu này sẽ nhanh chóng biến mất. Nhất là với màn hình điện thoại cảm ứng, chỉ cần một chút nước rửa tay khô, bề mặt điện thoại đã sáng bóng, sạch sẽ, diệt sạch vi khuẩn. – Một công dụng tuyệt vời của nước rửa tay khô mà các chị em phụ nữ đặc biệt ưa thích đó là làm sạch cọ, dụng cụ trang điểm. Sau khi rửa các vật dụng này bằng nước rửa tay thông thường, bạn chỉ cần xịt một ít nước rửa tay khô rồi chờ chúng tự khô là có thể dùng tiếp được, vừa hiệu quả lại an toàn. – Nước rửa tay khô cũng giúp loại bỏ vết băng keo sau nhãn dán trên các đồ vật. 2.5.2.2. Son môi handmade Nguy cơ hỏng môi từ son kém chất lượng 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2