intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực văn học cho học sinh THPT qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu Người lái đò sông đà (Nguyễn Tuân)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:55

14
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm tìm ra biện pháp để nâng cao chất lượng học sinh; Hướng tới nền giáo dục toàn diện; Tìm ra giải pháp để hình thành năng lực Văn học trong giờ đọc văn cho học sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực văn học cho học sinh THPT qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu Người lái đò sông đà (Nguyễn Tuân)

  1. Phát triển năng lực văn học cho học sinh thpt qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) SỞ GD&ĐT NGHỆ AN TRƯỜNG THPT KIM LIÊN ************* SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: Phát triển năng lực văn học cho học sinh THPT qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) Lĩnh vực: Ngữ Văn Tác giả: Lê Thị Hồng Thắm Trường THPT Kim Liên – Nam Đàn SĐT: 0833.151.368 Nghệ An, 4/2023 1
  2. Phát triển năng lực văn học cho học sinh thpt qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) MỤC LỤC PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1 2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 2 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu .............................................................. 2 4. Giả thuyết khoa học ...................................................................................... 2 5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 3 6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 3 7. Những luận điểm cần bảo vệ của đề tài ....................................................... 3 8. Đóng góp mới của đề tài ............................................................................... 4 PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ........................................................ 5 Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài .................................................................. 5 Chương 2. Cơ sở thực tiễn của đề tài .............................................................. 18 Chương 3. Các giải pháp phát triển năng lực văn học và kỹ năng đọc, viết cho học sinh THPT qua giờ đọc văn ...................................................................... 29 3.1. Giải pháp phát triển năng lực văn học thông qua giờ đọc văn cho HS trường THPT Kim liên .......................................................................................... 29 3.1.1. Mục tiêu của giải pháp ........................................................................ 29 3.1.2. Cách thức tiến hành ............................................................................. 29 3.1.3. Những kết quả thu được trong giải pháp 1 ......................................... 32 3.2. Giải pháp rèn luyện kỹ năng đọc trong giờ đọc văn lớp 12 trường THPT Kim liên ...................................................................................................... 32 3.2.1. Mục tiêu của giải pháp ........................................................................ 32 3.2.2. Cách thức tiến hành ............................................................................. 33 3.2.3. Những kết quả thu được trong giải pháp 2 ......................................... 35 3.3. Giải pháp rèn luyện kỹ năng viết trong giờ đọc văn lớp 12 trường THPT Kim liên, chú trọng tích hợp rèn luyện kỹ năng viết khi làm bài thi TN THPT QG .............................................................................................................. 36 3.3.1. Mục tiêu của giải pháp ........................................................................ 36 3.3.2. Cách thức tiến hành ............................................................................. 36 3.3.3. Những kết quả thu được trong giải pháp 3 ......................................... 40 2
  3. Phát triển năng lực văn học cho học sinh thpt qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) 3.4. Áp dụng giải pháp vào tiết đọc văn lớp 12 “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) ........................................................................................................ 40 3.5. Mối quan hệ giữa các giải pháp .............................................................. 42 3.6. Khảo sát tính cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp được đề xuất ... 44 PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .............................................. 49 1. Kết luận ...................................................................................................... 49 2. Khuyến nghị ................................................................................................ 50 TÀI LIỆU THAM KHẢO 3
  4. Phát triển năng lực văn học cho học sinh thpt qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) CÁC TỪ VIẾT TẮT HS Học sinh GV Giáo viên HĐ Hoạt động NXB Nhà xuất bản TPVC Tác phẩm văn chương GD ĐT Giáo dục đào tạo GDPT Giáo dục phổ thông THPT Trung học phổ thông TT Thứ tự THCS Trung học cơ sở ĐVĐ Đặt vấn đề KHXH Khoa học xã hội NLVH Năng lực văn học CNH Công nghiệp hóa CT Chương trình TN-THPT QG Tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia NL Năng lực NLXH Nghị luận xã hội NLVH Nghị luận văn học CV Công Văn CNTT Công nghệ thông tin BDTX Bồi dưỡng thường xuyên NCBH Nghiên cứu bài học PPCT Phân phối chương trình 4
  5. Phát triển năng lực văn học cho học sinh thpt qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Theo định hướng của chương trình giáo dục THPT 2018, với quan điểm chỉ đạo định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết 29 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 8 khóa XI đã nêu rõ: “…Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn…”. Đồng thời nghị quyết cũng nêu rõ: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh”. 1.2. Với môn Ngữ văn năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học được xem là hai năng lực đặc thù, chương trình GDPT mới môn Ngữ Văn (ban hành kèm theo thông tư số 32/2018/TT- BDG&ĐT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ GD) xác định NLVH gắn với 4 kỹ năng đọc, viết, nghe, nói. 1.3. Năng lực văn học không phải tự nhiên mà có được, cũng như năng lực nói chung NLVH được hình thành và phát triển thông qua hoạt động và bằng các hoạt động “Qua hoạt động, bằng hoạt động, học sinh hình thành, PTNL, bộc lộ được tiềm năng của bản thân; tự tin, có niềm hạnh phúc bởi thành công và tiếp tục phát triển”. 1.4. Theo tinh thần dạy học mới, qua các bước thực hiện ở nhà cũng như trên lớp hướng nhiều vào hoạt động của học sinh: hoạt động nhóm ở nhà tạo sản phẩm học tập theo yêu cầu giáo viên, hoạt động thảo luận nhóm ở lớp trong quá trình hình thành kiến thức mới, củng cố, luyện tập, vận dụng... như vậy sẽ dễ dàng hơn trong việc hình thành NLVH cho học sinh. 1.5. Năng lực văn học và năng lực ngôn ngữ đều hướng tới 4 kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết nhưng mỗi năng lực có điểm khác nhau khi đánh giá học sinh từ cấp tiểu học đến THPT, vậy nên người dạy cũng như người học cần phải có những cơ sở rõ ràng để xác định khi rèn luyện mỗi kỹ năng và hướng tới hình thành năng lực chuyên biệt cho môn Ngữ Văn. 1.6. Từ thực tế giảng dạy tại trường THPT Kim liên là một trường vùng quê, tâm lý và kỹ năng giao tiếp còn rụt rè, thiếu tự tin, kỹ năng viết còn hạn chế nên mục đích “dài hơi” của đề tài là rèn luyện các kỹ năng đó qua giờ đọc văn sẽ 5
  6. Phát triển năng lực văn học cho học sinh thpt qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) nâng cao kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ trong cuộc sống cho HS trường THPT Kim liên. 1.7. Thực tế trên địa bàn xã Kim Liên nơi có khu di tích quốc gia đặc biệt nên việc giáo dục HS những kỹ năng giao tiếp là cấp thiết, khẩu hiệu của xã Kim Liên “mỗi người dân là một hướng dẫn viên du lịch”, HS trường THPT Kim Liên sẽ là lực lượng tiên phong đi đầu, HS đã tham gia nhiều các hoạt động ở khu di tích Kim Liên như “lễ hội làng sen” hàng năm, hướng dẫn viên tình nguyện hè ở khu di tích, vệ sinh khu vực xã giao “đoạn đường em chăm”...nên kỹ năng giao tiếp vô cùng quan trọng , giao tiếp tốt là ấn tượng đẹp trong lòng du khách, quảng bá được hình ảnh quê hương, làm các em thêm tình yêu, niềm tự hào với quê hương. Đề tài muốn góp một chút nhỏ là nâng cao năng lực giao tiếp (nghe, nói, đọc , viết) trong từng tiết đọc văn hợp xu thế chung của xã nhà. 1.8. Từ thực tế giảng dạy của bản thân, nhận thấy khâu rèn luyện kỹ năng và phát triển năng lực văn học vẫn còn nhiều trên lý thuyết, đưa vào thực tiễn chưa hiệu quả, sản phẩm học tập của HS chưa chất lượng, nếu không bắt tay vào những giải pháp cụ thể thì đổi mới vẫn chỉ là đổi mới trên lý thuyết. Từ những lý do trên nên tôi chọn đề tài nghiên cứu: Phát triển năng lực văn học cho học sinh THPT qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân). 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU - Tìm ra biện pháp để nâng cao chất lượng học sinh. - Hướng tới nền giáo dục toàn diện. - Tìm ra giải pháp để hình thành năng lực Văn học trong giờ đọc văn cho học sinh. 3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 3.1. Khách thể nghiên cứu - Học sinh THPT trong toàn tỉnh. - Học sinh trường THPT Kim Liên. - Giáo viên giảng dạy môn Ngữ Văn THPT. 3.2. Đối tượng nghiên cứu - Hoạt động dạy học phát triển năng lực VH cho HS. - Chương trình GDPT mới 2018, môn Ngữ Văn. - Sách giáo khoa ngữ văn 10, 11, 12. 4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC Giải pháp phát triển năng lực văn học thông qua giờ đọc văn cho HS trường THPT Kim liên. Giải pháp rèn luyện kỹ năng đọc trong giờ đọc văn lớp 12 trường THPT Kim liên. 6
  7. Phát triển năng lực văn học cho học sinh thpt qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) Giải pháp rèn luyện kỹ năng viết trong giờ đọc văn lớp 12 trường THPT Kim liên, chú trọng tích hợp rèn luyện kỹ năng viết khi làm bài thi TN THPT QG. Nếu những giải pháp có cơ sở khoa học, có tính khả thi này được đề xuất và thực hiện đồng bộ thì sẽ nâng cao hiệu quả dạy học phát triển năng lực văn học cho HS THPT hiện nay. 5. NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu về lý luận: Vận dụng các tài liệu tham khảo nghiên cứu về mặt lý thuyết, lý giải được những thuật ngữ khoa học trong phạm trù chuyên ngành như: Năng lực, Năng lực Văn học, Kĩ năng nói, viết... để lấy làm căn cứ định hướng nghiên cứu thực tiễn vấn đề. - Khảo sát, đánh giá thực trạng: khảo sát được thực trạng của vấn đề nghiên cứu nắm bắt được những thuận lợi và khó khăn từ thực tiễn giảng dạy và học tập của GV và HS để rút ra những đánh giá chính xác, khách quan, khoa học nhất. - Đề xuất giải pháp: Từ thực tế vừa nghiên cứu đánh giá, GV đưa ra những giải pháp thiết thực có tính thực tế, tính cấp thiết, tính khả thi, và khả năng ứng dụng rộng rãi như vậy sẽ thu lại được hiệu quả cao nhất. 5.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: + Chương trình GDPT mới 2018, môn Ngữ Văn. + Chương trình GDPT năm 2006, môn Ngữ Văn. + Chương trình SGK Ngữ Văn 12. + Chương trình SGK Ngữ Văn 10. - Về thời gian: Năm học 2021 - 2022; Năm học 2022 - 2023. 6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Nghiên cứu lý thuyết: Đọc và nghiên cứu, phân tích, tổng hợp tài liệu. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. - Khảo sát ý kiến giáo viên về vấn đề dạy học. - Khảo sát ý kiến HS về sự hứng thú của đề tài. 7. NHỮNG LUẬN ĐIỂM CẦN BẢO VỆ CỦA ĐỀ TÀI 7.1. Về lý luận - Năng lực và phát triển năng lực cho HS THPT. - Năng lực văn học. - Kỹ năng nói, viết của HS THPT. 7.2. Về thực tiễn - Thực trạng dạy học theo phát triển năng lực. 7
  8. Phát triển năng lực văn học cho học sinh thpt qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) + Những khó khăn chung và khó khăn tại trường THPT Kim Liên. + Những thuận lợi chung và thuận lợi riêng ở trường THPT Kim Liên. 7.3. Những giải pháp thực hiện - Giải pháp phát triển năng lực văn học thông qua giờ đọc văn cho HS trường THPT Kim Liên. - Giải pháp rèn luyện kỹ năng đọc trong giờ đọc văn lớp 12 trường THPT Kim Liên. - Giải pháp rèn luyện kỹ năng viết trong giờ đọc văn lớp 12 trường THPT Kim Liên, chú trọng tích hợp rèn luyện kỹ năng viết khi làm bài thi TN THPT QG. 7.4. Về kết quả thực hiện của giải pháp Quy trình khảo sát lấy ý kiến và xử lý số liệu được thực hiện tại một số trường THPT trên toàn tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa. 8. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI 8.1. Trong mỗi tiết học được ứng dụng những giải pháp cụ thể để hướng đến một mục đích nâng cao năng lực Văn học cho học sinh qua rèn luyện kỹ năng đọc, viết đồng thời giúp rèn luyện phẩm chất cho HS. 8.2. Cung cấp các bước thực hiện trong một tiết đọc hiểu Ngữ Văn 12 để rèn luyện năng lực văn học và hình thành kĩ năng đọc,viết cho học sinh. Từ đó, giáo viên làm quen với chương trình Ngữ Văn 10 có hướng tiếp cận phù hợp và hiệu quả nhất với xu thế dạy học hiện nay. 8.3. Góp phần tích cực trong kiểm tra đánh giá các kỹ năng của học sinh khách quan nhất để có phương án hỗ trợ những học sinh yếu kém một kỹ năng nào đó trong bốn kỹ năng chuyên biệt của Ngữ văn, mặt khác phát hiện được những học sinh có tố chất, có năng khiếu vượt trội để định hướng hướng nghiệp. 8.4. Đọc, viết là một trong những kỹ năng quan trọng xuất hiện chủ yếu trong các kì thi của học sinh THPT, trong giao tiếp bằng ngôn ngữ hàng ngày. Mặt khác trong chương trình GDPT mới thì kỹ năng đọc, viết, nói được phân bố trong mỗi bài dạy và tiết dạy theo phân phối chương trình chung áp dụng ở trường THPT. 8.5. Văn bản “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân trong tâm lý tiếp nhận học sinh đều cho là khó đọc hiểu, khó làm đề... nên đề tài chọn văn bản này để rút ngắn khoảng cách của tác phẩm với học sinh, thay đổi những suy nghĩ “cố hữu” trong lớp lớp thế hệ học sinh, đồng thời tìm ra định hướng mới cho tiết đọc văn thể loại kí trong hành trình dạy học văn phát triển năng lực. 8.6. Đề tài có tính ứng dụng rộng rãi cho những tiết đọc văn nói chung của các cấp học. Bắt kịp xu hướng đổi mới của công cuộc thay sách toàn cấp học và giáo dục THPT mới 2018 trong nhà trường hiện nay. 8
  9. Phát triển năng lực văn học cho học sinh thpt qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Khái niệm năng lực - Phạm trù năng lực thường được hiểu theo nhiều cách khác nhau và mỗi cách hiểu có những thuật ngữ tương ứng: “Năng lực là khả năng thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả các hành động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề trong các tình huống thay đổi thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá nhân trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và kinh nghiệm cũng như sẵn sàng hành động”. - Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể: “Năng lực là khả năng thực hiện thành công hoạt động trong một bối cảnh nhất định nhờ sự huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... Năng lực của cá nhân được đánh giá qua phương thức và kết quả hoạt động của cá nhân đó khi giải quyết các vấn đề của cuộc sống”. Năng lực hiểu theo nghĩa chung nhất là khả năng mà cá nhân thể hiện khi tham gia một hoạt động nào đó ở một thời điểm nhất định. Năng lực là khả năng thực hiện hiệu quả một nhiệm vụ, một hành động cụ thể, liên quan đến một lĩnh vực nhất định dựa trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và sự sẵn sàng hành động. - Năng lực của học sinh (HS) là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái độ... phù hợp với lứa tuổi và vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lí vào thực hiện thành công nhiệm vụ học tập, giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra cho chính các em trong cuộc sống. 1.2. Chương trình giáo dục định hướng năng lực Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực (định hướng phát triển năng lực) nay còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra được bàn đến nhiều từ những năm 90 của thế kỷ 20 và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Giáo dục định hướng phát triển năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học. Giáo dục định hướng năng nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức. Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là “sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lý chất lượng dạy học chuyển từ việc điều khiển “đầu vào” sang điều khiển “đầu ra”, tức là kết quả học tập của HS. Chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực không quy định những nội dung dạy học chi tiết mà quy định những kết quả đầu ra mong muốn của quá trình giáo dục, trên cơ sở đó đưa ra những hướng 9
  10. Phát triển năng lực văn học cho học sinh thpt qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) dẫn chung về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy học nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu dạy học tức là đạt được kết quả đầu ra mong muốn. Trong chương trình định hướng phát triển năng lực, mục tiêu học tập, tức là kết quả học tập mong muốn thường được mô tả thông qua hệ thống các năng lực (Competency). Kết quả học tập mong muốn được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được. HS cần đạt được những kết quả yêu cầu đã quy định trong chương trình. Việc đưa ra các chuẩn đào tạo cũng là nhằm đảm bảo quản lý chất lượng giáo dục theo định hướng kết quả đầu ra. Ưu điểm của chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực là tạo điều kiện quản lý chất lượng theo kết quả đầu ra đã quy định, nhấn mạnh năng lực vận dụng của HS. Tuy nhiên nếu vận dụng một cách thiên lệch, không chú ý đầy đủ đến nội dung dạy học thì có thể dẫn đến các lỗ hổng tri thức cơ bản và tính hệ thống của tri thức. Ngoài ra chất lượng giáo dục không chỉ thể hiện ở kết quả đầu ra mà còn phụ thuộc quá trình thực hiện. Định hướng đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay. Trong Nghị quyết hội nghị lần thứ 8 BCH TW Đảng khóa XI đã nhấn mạnh: “Đổi mới căn bản, toàn diện GD và ĐT đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế” và dạy học phải chú trọng “phát triển phẩm chất năng lực người học, đảm bảo hài hòa giữa dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp”. Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể của bộ GD & ĐT lại đặt ra mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông mới là giúp HS hình thành phẩm chất và năng lực người học, theo đó có 3 phẩm chất cần hình thành và phát triển cho HS THPT là sống yêu thương, sống tự chủ, sống có trách nhiệm và có 8 năng lực cần hình thành và phát triển cho HS là năng lực GQVĐ và sáng tạo, năng lực tự học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất, giao tiếp, năng lực hợp tác, tính toán, sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Trong dạy học môn Ngữ văn ở bậc THPT thì năng lực GQVĐ và sáng tạo là một trong 8 năng lực quan trọng nhất cần được hình thành và phát triển cho HS. 1.3. Khái niệm về năng lực Văn học Chương trình Giáo dục Phổ thông tổng thể 2018 xác định rõ “Những năng lực đặc thù được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ (NLNN), năng lực tính toán, năng lực khoa học, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất” Môn Ngữ văn, NLNN và NLVH được xem là hai năng lực đặc thù. “Năng lực văn học là khả năng hiểu một văn bản của người đọc trên cơ sở biết rõ về sự diễn giải hợp lý hệ thống tín hiệu, hoặc “mã” của văn học” [Nguyễn Quang Cương, 2011]. 10
  11. Phát triển năng lực văn học cho học sinh thpt qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) Chương trình Giáo dục Ngữ văn 2018 xác định NLVH gắn với 4 kỹ năng đọc, viết, nghe và nói với những biểu hiện cụ thể như sau: + Phân tích và đánh giá văn bản văn học dựa trên những hiểu biết về phong cách nghệ thuật và lịch sử văn học. Nhận biết được đặc trưng của hình tượng văn học và một số điểm khác biệt giữa hình tượng văn học với các loại hình tượng nghệ thuật khác (hội hoạ, âm nhạc, kiến trúc, điêu khắc); phân tích và đánh giá được nội dung tư tưởng và cách thể hiện nội dung tư tưởng trong một văn bản văn học; nhận biết và phân tích được đặc điểm của ngôn ngữ văn học, câu chuyện, cốt truyện và cách kể chuyện; nhận biết và phân tích được một số đặc điểm phong cách nghệ thuật trong văn học dân gian, trung đại và hiện đại; phong cách nghệ thuật của một số tác giả, tác phẩm lớn. + Nêu được những nét tổng quát về lịch sử văn học dân tộc (quá trình phát triển, các đề tài và chủ đề lớn, các tác giả, tác phẩm lớn; một số giá trị nội dung và hình thức của văn học dân tộc) và vận dụng vào việc đọc tác phẩm văn học. + Tạo lập được một số kiểu văn bản văn học thể hiện khả năng biểu đạt cảm xúc và ý tưởng bằng hình thức ngôn từ mang tính thẩm mĩ [Chương trình giáo dục phổ thông – Chương trình tổng thể 2018]. Astri cho rằng: “NL văn học không thể tự nhiên mà có được” [2011]. Cũng như năng lực nói chung, NLVH được hình thành và phát triển thông qua hoạt động và bằng hoạt động: “Qua hoạt động, bằng hoạt động, HS hình thành, PTNL, bộc lộ được tiềm năng của bản thân; tự tin, có niềm hạnh phúc bởi thành công và tiếp tục phát triển” [Hoàng Hòa Bình, 2015]. Hoạt động học tập là sự cụ thể hóa mục tiêu cần đạt: bồi dưỡng phẩm chất và PTNLHS. Giáo viên (GV) vì thế cần phải tổ chức hoạt động học tập nói chung và HĐTN nói riêng mà cụ thể là hình thức học tập dự án một cách linh động và sáng tạo nhằm hướng đến hình thành NLVH cho HS. 1.4. Khái niệm và cách nhận biết các kĩ năng đọc, viết trong giờ đọc văn 1.4.1. Kỹ năng đọc - Đọc là hoạt động phân tích và tổng hợp phức tạp, qua đó nội dung ý thức về nghĩa được nắm vững trong từ và câu. Qua sự cảm nhận hình ảnh, từ ngữ,qua sự tổ chức kí hiệu ngôn ngữ,ý nghĩa văn bản lại được bổ sung làm sáng tỏ mối quan hệ phong phú của những gì chứa trong bài học. Đọc là năng lực tái tạo âm thanh, năng lực nhận thức những đơn vị cú pháp và âm điệu, giọng điệu chính xác của chúng. Sự phát triển năng lực đọc có sự đóng góp của các môn học chung trong nhà trường, nhưng đọc văn vẫn chiếm vị trí quan trọng nhất. Trong đó có mức độ hiểu cặn kẽ về ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật được thường xuyên củng cố trong việc nắm vững nội dung thi pháp, các ẩn dụ và biểu tượng nghệ thuật,cũng như sự khái quát hóa nghệ thuật và sự đánh giá thẩm mỹ chứa 11
  12. Phát triển năng lực văn học cho học sinh thpt qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) đựng trong tác phẩm. Có thể lý giải khái niệm đọc là hành động nắm vững ý nghĩa và tiếp thu nội dung ý nghĩa. Nắm vững nội dung ý nghĩa là sự xâm nhập và chiếm hữu nghĩa từ ngữ bằng hành động đọc tuần tự kết hợp với sự hình dung tưởng tượng về ý nghĩa mới trong dòng từ ngữ được đọc lên. Đó là nguyên tắc đồng hình khi đọc văn bản. Người ta thường nghĩ đọc là hành động song sinh ý nghĩa hay là sự đối thoại giữa tiếp thu và phản hồi, giữa những gì đã có,hiện có và sẽ có do sự kiến tạo của người đọc thành bức tranh nội tâm phong phú và toàn vẹn ý nghĩa của tác phẩm. - Tất cả các hình thức đọc cho phép nói rằng đọc là một hành động phản ứng tinh thần trong khi tiếp cận văn bản. Mức độ phản ánh tinh thần này được xác định bởi nhân cách của người đọc như kiến thức, năng lực tư duy sự trải nghiệm và ý đồ đọc. Riêng đọc văn chương còn đòi hỏi người đọc phải có năng lực sống cùng tác phẩm, năng lực đồng cảm, chia sẻ, tình cảm khoan dung và hiểu được thế giới nghệ thuật cùng thị hiếu văn học đúng đắn. Trong giáo dục đào tạo môn Ngữ văn cần chú ý hành động đọc trải nghiệm, tạo tiền đề cho việc trao đổi, thảo luận, đối thoại trong tiếp nhận TPVC để đào sâu cách nhìn thế giới hiện thực. Bên cạnh sự hiểu biết khái niệm đọc hiểu với bản chất của nó, đào tạo việc đọc hiểu qua năng lực đọc và kĩ năng đọc hiểu trong nhà trường là: + Giúp HS đánh giá năng lực đọc của mình và tác động của nó tới kết quả học tập môn Ngữ Văn. + Giúp HS phân biệt được các đơn vị ý nghĩa trong khi đọc một văn bản hoặc một TPVC. + Giúp HS ý thức việc đọc là sự vun trồng khả năng nếm trải, thể nghiệm cũng như là phương tiện rèn dũa năng lực lao động tinh thần. + Giúp HS sử dụng việc đọc như là cách tái hiện đời sống tâm hồn , cách ứng xử văn hóa trong giao tiếp xã hội. + Giúp HS thường xuyên nâng cao trình độ đọc có hệ thống,bài bản. +Giúp HS phát hiện và vận dụng kiến thức phong cách văn bản và thể loại văn học để đọc các văn bản khác nhau. + Giúp HS tìm kiếm những hành động đọc, kĩ năng đọc đối với mỗi loại văn bản phù hợp. + Giúp HS phát triển động cơ đọc, thói quen đọc, kĩ năng đọc để định hướng cuộc sống và phù hợp với phương pháp học tập. + Giúp HS ý thức rõ nhu cầu phát triển ngôn ngữ và năng lực giao tiếp trong đọc. + Giúp HS có quan điểm học đọc sẽ không bao giờ kết thúc. Tóm lại nói về khả năng đọc ta nghĩ ngay đến rèn luyện tổng thể của năng lực đọc, kỹ năng đọc, kĩ thuật đọc một cách có kế hoạch chu đáo. Điều đó chắc chắn đảm bảo cho HS nắm vững ý nghĩa cơ bản của tác phẩm và văn bản đọc. Nếu là đọc TPVC thì điều cốt yếu trong kĩ năng đọc hiểu là phải biết đi sâu vào 12
  13. Phát triển năng lực văn học cho học sinh thpt qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) nội dung thẩm mỹ và hình thức nghệ thuật. Điều đó phụ thuộc vào năng lực đọc toàn diện, vững chắc, năng lực lĩnh hội thẩm mỹ, năng lực tưởng tượng, năng lực đánh giá, thưởng thức nghệ thuật, năng lực đồng hóa nhập thân vào TP gắn bó với kinh nghiệm sống, năng lực tiếp tục đề xuất những vấn đề của tác phẩm để cùng suy nghĩ. Dù các nhà nghiên cứu cho rằng “đọc là hành động phức tạp” “đọc là lao động và sáng tạo” hay đọc là một kỹ năng học tập cũng như đọc là kỹ năng tích hợp cũng không làm cho nghiên cứu việc đọc mất phương hướng vô giá trị. Giá trị của nó là chỗ có nhiều góc độ khoa học để tìm hiểu và lý giải việc đọc và mục đích nâng cao nhận thức của con người. Nói đọc hiểu là kỹ năng học tập của các môn, là kỹ năng học tập của môn Tiếng việt là không hề sai vì chương trình Ngữ văn đã xác định bốn kĩ năng cơ bản của người HS cần có là nghe, nói, đọc, viết. Tuy nhiên đọc văn chỉ là một thuật ngữ kỹ năng sẽ không đủ bao quát mà còn có lối đọc, kiểu đọc, phương pháp đọc, năng lực đọc, kĩ thuật đọc nữa. Thuật ngữ kỹ năng dù định nghĩa thế nào vẫn có hàm ý là sự thành thạo mang tính cá nhân, thể hiện cái của chính mình để làm cái gì đó là của mình vì thế mà có nhà Nghiên cứu đã khẳng định “Nghệ thuật đọc cũng tương tự là kỹ năng tiếp nhận các loại thông tin càng hiệu quả càng tốt” và chỗ khác ông lại nói “nghệ thuật đọc bao gồm tất cả các kỹ năng của nghệ thuật khám phá độc lập, sự sắc sảo trong quan sát, trí nhớ luôn hiện hữu, trí tưởng tượng phong phú và một trí tuệ được rèn luyện để phân tích và phản ánh”. Đề đi sâu vào kỹ năng đọc hiểu TPVC có nhiều yếu tố gắn liền với tính cá thể và cái tôi của người đọc. Năng lực đọc hiểu tác phẩm văn chương là hệ quả của quá trình học tập lâu dài khi mà những kỹ năng đọc hiểu được xác định để có thu nhận vào nó những dạng đọc, kiểu đọc, lối đọc, hình thức đọc, cách đọc... mà ta gọi chung là hành động đọc. 1.4.2. Nhận biết các kỹ năng đọc trong giờ đọc văn - Kỹ năng đọc chính xác trong đọc hiểu tác phẩm văn chương. Đọc chính xác là hành động đọc quan trọng của lao động trí tuệ. Trong đọc văn đó là kỹ năng đọc hiểu cơ bản đầu tiên, yêu cầu về trí tuệ thuộc về nhận thức đúng sai. Rèn luyện kỹ năng đọc chính xác văn bản nghệ thuật ngôn từ sẽ khích lệ niềm tin vào bản thân học sinh và sự tin tưởng vào giá trị chân thiện mỹ của TPVC. Muốn có kỹ năng đọc chính xác trong đọc hiểu TPVC trước hết HS cần nắm vững giá trị cần hiểu về ngôn từ trong mối quan hệ văn cảnh, trong sự lựa chọn và kết hợp, trong việc nhóm hợp chúng thành hệ thống và phân bố theo một trật tự nào đó trong tác phẩm. Mặt khác kỹ năng đọc chính xác đòi hỏi phải tinh mắt không bỏ sót từ nào, thậm chí từng dấu câu hay từng dấu phân cách dòng, đoạn, khổ của văn bản. Qua đó người đọc nắm được ý nghĩa của câu, của từ khóa, của đoạn tìm thấy mạch ý của văn bản tác phẩm. Để củng cố kỹ năng đọc chính xác cần phải đưa ra các câu hỏi khảo sát tại sao nhà văn lại dùng từ ấy, lại vận dụng kiểu câu dài 13
  14. Phát triển năng lực văn học cho học sinh thpt qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) ngắn khác nhau với cách ngắt nhịp ấy nhằm mục đích gì. Làm rõ được điều này người đọc đã tiến thêm một bước để hiểu phần chìm phần hàm ngôn của tác phẩm tức là hiểu được chủ ý của nhà văn. Mục đích của kỹ năng đọc chính xác trong đọc hiểu là cố gắng hiểu được nhiều những gì cần hiểu để thu nhận tối đa ý nghĩa của TPVC. Cái khó của việc rèn luyện kỹ năng đọc chính xác là phải nâng tốc độ đọc, phải làm chủ thời gian đọc. Để làm quen với kỹ năng đọc chính xác trong đọc hiểu TPVC, người đọc phải làm quen với hành động đọc trên dòng, đọc ngoài dòng phối hợp chúng lại với nhau để cảm nhận được “ý tại ngôn ngoại”. Phải chăng cũng nên vận dụng hành động đọc lướt để nắm được ý tưởng chủ đạo của tác phẩm. Bên cạnh đó HS biết đọc nhanh để thâu tóm nội dung hình thức thể loại một cách tập trung. Như vậy, với kỹ năng đọc chính xác trong đọc hiểu TPVC, người đọc phải cố gắng tích cực học đọc toàn cảnh, đọc hết, đọc chéo, đọc lướt, đọc đúng, đọc thông, đọc tốc độ, đọc kiểm soát, đọc cơ bản nhưng cũng không nên xiết chặt quá các yêu cầu cao làm căng thẳng người đọc mà phải biết thả lỏng tinh thần và cơ thể để có niềm vui khi vào TPVC như đi vào một thế giới bay bổng của tâm hồn. - Kỹ năng đọc phân tích trong đọc hiểu tác phẩm văn chương. Kỹ năng đọc phân tích trong TPVC có một vị trí quan trọng và ý nghĩa to lớn trong việc quyết định hiệu quả đọc hiểu. Muốn rèn luyện kĩ năng đọc phân tích trong đọc hiểu TPVC, người đọc cần quan tâm đến nét mới lạ của những cơ cấu liên tưởng qua hình ảnh cụ thể và qua biểu tượng , tưởng tượng cụ thể để truyền đạt ý tưởng. Ví dụ , nói phong lan nở là sự diễn đạt quen thuộc nhưng nói “bầu nở” lại sự diễn đạt khá lạ tai nhưng vẫn có nghĩa vì nó ẩn đi một từ “hoa” có thể kết hợp với từ bầu(hoa bầu) và còn kết hợp với từ nở (hoa nở). Do đó “bầu nở” là biểu tượng mới có nghĩa được chấp nhận trong ngôn từ nghệ thuật. Kỹ năng đọc phân tích tạo ra năng lực đọc tốt nhất và hoàn chỉnh nhất. Tất nhiên thực hiện kỹ năng đọc phân tích cần nhiều thời gian, do đó kỹ năng đọc phân tích chủ yếu nên luyện tập ở nhà và củng cố trong suốt quá trình đọc hiểu TPVC. Hành động đọc để hình thành kỹ năng đọc phân tích là đọc kỹ. Đọc kỹ là đọc nhiều lần trong những thời điểm khác nhau với những mục đích và tâm thế khác nhau. Dù người đọc có đọc kĩ từng câu, từng đoạn mà chưa ý thức được về điều đang đọc và vô cảm thì cũng chưa xem là đọc kỹ được. Đọc kỹ bao gồm đọc đi đọc lại khi cảm nhận một yếu tố nội dung, hình thức nào đó chưa rõ để sau đó có cơ sở xác định trọng tâm phân tích tìm ra ý nghĩa nhiều mặt của nó. Thực hành kỹ năng đọc phân tích phải có cái nhìn xuyên suốt từ việc xác định loại thể - tên tác phẩm - chủ đề - kết cấu - các phương tiện hình thức xây dựng hình tượng nghệ thuật như lớp từ then chốt, biện pháp tu từ... để phân tích chỉnh thể nghệ thuật và khái quát ý nghĩa thành tư tưởng chủ đề. Mỗi TPVC là một chỉnh thể nghệ thuật phức tạp được tạo thành bởi các yếu tố khác nhau được 14
  15. Phát triển năng lực văn học cho học sinh thpt qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) tổ chức ở những dạng thức khác nhau. Trong chỉnh thể phức tạp ấy có một nhân tố chủ đạo khống chế cách xây dựng toàn bộ tác phẩm với ý nghĩa và vai trò từng bộ phận trong chỉnh thể đó. Khi thực hành đọc phân tích, để hiểu thấu suốt những gì đọc được, độc giả không tránh được những ý kiến của mình về những vấn đề mà họ quan tâm chờ đợi. Tuy nhiên mọi ý kiến còn hoài nghi, còn phân vân, cấn cá của độc giả cũng cần tách bạch cho rõ, đâu là kiến thức thực sự của tác phẩm và về tác phẩm, đâu là những nhận định quan điểm nhà văn. Mục đích đọc hiểu TPVC là để học hỏi nhằm nâng cao tầm hiểu biết kiến thức văn và thỏa mãn tâm tình. Do đó người đọc không nên xét nhân cách tác giả, không đào bới lý lịch cá nhân để thỏa mãn hiếu kì mà là để bình giải tác phẩm về các phương diện thuộc về tác phẩm. Không chú ý điều này thì dù có đọc phân tích khéo đến mấy độc giả vẫn lơ mơ, chẳng tán thành mà cũng không phản ứng với những gì đã đọc. Người đọc có trình độ không dừng lại ở việc hiểu nội dung tác phẩm mà còn có sự trao đổi, tranh luận, đối thoại với tác phẩm để cuối cùng cái giá trị đích thực của tác phẩm phải chiếm được sự đồng tình khá cao của người đọc. TPVC như một bàn cờ thế. Thế giới nghệ thuật của tác phẩm như là quân cờ được tổ chức thành những khả năng. Người đọc phải chú ý vào chúng là chính mới có cái để đối thoại, để đồng Sáng tạo chứ không phải là cuộc cãi vã với nhà văn. Thực hành đọc phân tích, chúng ta không vội tin ngay vào những người cho là đọc giỏi hơn mình như thầy cô giáo, nhà nghiên cứu phê bình văn học vì họ không phải lúc nào cũng đưa ra được những nhận định đúng đắn. Hơn nữa nếu có đúng đi nữa thì đâu phải đã thấu đáo lẽ đời và đạo người. Nói thế cũng có nghĩa là hãy gây dựng niềm tin có cơ sở trong việc tranh luận, đối thoại của HS trong đọc phân tích tác phẩm. Đứng dưới cây cao bóng cả nhưng chúng ta cũng có thể thấy tia sáng bất ngờ, như sự phát hiện chiêm nghiệm riêng. Đó là sự đóng góp của hành động đọc ngoài tác phẩm. Rèn luyện kĩ năng đọc phân tích trong đọc hiểu TPVC cần sử dụng hành động đọc nhiều lần, đọc toàn bộ tác phẩm. Ngoài những hành động đọc đó, muốn thành thạo kĩ năng đọc phân tích, bạn đọc HS phải am hiểu hành động đọc tích cực, đọc hiệu quả. Đọc hiệu quả yêu cầu độc giả phải nỗ lực lâu dài và tích cực huy động mọi năng lực bản thân trong quá trình đọc. Hoàn thành kỹ năng đọc phân tích, người đọc sẽ hiểu cặn kẽ thấu đáo giá trị đích thực về nội dung tư tưởng nhân sinh và hình thức sáng tạo độc đáo của tác phẩm. Nói cách khác, người đọc đã thu nhận được những vẻ đẹp khác nhau về đời sống và văn chương để làm người. Những kiến thức đó sẽ tác động tới tư tưởng, tình cảm và lẽ sông của người đọc. Sự tác động trở lại ấy diễn ra trong khi đọc và có ảnh hưởng lâu dài trong cả cuộc đời còn lại như một nỗi ám ảnh, một lời khuyên một sự an ủi và như một sự thách thức thầm lặng của bản thân. Nó thực sự đem lại hiệu quả tuy mơ hồ nhưng thiết thực nên gọi là đọc hiệu quả cũng hợp lý. Sự tác động ấy chủ yếu từ cái mới của hình thức sáng tạo nghệ thuật biểu hiện cụ thể trong tác phẩm và đồng thời là sự phát triển và bổ 15
  16. Phát triển năng lực văn học cho học sinh thpt qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) sung cái mới ấy ở người đọc nên cần tiếp tục suy nghĩ về kỹ năng đọc sáng tạo trong tác phẩm văn chương. - Kỹ năng đọc sáng tạo trong đọc hiểu tác phẩm văn chương. Gert là người đầu tiên nêu lên khái niệm đọc sáng tạo trong công trình lý luận dạy học của ông. Sáng tạo trong đọc TPVC không có nghĩa là thoát ly hoàn toàn sự ràng buộc của tác phẩm. Ông cho rằng đọc sáng tạo là sự nhận thức những mối quan hệ, những trật tự của thể giới tinh thần được tổ chức thành những hình ảnh của cấu trúc mới trong tác phẩm. Người GV nếu chỉ chú ý mở rộng vốn từ cơ bản và đọc đúng thể loại văn học cho HS trong đọc văn thì cũng chưa được xem là dạy đọc thật sự. Việc dạy đọc được thực hiện bởi sự dẫn dắt HS biết đọc một văn bản nghệ thuật từ nội dung bên trong để nhận ra và nắm vững mạch ý tưởng được thể hiện trong nội dung này đến nội dung khác để hoàn thiện ý nghĩa riêng của văn bản. Từ đó có thể khẳng định, cần phải thỏa mãn tối thiểu hai yêu cầu đối với đọc sáng tạo: Một là người đọc phải nắm vững tổ chức toàn cảnh hoặc là thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Đồng thời người độc phải hiểu được mạng lưới ngôn từ độc đáo và khám phá được cấu trúc chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Hai là, trên cơ sở kinh nghiệm và xúc cảm riêng tư, người đọc trình bày sự phát hiện lại hoặc sự khám phá mới của mình về tác phẩm. Cũng cần lưu ý đọc sáng tạo trong nhà trường có những mức độ nhất định. Đọc sáng tạo bao gồm đọc sáng tạo theo mẫu, cải biến cảm xúc trong đọc diễn cảm, và cao hơn là đọc trải nghiệm để bổ sung tình ý vào tác phẩm. Văn học nghệ thuật chứa đựng những khả năng đồng hành cùng HS. Nó tạo ra sự gặp gỡ đồng cảm giữa HS với tác phẩm. Nó đòi hỏi thái độ thẩm mỹ cùng chiều và ngược chiều của HS với nhân vật, tình huống, bức tranh đời sống được khắc họa trong tác phẩm. Muốn thực hiện kỹ năng đọc sáng tạo cần phải dựa vào điều kiện dạy học cụ thể và cần có được không khí sẵn sàng làm việc, hợp tác chứ không phải là phòng học “chân không” mà phải là không gian tạo hứng thú cuộc chơi và thân thiện trong lớp học. Trước khi thực hiện kỹ năng đọc sáng tạo phải tạo được tinh thần cởi mở trong đối thoại dân chủ. Kỹ năng đọc sáng tạo phải dựa vào kĩ năng đọc chính xác gắn liền với mối quan hệ xác thực và cơ bản của các phương án và cách hiểu về nội dung ý nghĩa của tác phẩm có thể chấp nhận được. Nói cách khác kỹ năng đọc sáng tạo trong tác phẩm văn chương góp phần giải phóng về mặt tâm lý, từ đó người đọc có thể tạo những tiền đề bổ sung thêm những gì còn bỏ ngõ trong quá trình đọc sáng tạo. “ Đọc sáng tạo là khả năng liên hệ những gì đang đọc với những gì đã được đọc, lấy đó làm cơ sở để mở rộng biên độ của sự hiểu biết thậm chí với văn bản nghệ thuật, đọc sáng tạo có thể xác định nghĩa mới cho hình tượng. Mức độ hiểu này tương ứng với khả năng đọc vượt ra những dòng chữ”. Đọc sáng tạo bao gồm sự phát hiện và công nhận các kí hiệu có tác dụng như những tác nhân gợi nghĩa của từ ngữ vốn đã được người đọc thiết lập bằng kinh nghiệm trong quá khứ và kiến tạo thêm các nghĩa mới mà người đọc nhờ 16
  17. Phát triển năng lực văn học cho học sinh thpt qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) khái niệm tương tự của bản thân. Khi nào người đọc tự thấy niềm vui thích bắt gặp một điều gì chưa hề có trong đời ở trong tác phẩm, lúc đó có thể coi là đã hiểu mới những gì đã đọc. Đọc sáng tạo là kỹ năng phát hiện ra cái mới trong sự thống nhất toàn vẹn của tác phẩm, “nhưng đọc văn là để cảm, để sống, để thưởng thức, để dùng, để tự phát triển bản thân cho nên đọc sáng tạo là khâu cao nhất. Người đọc tìm được nghĩa mà người đọc trước chưa thấy thậm chí hiểu cái nghĩa ngoài tầm kiểm soát của tác giả. Đó là đọc sáng tạo”. Khi thực hành luyện tập kỹ năng đọc sáng tạo, ta phải vận dụng hành động đọc trải nghiệm, đọc diễn cảm, đọc thuộc lòng, đọc nhập vai và đọc lại như là cách thức tìm kiếm cái mới. Mục tiêu người đọc kiếm tìm khi đọc hiểu TPVC quyết định cách đọc mức độ đọc của họ. Hiệu quả đọc hiểu của HS được xác định thông qua nổ lực nhiều hay ít và nhờ vào sự vận dụng thành thạo các kỹ năng đọc hiểu của họ “những tác phẩm khác nhau cần phải có cách đọc khác nhau: Một số thì cần đọc nghiên cứu kĩ lưỡng, đọc tóm tắt, đọc đi, đọc lại, đọc vì thích thú. Một số khác chỉ cần tìm hiểu để biết rằng chúng có tồn tại... Cái khó nhất là bắt mình không đọc những cái mà rất có thể khó bỏ qua. Hoàn toàn không nên đuổi theo tác phẩm thời thượng”. - Kỹ năng đọc tích lũy trong đọc hiểu tác phẩm văn chương. Kỹ năng đọc tích lũy là đọc nhấn mạnh tính chất, mức độ cao thấp phức tạp hay đơn giản, khó hay dễ về việc vận dụng đọc hiểu có hiệu quả. Kỹ năng đọc tích lũy là cách phân biệt đặc điểm và yêu cầu của kỹ năng đọc trước đó. Hoàn thiện kỹ năng đọc tích lũy trong đọc hiểu sẽ làm cho việc thu nhận thông tin, độ sâu rộng về sự hiểu biết và niềm tin hứng thú trong quá trình đọc hiểu TPVC rõ rệt. Kỹ năng đọc trước góp vốn cho kỹ năng đọc sau. Trình độ đọc chính xác không bị lẫn tràn sang trình độ đọc phân tích. Trình độ đọc phân tích không bị trình độ đọc sáng tạo che khuất. Cuối cùng kỹ năng đọc tích lũy một cách đọc sâu đã vận dụng thành quả của các kỹ năng đọc trước đó để có cái nhìn khái quát chỉnh thể tác phẩm. Đây là mức độ cao trong đọc hiểu, tác động tích cực vào nhân cách toàn diện và văn hóa đọc của cá nhân HS. Nó bao hàm tất cả các mức độ và các kỹ năng đọc khác để mở rộng và tích hợp lại như một cơ hội tiếp nhận trọn vẹn các giá trị của TPVC và có thể biến nó thành sở hữu HS. Đọc tích lũy là tích lũy cái gì? Đó là tích lũy thông tin thẩm mỹ, tích lũy kinh nghiệm nghệ thuật, tích lũy ý nghĩa và thủ pháp tạo sinh ý nghĩa.Kỹ năng đọc tích lũy có thể vận dụng hành động đọc sâu, đọc thâm cứu, đọc so sánh đối chiếu, đọc chậm. Đọc chậm không có nghĩa đơn giản là đọc chậm rãi mà đọc những gì hiện lên thấp thoáng như là hình ảnh, biểu tượng , cái hay cái đẹp được ngôn từ nghệ thuật chuyển tải mà người đọc cảm nhận được ở đâu đó. Vì hiểu như thế mà nhà thơ Chế Lan Viên viết: “Ta nhớ Tố Như đọc chậm lại Kiều Đọc chậm từng vầng trăng từng nỗi buồn li biệt” 17
  18. Phát triển năng lực văn học cho học sinh thpt qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) Khi thực hành kỹ năng đọc tích lũy trong đọc hiểu TPVC cần chú ý đặc biệt đến hành động đọc sâu. Đây là hành động đọc làm bộc lộ mối quan hệ thống nhất nhiều mặt của đời sống và nghệ thuật, của trí tuệ và tình cảm ngày càng bao quát trọn vẹn văn bản tác phẩm. Phải đọc chậm để phát hiện hình ảnh, sự kiện của thế giới suy tư, tâm tình của nhân vật và hình tượng nghệ thuật của tác phẩm. HS có thể đọc và thống kê những mối quan hệ giữa nhân vật với sự kiện, tình huống và với nhân vật văn học khác. Phân loại và hệ thống hóa nhân vật theo mối quan hệ đa dạng đa tuyến để xác định chủ đề tư tưởng tác phẩm. HS vừa đọc vừa làm sơ đồ hóa mạng lưới quan hệ giữa các yếu tố hình thức và nội dung, bộ phận và toàn thể, chi tiết nghệ thuật và chỉnh thể nghệ thuật để tìm ra kiểu tư duy văn học và phương thức trình bày nghệ thuật của tác phẩm. HS cần phải làm quen với hành động đọc bên trong và cả hành động đọc bên ngoài tác phẩm như đọc hồi kí và ghi chép của nhà văn về quá trình sáng tạo tác phẩm. Tham khảo những bài phê bình tác phẩm. Cần đọc đi đọc lại nhiều lần để hóa giải những băn khoăn, ngộ nhận về một số điểm sáng thẩm mỹ hoặc những vấn đề còn treo lại trước kia chưa có lời đáp phù hợp với văn cảnh, với tác phẩm, với bối cảnh thời đại thi ca và hiện thực đời sống. Như vậy, bốn kỹ năng đọc hiểu cơ bản: đọc chính xác, đọc phân tích, đọc sáng tạo, đọc tích lũy... người dạy và người học khéo léo vận dụng thực hiện trong giờ đọc hiểu tác phẩm văn chương thì sẽ đem lại kết quả khả quan và việc đọc văn trở thành hoạt động hấp dẫn lôi cuốn HS, giờ văn sẽ không còn là những hoạt động khô cứng, máy móc nặng kiến thức... Vậy dạy văn đáp ứng đúng tinh thần dạy học mới, GDTHPT mới 2018 hiện nay. 1.4.3. Rèn luyện kỹ năng viết trong Trường phổ thông 1.4.3.1. So sánh chương trình dạy viết 2006 và 2018 cấp trung học CT môn Ngữ văn 2006 đã rất coi trọng dạy học kỹ năng viết cho HS. Chương trình cũng đã dành thời lượng đáng kể cho dạy học phân môn làm văn, chẳng hạn ở lớp 10 , số tiết dành cho làm văn là 24/105; lớp 11 là 28/123; lớp 12 là 25/105. Các kiểu văn bản trong chương trình 2006 như sau: - Ở cấp THCS, HS được học các kiểu văn bản: Văn bản tự sự (lớp 6), văn bản biểu cảm (lớp 7), văn bản thuyết minh và văn bản nghị luận (lớp 8). Quy trình dạy các bài này gồm 2 bước: bước 1 cung cấp lý thuyết, bước 2 hướng dẫn cách viết văn bản. Ở cấp THPT, HS được học các kiểu văn bản: Văn bản tự sự, văn bản thuyết minh (lớp 10), Văn bản nghị luận gồm nghị luận văn học và nghị luận xã hội (lớp 11). Các kĩ năng tạo lập văn bản được rèn luyện ở bậc học này gồm: phân tích đề, lập dàn ý, luyện tập viết đoạn văn, bài văn. Qua thực tế dạy học làm văn ở trường PT, quy trình dạy học kiểu bài làm văn thường là, Bước 1: cung cấp về vấn đề lý thuyết, kiểu bài; 18
  19. Phát triển năng lực văn học cho học sinh thpt qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) Bước 2: thực hành viết văn bản; Bước 3: giáo viên trả bài. Có thể thấy, cách dạy làm văn trong trường PT 2006 là cách dạy tiếp cận sản phẩm. Việc dạy học lý thuyết về các kiểu bài chủ yếu là cung cấp lý thuyết thuần túy, tách rời hoạt động đọc văn bản, do vậy HS được làm quen với văn bản mẫu. Sau giai đoạn tìm hiểu lý thuyết về kiểu bài, HS thường được cung cấp dàn ý về một đề văn có sẵn. Giờ thực hành tạo lập văn bản chỉ chiếm một thời lượng không đáng kể. Hơn nữa sau quá trình luyện tập, HS hầu như không được giáo viên chỉnh sửa, nhận xét bản nháp. Khi qúa trình thực hành các kĩ năng tạo lập văn bản chưa thành thục thì HS phải bắt tay vào làm bài kiểm tra để chấm điểm. Quá trình dạy viết như vậy đã dẫn đến tình trạng HS thiếu hụt các kĩ năng cơ bản để làm một bài văn. Nhưng sang chương trình GDPT mới 2018, thì đã có sự khác biệt rõ ràng trong quan niệm dạy viết. CT Ngữ văn 2018 đã có sự thay đổi trong quan niệm dạy viết. Với mục tiêu phát triển phẩm chất năng lực cho HS, CT lựa chọn phương pháp dạy viết theo tiến trình. Điều này thể hiện rõ trong yêu cầu cần đạt của chương trình. Từ cấp tiểu học đến cấp TH, CT đặt ra những yêu cầu quy trình viết dù viết thể loại văn bản nào cũng yêu cầu viết đúng quy trình, bảo đảm các bước đã được hình thành và rèn luyện trên lớp. Quy trình dạy viết theo tiến trình như sau: Bước 1: Giới thiệu kiểu bài. Bước 2: Hướng dẫn HS tìm hiểu yêu cầu đối với kiểu bài cần viết. Bước 3: Hướng dẫn HS đọc và phân tích kiểu bài tham khảo. Bước 4: Tổ chức cho HS viết theo trình tự. Bước 5: Chấm bài, trả bài. Theo quy trình dạy viết trên thì HS được rèn luyện quy trình viết 1 văn bản. Viết văn bản bao giờ cũng xuất phát tìm hiểu đặc điểm kiểu bài, sau đó bắt tay vào lựa chọn đề tài, xác định mục đích, nhiệm vụ văn bản, tìm ý, lập dàn ý, bám sát vào dàn ý để viết. Cuối cùng là giai đoạn chỉnh sửa bài viết. Thiết nghĩ, dù tiếp cận theo cách nào thì đích đến của quá trình tạo lập văn bản vẫn là văn bản - sản phẩm cuối cùng của việc viết. Mục đích cuối cùng của việc dạy viết là giúp học sinh viết được văn bản đáp ứng nhu cầu giao tiếp trong những tình huống giao tiếp khác nhau. Do vậy để đạt được mục tiêu mà chương trình 2018 đặt ra là phát triển năng lực viết cho HS. 1.4.3.2. Dạy kỹ năng viết qua giờ đọc văn Trong đề tài xin đề cập đến dạng bài làm văn nghị luận, đây là dạng bài thông dụng và thiết thực trong chương trình học và thi của cả 2 chương trình 2006 và 2018. Qua giờ đọc văn GV có thể hình thành kĩ năng viết cho HS, giúp ích cho những tiết học Làm văn trong chương trình 2006 và Thực hành Viết chương trình 2018. 19
  20. Phát triển năng lực văn học cho học sinh thpt qua việc rèn luyện kỹ năng đọc, viết trong giờ đọc hiểu “Người lái đò sông đà” (Nguyễn Tuân) - Rèn kỹ năng thu thập kiến thức để phục vụ cho kỹ năng viết bài văn nghị luận qua các hoạt động trong giờ đọc hiểu văn bản. + Kiến thức về tác giả, tác phẩm, nhan đề, hoàn cảnh, xuất xứ, thời đại mà tác phẩm đó ra đời, thể loại, phong cách nghệ thuật của tác giả, vị trí của tác giả với giai đoạn văn học... những kiến thức này sẽ phục vụ trong phần viết mở bài, bài văn nghị luận văn học và phần khái quát đầu tiên trong thân bài. Mặt khác, cũng giúp HS hiểu đúng nội dung và đặc điểm hình thức của văn bản. + Phần trọng tâm của TPVC bao gồm hai yếu tố: Nội dung và Nghệ thuật, với hai phần này sẽ cung cấp tri thức cho HS viết phần thân bài (đối với chương trình 2006) còn với chương trình 2018 sẽ rèn luyện kĩ năng tiếp cận một văn bản và phát huy được năng lực, phẩm chất cho hs nói chung và năng lực văn học nói riêng (Nghe, nói, đọc, viết). - Đối với chương trình 2018, sau mỗi tiết đọc hiểu văn bản thì đều có 1 bài tập kết nối - đọc viết (SGK kết nối tri thức) viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) nhằm rèn luyện kĩ năng viết cho HS. Ngoài ra, trong các tiết học chuyên đề thì chương trình 2018 còn luyện viết các dạng bài như: Nghiên cứu, bài báo cáo, bài viết giới thiệu quảng bá một tác phẩm văn học, một cuốn sách; bài trải nghiệm; bài nghiên cứu... đa dạng hình thức viết mà HS được tiếp cận và thực hành sẽ rèn luyện tốt hơn kĩ năng viết phát huy hết năng lực và hình thành tốt những phẩm chất cho HS. - Thông qua giờ đọc văn sẽ rèn luyện cho HS cách tiếp cận, đánh giá, bày tỏ ý kiến về một vấn đề văn học , phần này sẽ giúp các em viết tốt luận điểm cuối cùng phần thân bài: bàn luận, đánh giá , mở rộng và trả lời ý phụ nâng cao của đề ( dạng này nằm trong cấu trúc đề thi TN - THPTQG lớp 12), khi HS có khả năng nói, đối thoại đánh giá về một vấn đề nào đó trong tác phẩm văn học (nội dung hoặc hình thức) thì chắc chắn khi Viết bài văn nghị luận văn học cũng sẽ viết tốt, ý tứ sắp xếp hợp lý, lôgic. - Đối với dạng đề NLXH thì qua giờ đọc văn GV và HS sẽ rút ra được những vấn đề nhân sinh nghiêng về tư tưởng đạo lý hay hiện tượng đời sống, từ đó giúp HS nhận diện đề nhanh, nắm được vấn đề cần nghị luận, Hs có thể dễ dàng trong việc lấy dẫn chứng chọn dẫn chứng cho hay, phù hợp với bài viết. 1.5. Một số hình thức tổ chức hoạt động trong giờ đọc văn nhằm nâng cao năng lực Văn học qua rèn luyện kĩ năng đọc, viết - Hoạt động khởi động. + Hệ thống kiến thức, tạo tâm thế vào bài hứng thú, vui vẻ, say mê. + Hình thức tổ chức: trò chơi, xem phim, phóng sự, nghe nhạc, đóng kịch, cuộc thi... gắn với hệ thống câu hỏi giúp học sinh rèn luyện kĩ năng nghe và nói, đọc. + Năng lực hình thành: NL hợp tác, NL văn học, NL tự học. + Kỹ năng rèn luyện: Đọc, viết, nói , nghe. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2