intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng phản biện cho học sinh THPT qua dạy học văn bản văn xuôi hiện đại trong chương trình Ngữ văn 11

Chia sẻ: Ngaynangmoi | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:67

21
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến nhằm chứng minh sự cần thiết cũng như khả năng, ưu thế và hiệu quả to lớn của việcphát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT qua dạy học văn xuôi hiện đại trong chương trình Ngữ văn 11.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng phản biện cho học sinh THPT qua dạy học văn bản văn xuôi hiện đại trong chương trình Ngữ văn 11

  1. BẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT GV : Giáo viên HS : Học sinh Nxb : Nhà xuất bản SGK : Sách giáo khoa SGV : Sách giáo viên THPT: Trung học phổ thông TN:  Thực nghiệm ĐC : Đối chứng
  2. MỤC LỤC
  3. A. MỞ ĐẦU PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài 1.1.Việc xây dựngChương trình giáo dục  theo  định hướng phát triển năng  lực  học sinh  được bàn đến nhiều từ  những năm 90 của thế  kỷXX  và  hiện  nayđang được hiện thực hóa ở những bước cơ bản .Trong chương trình giáo dục  phổ  thông tổng thể, và thông tư  số  32/2018/TT­BGDĐT(ngày 26/11/2018) đã cụ  thể hóa việc dạy học phát triển năng lực. Với Chương trình này,  mục tiêu phát  triển năng lực người học, đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, phát   triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng  khả năng vận dụng tri thức  trong những tình huống thực tiễn… được xem là vấn đề  có ý nghĩa then chốt .  Dạy học phát triển phẩm chất, năng lực người họccó yêu cầu cao hơn, mức độ  khó hơn,  đòi hỏi người dạy phải có phẩm chất, năng lực giảng dạy cao hơn  trước. Đây chính là điều mà đội ngũ giáo viên ngày càng nhận thức được một  cách sâu sắc. Tuy nhiên,việc chuyển đổi thói quen dạy học, đổi mới phương   pháp dạy học, chuyển từ dạy học kiến thức, kĩ năng đến dạy học năng lực vẫn   luôn là một thách thức. 1.2. Trong các năng lực cơ bản cần rèn luyện cho người học thì năng lực  phản biện đóng vai trò hết sức quan trọng, nhất là đối với môn Ngữ văn. Năng   lực phản biện vừa là nhu cầu vừa là yêu cầu đối với người học để nâng cao kết   quả học tập, phát triển bản thân và đảm bảo năng lực học tập suốt đời.Ngữ văn  là môn học được tích hợp từ  ba phân môn Văn học, Tiếng Việt, Tập làm văn  gồm hai phần Ngữ và Văn gắn bó với nhau. Là môn học tích hợp, cũng là môn   học công cụ nên vai trò của môn Ngữ văn đóng vai trò quan trọng  cho việc hình  thành và phát triển các năng lực và phẩm chất cho học sinh. Các năng lực Tiếng   Việt (Nghe, nói, đọc,viết) tạo tiền đề cho các năng lực khác phát triển (năng lực  hợp tác, sáng tạo, giao tiếp, giải quyết vấn đề…). Chỉ khi học sinh tự mình biết  cách tranh luận, phản biện, cách tiếp nhận văn bản văn học một cách  sắc sảo,  độc lập và sáng tạo thì mục đích của việc dạy – học môn ngữ văn mới thực sự  có hướng đi đúng.Khác với các môn học khác, môn Ngữ văn đòi hỏi người học  phải tự  mình bước vào thế  giới nghệ  thuật của văn bản trước hết bằng việc   đọc, đọc có suy luận, có phản biện. Nếu không phản biện khi tiếp nhận văn  học mọi hoạt động khác đều thiếu cơ  sở  và mang tính lí thuyết. Vậy có thể  khẳng định vị trí của môn Ngữ văn: đây là môn học có nhiều khả năng và ưu thế  nhất trong việc hình thành và phát triển năng lực phản biện cho học sinh. 1.3. Mặc dù Ngữ văn là môn học có nhiều khả năng và ưu thế nhất trong  việc hình thành và phát triển năng lực phản biện cho học sinh, nhưng trên thực  tế, trong chương trình dạy học trước đây, vấn đề phát triển năng lực phản biện   cho học sinh thông qua việc dạy học môn Ngữ  văn vẫn chưa được coi trọng   đúng mức. Chương trình dạy học vẫn nặng về  cung cấp kiến thức mà chưa   3
  4. quan tâm đến việc rèn luyện, phát triển các năng lực phản biện, tính đa chiều và  chưa đặt việc dạy, học văn vào cuộc sống. Trong chương trình dạy học hiện  hành, yêu cầu đổi mới phương pháp cũng đặt ra vấn đề  phát huy vai trò chủ  động, tích cực của học sinh trong quá trình dạy học, giáo viên thay vì làm hộ học   trò thì chuyển sang vai trò người định hướng, dẫn đường, người trọng tài trong  quá trình học của học sinh. Tuy nhiên, từ  lí thuyết đến thực tế  vẫn còn một   khoảng cách không nhỏ. Áp lực thi cử  khiến nhiều giáo viên vẫn phải cảm  nhận thay, diễn đạt thay cho học sinh. Kết quả là nhiều học sinh khi rời ghế nhà  trường vẫn không có khả  năng phản biện,không có khả  năng tranh luận những  vấn đề thực tế cuộc sống, kĩ năng bày tỏ ý kiến hạn chế.    Trong quá trình dạy học văn bản văn xuôi hiện đại trong chương trình Ngữ  văn 11, tôi đã trăn trở  và áp dụng nhiều biện pháp dạy học tính cực, trong đó  biện pháp phát triển năng lực phản biện thông qua đọc ­ hiểu văn bản bước đầu  thu được những kết quả khả thi. Với những lí do nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề:  Phát triển năng phản biện   cho học sinh THPT qua dạy học văn bản văn xuôi hiện đại trong chương trình   Ngữ văn 11làm đối tượng nghiên cứu. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Như  tên đề  tài đã xác định rõ, đối tượng nghiên cứu của sáng kiến này là   Vấn đề phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT qua dạy học văn xuôi   hiện đại trong chương trình Ngữ văn 11 2.2. Phạm vi nghiên cứu Trong đề  tài, chúng tôi sẽ  chỉ  bàn đến việc phát triển năng lực phản biện  cho học sinh qua dạy học một loại văn bản có vị trí quan trọng nhất của chương   trình là văn xuôi hiện đại trong chương trình Ngữ văn 11 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu  Sáng kiến nhằm chứng minh sự  cần thiết cũng như  khả  năng,  ưu thế  và   hiệu quả to lớn của việcphát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT qua   dạy học văn xuôi hiện đại trong chương trình Ngữ văn 11 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.2.1. Nghiên cứu cơ sở khoa học của đề  tài, bao gồm việc làm rõ năng lực  phản biện trong hoạt động dạy – học, thực trạng và khả  năng vận dụng năng  lực phản biện trong dạy học môn Ngữ văn nói chung và phần văn xuôi hiện đại  ở chương trình Ngữ văn THPT lớp 11 nói riêng. 4
  5. 3.2.2. Xây dựng hệ  thống phương pháp, biện pháp phát triển năng lực phản  biện trong dạy học phần văn học xuôi hiện đại chương trình Ngữ văn THPT lớp   11. 3.2.3. Tiến hành thực nghiệm sư  phạm để  khẳng định tính khả  thi và hiệu   quả của những phương pháp, biện pháp vận dụng phát triển năng lực phản biện   trong dạy học phần văn xuôi hiện đại ở chương trình Ngữ văn THPT lớp 11. 4. Phương pháp nghiên cứu Chúng tôi sử dụng phối hợp nhiều phương pháp thuộc hai nhóm nghiên cứu   lý thuyết và nghiên cứu thực tiễn:Dùng phương pháp phân tích và tổng hợp lý   thuyết,  phân   loại  và  hệ   thống   hoá   lý   thuyết  để   đánh   giá,  thẩm  định   những  nghiên cứu có liên quan đến đề tài. ­ Dùng các phương pháp quan sát và điều tra để nắm bắt những dữ liệu cần  thiết về hoạt động phát triển năng lực phản biện cho học sinh qua dạy học văn  xuôi hiện đại trong chương trình Ngữ văn 11 ­ Dùng phương pháp thực nghiệm để thẩm định, đánh giá tính khoa học, tính  khả thi của hệ thống phương pháp, biện pháp phát triển năng lực lực phản biện   cho học sinh qua dạy học văn xuôi hiện đại trong chương trình Ngữ văn 11 5. Đóng góp của sáng kiến ­ Nghiên cứu một cách có hệ  thống vấn đề  phát triển năng lực phản biện   cho học sinh. ­ Đề xuất những phương pháp, biện pháp có tính khả thi nhằm hình thành và  phát triển năng lực phản biện cho học sinh qua dạy học văn xuôi hiện đại trong  chương trình Ngữ văn 11 ­ Cung cấp cho giáo viên một hướng dạy học chú trọng phát triển ở học sinh  các năng lực, đặc biệt là năng lực tranh luận, phản biện 6. Cấu trúc của sáng kiến : Ngoài phần Mở  đầu, Kết luận và Tài liệu   tham khảo, nội dung của sáng kiến sẽ được triển khai qua mục: I.  Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài  II. Hệ  thống biện pháp rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh qua dạy   học văn xuôi hiện đại trong chương trình Ngữ văn 11 III. Thực nghiệm sư phạm 5
  6. B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận 1.1. Về định hướng dạy học phát triển năng lực học sinh Đặc điểm quan trọng nhất của dạy học phát triển năng lực là đo được “năng   lực” của học HS hơn là thời gian học tập và cấp lớp. HS thể hiện sự tiến bộ bằng   cách chứng minh năng lực của mình, điều đó có nghĩa HS chứng minh mức độ làm   chủ, nắm vững kiến thức và kỹ năng, khả năng vận dụng kiến thức kĩ năng trong   bối cảnh thực tiễn cuộc sống (được gọi là năng lực).Thực hiện nội dung đổi mới  giáo dục với phương pháp chuyển từ tiếp cận nội dung (HS học được gì) sang tiếp  cận năng lực của người học (HS làm được gì thông qua việc học), lấy HS làm   trung tâm, GV giữ vai trò tổ  chức, chỉ dẫn các hoạt động chiếm lĩnh tri thức cho   HS.  Nếu chương trình giáo dục trước đây chú trọng định hướng nội dung, đề  cao vai trò độc tôn của người thầy thì chương trình dạy học định hướng phát  triển năng lực hiện nay chú trọng đến khai thác khả  năng sáng tạo, chủ  động,   tích cực của người học, hướng đến khuyến khích người học bộc lộ  sự  trải   nghiệm, tư duy  phản biện và quan điểm cá nhân, xem HS là trung tâm của hoạt  động dạy học. Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực còn làm  thay đổi mối quan hệ  GV ­ HS theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng để  phát triển năng lực xã hội. Quá trình dạy ­ học tạo ra sự tương tác giữa GV và  HS góp phần tạo dựng môi trường nhận thức, sáng tạo cho người học, từ đó rèn  luyện được những năng lực, phẩm chất cụ thể cho người học.  Mục tiêu cuối cùng của dạy học phát triển năng lực là trang bị cho HS năng  lực xử  lý, thực hành các vấn đề  của cuộc sống và công việc, chú trọng kiến   thức phương pháp. Điều này cũng đồng nghĩa với việc người dạy cần phải có  sự  đầu tư  công phu hơn trong lựa chọn nội dung, phương pháp dạy học, tránh   tình trạng vận dụng một cách thiên lệch dẫn đến những lỗ hổng tri thức cơ bản,  thiếu tính hệ  thống trong cung cấp tri thức. Chất lượng giáo dục có đạt đến  mục tiêu còn phụ thuộc vào quá trình thực hiện chương trình. Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, khái niệm năng  lực được hiểu là “khả năng làm chủ và vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ   năng, thái độ  và hứng thú để hành động một cách phù hợp và có hiệu quả  trong   các tình huống đa dạng của cuộc sống ” (Theo Quebec – Ministere de I Education,   2004).  Chương trình giáo dục tổng thể  năm 2018 và chương trình giáo dục   phổ  thông   mới   của   môn   Ngữ   văn   (Ban   hành   kèm   theo   Thông   tư   số   32/2018/TT­ 6
  7. BGDĐT ngày 26 tháng 11 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) đều   hướng đến phát triển năng lực chung và năng lực đặc thù cho HS. Chương trình   giáo dục mới đã đưa ra những yêu cầu chung, khái quát về đổi mới phương pháp  dạy học: Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ  động của người học, hình thành và  phát triển năng lực tự học, năng lực phản biện (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi  chép, tìm kiếm thông tin,bộc lộ ý kiến cá nhân, tranh luận các vấn đề học tập ),   trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất như linh hoạt, độc lập, sáng tạo trong quá  trình tư  duy. Có  thể  chọn lựa một cách linh hoạt các phương pháp chung và  phương pháp đặc thù của môn học để thực hiện. Mục tiêu của các phương pháp  này hướng tới là “Học sinh tự  mình hoàn thành nhiệm vụ  nhận thức với sự  tổ   chức, hướng dẫn của GV”. 1.2. Năng lực phản biện trong hệ thống các năng lực cần hình thành cho HS 1.2.1. Các năng lực cần hình thành cho học sinh Nghị quyết số 88 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi mới Chương trình,  sách giáo khoa giáo dục phổ thông có quy định: “Mục tiêu giáo dục phổ thông là   tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực, phát hiện   và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh”. Thông tư số  32/2018/TT­BGDDT ngày 26/11/2018 ban hành về  chương trình giáo dục tổng  thể đã trình bày đầy đủ những yêu cầu cần đạt về năng lực của học sinh. Nhóm thứ  nhất là các năng lực chung mà môn học và hoạt động giáo dục  nào cũng cần và có thể hình thành, phát triển cho học sinh, gồm: năng lực tự chủ  và tự học; năng lực giao tiếp và hợp tác; năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Năng lực tự lực, tự học thể hiện trong mối quan hệ của mỗi người với bản   thân. Năng lực giao tiếp và hợp tác được thể  hiện trong mối quan hệ  của mỗi   người với người khác.  Năng lực giải quyết vấn đề  và sáng tạo được thể  hiện trong mối quan hệ  của mỗi người với công việc. Nhóm thứ  hai là những năng lực đặc thù do một hoặc một vài môn học   kiến tạo thành, bao gồm: năng lực sử  dụng ngôn ngữ  (gắn với các môn Ngữ  văn, Ngoại ngữ), năng lực thẩm mỹ  (gắn với các môn Nghệ  thuật), năng lực  tính toán (gắn với Toán và các môn khoa học tự nhiên), năng lực Tin học, năng  lực Thể chất, năng lực khoa học và năng lực công nghệ.  Như vậy có thể khẳng định rằng trong các nhóm năng lực chung và đặc thù  mà giáo dục hướng đến, có thể nhận thấy: chủ yếu nhằm phát triển cho người   học những năng lực và phẩm chất quan trọng hướng đến sự  chủ  động, thích  ứng, với môi trường và hoàn cảnh phức tạp. Do đó, năng lực phản biệnlà một  7
  8. trong những năng lực vô cùng quan trọng có vai trò làm nền tảng và định hướng   trong quá trình hình thành và phát triển đầy đủ  các năng lực cơ  bản và đặc thù  cho HS trong bối cảnh mới.Trong đó, môn học có thế mạnh và đòi hỏi phát triển  cao và đầy đủ năng lực phản biện phải kể đến môn Ngữ văn: Môn học công cụ,  vừa là môn học nghệ thuật, vừa là môn học gần gũi với cuộc sống. 1.2.2. Năng lực phản biện Năng lực phản biện là một quá trình tư  duy biện chứng gồm phân tích và  đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm   làm sáng tỏ  và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Lập luận phản biện   phải rõ ràng, logic, đầy đủ  bằng chứng, tỉ mỉ và công tâm. Năng lực phản biện   được hiểu là khả  năng nắm bắt, khai minh chân lý, chỉ  ra các ngụy tạo, ngụy   biện. Nó làm xuất hiện nhu cầu phản tỉnh,thôi thúc nhận thức lại các đối tượng,  các vấn đề. Như  vậy có thể  khẳng định, năng lực phản biện là thúc đẩy hành  động tái tạo nhận thức, điều chỉnh thái độ, kiến tạo giải pháp phù hợp và hiệu  quả. Năng lực phản biện có nội hàm tương đối rộng, bao gồm hai mức độ là tư  duy phản biện và kĩ năng phản biện. Tư  duy phản biện là suy nghĩ về  những   vấn đề, hình thành những lý lẽ và quan điểm trong não bộ (có thể ở dạng tiềm  năng) mà chưa được bộc lộ  ra ngoài bằng ngôn ngữ  hay hành động. Kĩ năng  phản biện là bộc lộ, trình bày hay triển khai các vấn đề, lý lẽ, quan điểm để  giải phóng tư duy đó. Nghĩa là nếu không có tư  duy phản biện thì rất khó có kĩ  năng phản biện, và kĩ năng phản biện cụ thể  hóa tư  duy phản biện để  vấn đề  được phản biện hoàn thành. Như vậy, hiểu một cách đơn giản thì phản biện là  việc đưa ra những suy nghĩ, quan điểm và lý lẽ  về  một điều gì đó để  chứng   minh sự  đúng đắn hay sai lầm của điều đó (sự  vật, hiện tượng, chủ  trương,   quan điểm, công thức...). Phản biện đồng thời cũng được xem là tư  duy về  tư  duy. Năng lực phản biện biểu hiện rõ nhất là ở phương pháp học, qua cách học,   người học cũng đã thể  hiện cáchtư  duy và  kỹ  năng phản  biện. Vì thế, HS có  phương pháp học tốt đồng nghĩa có khả  năng tiếp thu và lí giải, phân tích, thẩm  bình sâu sắc  kiến thức tốt. Phương pháp học tập được hình thành và phát triển  trong quá trình học, vì thế, năng lực và phương pháp giảng dạy, giáo dục của GV   sẽ có tác động rất quan trọng đến năng lực phản biện của học trò, tạo điều kiện  để hình thành, phát triển và duy trì năng lực phản biện.  Các kỹ năng cốt lõi của năng lực phản biện là quan sát, diễn giải, phân tích,  suy luận, đánh giá, giải thích, và tri nhận tổng hợp. Muốn hoạt động phản biện   diễn ra hiệu quả, người phản biện cần phải chuẩn bị để  sẵn sàng gắn việc giải   quyết những vấn đề nêu ra với những kĩ năng tương ứng. Tư duy phản biện vận  dụng không chỉ tri thức về logic mà còn những tiêu chí trí tuệ khác như sự rõ ràng,  đáng tin cậy, sự xác đáng, sự sâu sắc, tính thiết thực, chiều sâu và tầm rộng, cũng   như sự quan yếu và tínhcông bằng. 8
  9. Đồng thời, khi năng lựcphản biện đã trở thành yếu tố bên trong, biểu hiện  ở  thái độ  học tập chủ  động học tập, sẵn sàng tiếp cận với vấn đề  mới trong  học tập, có ý thức và thái độ nghiêm túc cầu thị, tranh luận, dám nói và dám bảo  bảo vệ  quan điểm cá nhân  trong quá trình học. Năng lực  phản biện  cũng góp  phần hình thành nên tính cách và phẩm chất của người học nó được biểu hiện ở  hành vi trong cuộc sống, như  nhìn  nhận vấn đề  của cuộc sống đa chiều ,toàn  diện và biện chứng hơn. Có kĩ năng và phương pháp học tập và làm việc, biết   quản lí và điều chỉnh kế  hoạch, thời gian trong học tập. Khi đó năng lực phản  biện trở thành một thói quen, trở thành kĩ năng, trở  thành văn hóa. Nó trở  thành  một nguồn lực thôi thúc người học không ngừng đặt  ra các vấn đề  trước các  tình huống phức tạp của cuộc sống,   tìm tòi và  có nhu cầu lí giải vấn đề  của  cuộc sống một cách sâu sắc, thấu đáo. Chính vì vậy, GV cần xây dựng môi  trường học tập tích cực để HS được thể hiện bản thân. Muốn vậy, GV lại cần   chu toàn hơn trong dạy học, xây dựng được tình huống học tập có vấn đề,  nhằm lôi  cuốn và khích lệ  HS hăng say, chủ  động và tự  tin khám phá, thể  nghiệm. Năng lực phản  biện  tồn tại trong mỗi cá nhân, người học đứng trước một  vấn đề  khó khăn trong học tập hay cuộc sống đều có nhu cầu giải quyết, phân   tích, lí giải cặn kẽ. Do đó, môi trường dạy ­ học đóng một vai trò quan trọng để  rèn luyện và phát triển năng lực này ở người học. GV càng sáng tạo, càng khích lệ  được hứng thú cho HS trong học tập, HS càng có cơ hội được bộc lộ hơn nữa năng   lực phản biện trong học tập. Cho nên, năng lực phản biện vừa là nhu cầu tự nhiên,  vừa là nhu cầu tâm lí. Quá trình dạy học Ngữ văn đồng thời giúp HS hình thành và  phát triển các năng lực đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội, thông qua việc   rèn luyện và phát triển các năng lực ngôn ngữ, năng lực văn học thì trong quá trình  hướng dẫn HS tiếp xúc với văn bản, môn Ngữ văn cũng hướng HS từng bước hình   thành và nâng cao năng lực quan trọng của người học, đó là năng lực phản biện. Trong hoạt động dạy học, năng lực phản biện hình thành cho người học khả  năng hiểu sâu các vấn đề  với những câu hỏi vì sao, như  thế  nào. Bên cạnh đó,  phản biện cũng giúp hoạt động dạy và học trở nên dân chủ và có không khí giao   tiếp, tác động nhiều chiều hơn là không khí dạy học kiểu một chiều như lâu nay.  Phát triển được khả năng phản biện và khuyến khích người học phản biện là một   cách thức để đổi mới phương pháp dạy học trong xu hướng dạy học tiếp cận năng  lực Đối với môn Ngữ văn nói chung và văn bản văn xuôi hiện đại nói riêng, năng  lực phản biện đóng một vai trò quan trọng. Trước hết là bởi tính chất đặc thù của   văn bản nghệ thuật, quá trình tiếp nhận văn bản nghệ thuật trước hết là cảm thụ  cá nhân, nghĩa là người học phải tự  lực suy luận  tham gia vào quá trình chiếm  lĩnh tác phẩm bằng năng lực của bản thân phát hiện và lí giải những vẽ đẹp tiềm  ẩn bên trong ngôn ngữ. Thực tế, để  học tốt môn Ngữ  văn, người học không chỉ  cần trí tuệ và còn cần cảm xúc, hứng thú. Mà cảm xúc là một yếu tố  hoàn toàn  9
  10. mang tính cá nhân, vì thế  mỗi HS phải tự  mình bước vào trang sách, tự  mình  “nếm trải” những dư vị cảm xúc trong thế giới nghệ của văn bản, nghĩa là phải  tự  đọc ­ hiểu,phân tích, lí giải, cảm nhận, văn bản trước khi có sự  can dự, định  hướng của GV. Đây là lí do mà phần lớn GV dạy Ngữ  văn thường yêu cầu  nghiêm ngặt HS hoạt động soạn bài, chuẩn bị bài ở  phần hướng dẫn học bài ở  GSK sau mỗi văn bản đọc ­ hiểu. Sau khi HS tự  đọc ­ hiểu văn bản, bằng kiến thức về  giai đoạn văn học,  đặc trưng thể loại, HS có khả năng khai thác những tín hiệu nghệ thuật của văn  bản. Đặc trưng của văn bản văn xuôi được xem xét ở những dấu hiệu hình thức  của văn bản như  thể  loại, cốt  truyện,  ngôn ngữ  trần thuật, hình tượng  nhân  vật... Cấu trúc của văn bản nghệ  thuật gồm ba tầng (tầng ngôn từ, tầng hình   tượng, tầng hàm ẩn). Trong đó, ngôn từ là tầng đầu tiên tạo nên văn bản. Ngôn  từ trong tác phẩm văn học vốn bắt nguồn từ ngôn ngữ đời sống nhưng qua ngòi  bút của nhà văn nó đã được nhào nặn và tái tạo lại, lựa chọn và tổ  chức để  mang lại những lớp nghĩa mới mẻ. Bấy giờ, ngôn từ bình thường trở thành ngôn  từ nghệ thuật, có tác dụng thể hiện cái vô cùng, vô tận của thế giới tâm hồn con   người  một  cách hình tượng. Nó gợi dậy những suy nghĩ, trăn trởcho  người  đọc,mở  ra cho người đọc những bài học nhân sinh sâu sắc. Mỗi từ, mỗi câu từ  trong văn bản khêu gợi một cái gì lớn hơn, tràn ra ngoài nó, tạo dựng ý ngoài lời,  hình thành một chỉnh thể hình tượng mới mẻ. Ta có thể  lấy ví dụ  trong  lời nói  của Chí Phèo với Thị  Nở  khi hai người trò chuyện vào buổi sáng, sau khi Chí  Phèo đã được Thị trao cho bát cháo hành.  ­ Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui (Chí Phèo­ Nam Cao) Hai chữ “hay là” vừa bộc lộ dự tính tương lai, vừa chứa đựng sự do dự của   Chí, nhưng dự tính tương lai  ấy lại được lộ  ra bằng cụm từ  “mình sang đây ở  với tớ” chân thành, tha thiết biết nhường nào. Và sang  ở  cùng để  có một cuộc  sống “ vui”! chao ôi, lời anh Chí khi tỉnh táo thật góc cạnh. Nếu đọc xong chúng  ta nhận thấy sự  hồ  hởi, thiết tha của Chí với Thị, nhưng khi chúng ta suy luận   thì hẳn đó chính là một lời cầu hôn, một lời cầu hôn ngọt ngào nhất. Không chỉ dừng ở suy luận, trong quá trình dạy­ học, GV cần đặt học sinh  vào những tình huống có vấn đề nhằm kích thích sự tranh biện giữa các cá nhân   với nhau, HS càng bày tỏ  được ý kiến riêng, cách cảm, cách hiểu riêng thì vấn   đề  học tập càng trở  nên sâu sắc. Hơn thế, qua quá trình tranh biện HS sẽ  phát  triển được các năng lực quan trọng như  năng lực ngôn ngữ, giao tiếp, hợp tác,  và đặc biệt là năng lực phản biện Để  phát triển năng lực phản biện  ở  mức kĩ năng, GV cần xây dựng các   cuộc giao tiếp văn học trong quá trình đọc ­ hiểu văn bản, nhất là văn bản văn  xuôi hiện đại, những câu chuyện đời sống được thảo luận, trao đổi sẽ  làm cho  HS hiểu hơn về  cuộc sống, xã hội và con người. Trong văn xuôi hiện đại Việt  Nam, những tác phẩm lớn như Chí Phèo (Nam Cao) có thể dựng thành cuộc giao  tiếp văn: Phiên tòa xét xử : “Ai đã đẩy Chí Phèo đến con đường tha hóa rồi lưu   manh?”, trong truyện ngắn Hai đứa trẻ (Thạch Lam), GV có thể  xây dựng cuộc  10
  11. giao tiếp văn học: Điểm khác nhau trong chủ nghĩa nhân đạo và hiện thực trong   truyện ngắn “Hai đứa trẻ”  và “Chí Phèo”;  trong dạy học trích đoạn “Hạnh  phúc một tang gia (Vũ Trọng Phụng) có thể  tổ  chức: Xã hội thượng lưu trong   hạnh phúc một tang gia... 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Văn bản văn xuôi trong chương trình và SGK Ngữ văn 11 THPT hiện   hành Trong chương trình và sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn 11 THPT hiện hành có  nhiều loại văn bản xét về phong cách ngôn ngữ chức năng. Trong đó, văn bản văn   xuôi chiếm một số lượng lớn. Việc rèn luyện năng lực phản  biện cho học sinh qua  dạy học Ngữ văn là một ưu thế đã được khẳng định. Trong giới hạn nghiên cứu  này, chúng tôi xin xem xét  ở  đối tượng cụ  thể  là văn bản  văn xuôi hiện đại  trongchương trình Ngữ văn 11. Văn bản nghệ thuật nói chung đựơc hiểu về  cơ  bản là sáng tạo ngôn từ,  trong đó, nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ một cách tinh luyện, giàu hình tượng, có   tính thẩm mĩ cao, phản ánh bức tranh đời sống nhiều mặt của con người. Văn  xuôi hiện đại bao giờ cũng là sự kí thác những tư tưởng tình cảm tốt đẹp, nhân  văn của tác giả về những vấn đề  cuộc sống, con người, thiên nhiên. Nó vừa là  sự  “hội tụ” những tình cảm tốt đẹp của nhà văn, vừa thể  hiện giá trị  văn hóa   dân tộc, thời đại. Nó vừa là một thể  thống nhất về  nội dung và hoàn chỉnh về  nghệ  thuật, nhưng lại là một cấu trúc “mở” cho người tiếp nhận cơ  hội đồng  sáng tạo.   Văn bản nghệ thuật nói chung, văn bản văn xuôi nói riêng được phân biệt với  văn bản thông tin (văn bản phi nghệ thuật) chủ yếu ở chức năng thẩm mĩ của nó.  Chức năng này chính là nhờ đặc thù của tư duy hình tượng. Nó gợi lên  bức tranh  đời sống qua số phận và cuộc đời nhân vật . Truyện không bị gò bó về không gian  và thời gian, có thể đi sâu vào tâm trạng con người, những cảnh đời cụ  thể  như  trong Hai đứa trẻ (Thạch Lam), Chí Phèo ( Nam Cao).Đặc trưng cơ bản của tác  phẩm văn xuôi là ở kết cấu, hình tượng nhân vật, nghệ thuật trần thuật... Hiện nay sách giáo khoa Ngữ văn 11 hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo  (Nxb Giáo dục Việt Nam) có số  lượng văn bản văn xuôi hiện đại (khảo sát văn  bản đọc hiểu chính, văn bản đọc thêm,không khảo sát văn bản nước ngoài) gồm  07 văn bản, tập trung ở chương trình Ngữ văn tập 1 gồm 07 văn bản. Trong đó:   ­ Có 04 văn bản đọc hiểu chính (không kể đến 02 văn bản nước ngoài)  ­ Có 03 văn bản đọc thêm 11
  12. Như  vậy, có thể  thấy rằng chương trình, SGK Ngữ  văn 11 THPT có khối  lượng văn bản văn xuôi hiện đại lớn, lại được sắp xếp tập trung  ở SGK tập 1   phù hợp để chúng ta lựa chọn làm cơ sở rèn luyện năng lực phản biện cho HS. 1.2.2.Thực trạng rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh qua dạy học   văn bản văn xuôi hiện đại ở chương trình Ngữ văn 11 Rèn luyện năng lực  phản biện  là bước hoàn tất và chuyên sâu hơn trong  dạy học phát triển năng lực của người học. Nếu quá trình dạy học đã tập trung  hướng dẫn phát triển các năng lực phản biện nhưng lại không xây dựng được  các biện pháp rèn luyện, củng cố  năng lực này thì quá trình dạy học vẫn chưa   đạt được hiệu quả, thậm chí năng lực học sinh mới được hình thành sẽ thiếu cơ  sở thực hành và vì thế nó sẽ mất đi trong một thời gian. Cho nên, rèn luyện năng  lực phản biện chính là xây dựng được hệ thống các biện pháp cụ thể, thiết thực  trong quá trình dạy học và kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn. Để nắm vững thực trạng nhận thức về tầm quan trọng của việc rèn luyện   năng lực phản biện cho HS THPT, chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực tế việc  dạy và học môn Ngữ  văn. Có 20 GV và 80 HS  ở  ba đơn vị  trường THPT tham   gia khảo sát  gồm:  trường THPT  Quỳnh Lưu 2, THPT  Quỳnh Lưu 3, THPT   Nguyễn Đức Mậu (Nội dung  khảo sát được trình bày ở phần Phụ lục).   * Nội dung khảo sát ­Tìm hiểu thực trạng dạy học theo định hướng năng lực của GV dạy bộ  môn Ngữ văn, nhất là phát triển năng lực phản biện trong dạy học văn bản văn  xuôi hiện đại ở chương trình Ngữ văn 11. ­ Tìm hiểu việc xây dựng giáo án bài giảng của GV để  nắm cách tổ  chức   dạy học, tình hình xây dựng hệ thống câu hỏi có phù hợp, thiết thực và cụ  thể  phát triển năng lực phản biện cho HS trong dạy văn bản  ­ Tìm hiểu hứng thú và thái độ của HS trước chương trình Ngữ văn nói chung  và phần văn bản văn xuôi hiện đại trong chương trình Ngữ văn 11 nói riêng Từ  đó xác định những khó khăn của GV và HS gặp phải để  bước đầu đề  xuất những biện pháp dạy học nhằm phát triển năng   lực phản biện trong dạy  học văn nói chung và phần văn bản văn xuôi hiện đại chương trình Ngữ  văn 11  nói riêng. * Phương pháp khảo sát: Để thực hiện đề tài, chúng tôi tiến hành:  ­ Dùng phiếu khảo sát, nghiên cứu giáo án, bài giảng. ­ Dự giờ dạy một số giáo viên  ­ Dùng phiếu khảo sát, trao đổi trực tiếp với GV, HS  * Kết quả khảo sát:  12
  13. ­ Bảng tổng hợp thông số từ quá trình khảo sát GV             Tiêu chí Rất quan  Quan  Không thật  Không quan  trọng/thường  trọng/thỉnh  quan  trọng/không có xuyên thoảng trọng/ít khi Số lượng , tỉ lệ Số lượng GV: 20 17 2 1 0 Tỉ lệ % 85% 10% 5% 0% ­ Bảng tổng hợp thông số từ quá trình khảo sát HS             Tiêu chí Rất quan  Quan  Không thật  Không quan  trọng/thường  trọng/thỉnh  quan  trọng/không có xuyên thoảng trọng/ít khi Số lượng , tỉ lệ  Số lượng HS: 80 65 9 6 0 Tỉ lệ % 81,3% 11,2% 7,5% 0% Thông qua kết quả thu được từ quá trình điều tra có thể kết luận:  Về tình hình dạy của giáo viên: - Phần lớn GV cho rằng việc hình thành và phát triển năng lực phản biện cho  HS trong dạy học Ngữ  văn là rất quan trọng và cần thiết. Số  ít GV đã xây dựng  được hệ  thống câu hỏi nhằm hướng HS đến khả  năng chủ  động, sáng tạo, khả  năng suy luận, tranh biện trong học tập. ­ Một số GV còn mơ hồ về những năng lực cần hình hình thành cho HS qua  môn học của mình. Đặc biệt nhiều GV chưa xây dựng được hệ thống câu hỏi và   bài tập phù hợp để phát triển và rèn luyện năng lực phản biện trong dạy học văn ­ Phương pháp dạy học đã có nhiều đổi mới nhưng vẫn mang tính truyền   thụ chủ yếu, coi năng nội dung. ­ Một số GV đã cố đã cố gắng xây dựng hệ thống  câu hỏi trong bài dạy phát  huy năng lực HS, tích cực hoá hoạt động của HS như: tổ chức hoạt động nhóm,  dạy học theo tình huống có vấn đề, sử  dụng sơ  đồ, tranh  ảnh…nhưng chủ  yếu  được thực hiện khi có hoạt động thao giảng, dự giờ, thi GV giỏi.  ­ Hệ thống câu hỏi, bài tập vận dụng dành cho học HS đã có đầu tư nghiên  cứu nhưng có nhiều bài tập chưa thực sự chất lượng Tình hình học tập của học sinh: ­ Một số  HS có ý thức và kĩ năng học tập tốt, có khả  năng suy luận tranh  biện, đặt vấn đề, phản biện  trong học văn. ­ Nhiều HS tham gia học Ngữ văn tâm lí hời hợt, chủ  yếu học để  thi, thiếu  hứng thú, không chủ động tự giác trong việc tiếp cận văn bản và tìm kiếm tài liệu. 13
  14. ­ Khi GV tổ chức hoạt động nhóm, một số HS làm việc, một số HS lại ỉ lại   hoặc không trình bày được ý kiến cá nhân của mình với nhóm. Nhiều HS rất  ngại  trao đổi với thầy cô, bạn bè về những vấn đề khó khăn gặp phải. 1.2.3. Những bất cập trong cách thực hành rèn luyện năng lực phản   biện cho học sinh qua dạy học các văn bản văn xuôi hiện đại (theo chương   trình và SGK Ngữ văn 11 THPT hiện hành)  Trên cơ sở kết quả thu được qua quá trình khảo sát, chúng tôi ghi nhận những   bất cập trong cách thức rèn luyện năng lực phản biện cho HS qua dạy học văn bản  văn xuôi hiện đại Ngữ văn 11 Về phía giáo viên:  ­ Giáo viên vận dụng phương pháp giảng dạy chưa phù hợp: Đa số  giáo   viên đều được đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn, tận tụy với công việc, quan tâm  đến học sinh nhưng nhiều khi vận dụng phương pháp dạy chưa phù hợp, chưa  linh hoạt, thiếu sự sáng tạo. ­  Một số GV chưa có những biện pháp sư phạm tổ chức dạy học phù hợp,  chưa tạo được hứng thú cho HS trong học văn, khả  năng khai thác tính chủ  động, phản biện ở HS còn yếu ­  Nhận thấy hệ  thống câu hỏi trong giờ  dạy học văn vẫn mang tính chung   chung, chưa có sự phân loại rõ, chưa có những câu hỏi hướng đến năng lực phản   biện.  ­ Phần lớn GV Ngữ  văn chỉ  tập trung dạy học phần lí thuyết, chưa chú  trọng thực hành,vận dụng, liên hệ  thực tế, chưa đưa ra biện pháp rèn luyện   năng lực phản biện cho người học ­ Một số  GV đã đưa ra một số  biện pháp nhất định nhằm rèn luyện năng  lực phản biện  cho người học khi dạy học văn bản văn xuôi hiện đại chương  trình Ngữ  văn 11, tuy nhiên các biện pháp này chưa phong phú, chưa cụ  thể  và  thực sự chưa hiệu quả. Như vậy, việc vận dụng dạy học văn bản văn xuôi hiện đại nói riêng, văn  bản nghệ  thuật nói chung của bộ  phận GV trong thực tiễn dạy học còn nhiều   điểm chưa thực sự  hợp lí, chưa đảm bảo đúng tư  tưởng của lí luận dạy học   phát triển năng lực, nhất là năng lực phản biện. Về phía học sinh:  ­  Phương pháp học tập không phù hợp: Đa số học sinh đều nghĩ rằng học  Văn không khó, cần nhiều chỉ số EQ (chỉ số cảm xúc) chứ không phải chỉ số IQ  (trí thông minh) nên các em chọn cách học cách máy móc mà không tư duy  ̉ ̣ ́ ực, chu đông trong hoc tâp con qua it. ­ Ti lê HS tich c ̉ ̣ ̣ ̣ ̀ ̉ ́ ́  Kha năng đặt ra các  vấn đề, tự tìm kiếm, chủ động khai thác văn bản nghệ thuật để tìm hiểu, đánh giá  và tiếp cận tranh luận, phản biện các vấn đề về văn bản còn hạn chế. 14
  15. ­ HS vẫn mang nặng ý thức học thi nên phần lớn chỉ ghi nhớ kiến thức máy  móc, học thuộc tài liệu thế bản mà không tự lực đọc văn bản, quá trình học văn  mang tính đối phó thiếu hứng thú, không hiệu quả. II. HỆ  THỐNG BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN NĂNG LỰC PHẢN   BIỆN  CHO HỌC SINH THPT QUA DẠY HỌC VĂN BẢN VĂN XUÔI HIỆN ĐẠI  TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11 1. Biện pháp đọc suy luận văn xuôi hiện đại Ngữ văn 11 1.1. Nguyên tắcđọc suy luận  Đọc suy luận là một trong những kĩ năng quan trọng trong quá trình tiếp nhận  và khai thác văn bản, suy luận giúp HS từ việc nắm bắt tầng ngôn ngữ bên ngoài  sẽ  phát hiện được lớp nghĩa hàm ngôn  ẩn giấu bên trong. Mỗi văn bản đều có   nhiều lớp nghĩa, việc của các “thám tử” tài ba không phải là chỉ ra nghĩa bề mặt,   mà phải dùng suy luận để  tìm ra nghĩa bề sâu, nói như  nhà văn Hê­minh­uê: “tác  phẩm văn học là một tảng băng trôi, ba phần chìm một phần nổi”, thì đọc suy luận   càng đóng vai trò quan trọng trong việc tìm ra phần chìm của tảng băng đó. Trong  giáo trình “Đọc hiểu và chiến thuật đọc hiểu văn bản trong nhà trường phổ thông”   của tác giả Phạm Thị Thu Hương, có đề cập đọc suy luận như sau: “Đọc suy luận   thực ra là đọc thấy những điều nằm giữa các dòng chữ, thậm chí vượt ra bên   ngoài từng dòng chữ mà nắm lấy cái thần thái của văn bản. Như vậy là việc đọc   không dừng lại ở chỗ nắm bắt những thông tin hiển ngôn, bề mặt. Nó đòi hỏi làm   sống dậy cả thế giới phong phú, sinh động mà đôi khi nhà văn chỉ điểm xuyết một   vài nét phác họa thần thái”. Qua cách hiểu trên, cùng với quá trình tìm hiểu, chúng  tôi nhận thấy đọc suy luận là một biện pháp dạy học có nhiều yếu tố tiềm năng  để HS suy luận, cắt nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi trong việc phát triển năng lực  phản biện trong dạy học đọc hiểu văn bản. Đọc suy luận đòi hỏi trong quá trình  học tập, HS phải tích cực hoạt động  hóa  và sử  dụng những tri thức của họ  về  cuộc sống, con người, về  những trải nghiệm, những kinh nghiệm thẩm mĩ trong   cuộc đời. Bởi suy luận trong văn chương không phải là “một chiều”, có những cái  tưởng rằng là nghịch lí, mâu thuẫn, đối lập, hóa ra lại nói lên cái thăm thẳm, bí ẩn   còn khuất lấp trong cuộc đời mà người học cần khám phá, khai thác.  1.2. Đọc suy luận ­  hình thức chiếm lĩnh văn bản có chủ đích  Đọc là hình thức tiếp nhận đầu tiên của quá trình hình thành và phát triển  năng lực phản biện.Đối với văn bản nghệ  thuật, nhất là văn bản văn xuôi, con  đường đầu tiên và duy nhất để khám phá thế giới nghệ thuật của tác phẩm chính   là đọc. Đọc hay đọc suy luận là một quá trình "nhận thức" phức tạp của việc giải  mã các biểu tượng để  tạo ra ý nghĩa. Giống như  ngôn ngữ, nó là một sự  tương  tác phức tạp giữa các văn bản và người đọc được định hình bởi kiến thức của  người đọc, kinh nghiệm, thái độ, cộng đồng ngôn ngữ, phụ thuộc vào văn hóa và  xã hội cụ thể.  Đọc suy  lu   ận  là kh   ả năng xử lý văn bản, hiểu ý nghĩa của nó và    tích hợp với những gì người đọc đã biết.   Trong quá trình học văn, người học phải  15
  16. tự  mình đọc văn bản, tự  mình cảm nhận được những giá trị  thẩm mĩ được nhà  văn chắt lọc, gửi gắm qua câu chuyện, qua cuộc đời và số phận nhân vật từ đó  nắm bắt được mạch ngầm cảm xúc, tư tưởng. Có nhiều cách đọc hiểu văn bản,  đại thể gồm các bước đọc hiểu theo trình tự: Đọc ­ hiểu ngôn từ là khả năng đọc  và hiểu được từ  ngữ  trong tính đa nghĩa, giàu giá trị  biểu đạt, các phương  tiện  nghệ thuật, … Khi đọc văn bản cần hiểu được cách diễn đạt, nắm bắt dụng  ý  của nhà văn trong xây dựng kết cấu truyện, tình huống truyện, lời trần thuật,   ngôn ngữ độc thoại, ngôn ngữ đối thoại. Sau đó mới đến   đọc ­ hiểu và suy luận về  hình tượng nghệ  thuật: mỗi  hình tượng nhân vật (có thể  là con người, cũng có thể  con vật hoặc đồ  vật đã  được nhân cách hóa) không thể hiểu một cách đơn nghĩa bởi đặc trưng nổi bật  của ngôn ngữ  nghệ thuật là hàm súc, đa nghĩa, giàu hình tượng. Do đó, người  đọc cần nhìn ra những kí thác của nhà văn qua hình tượng nhân vật. Khi người  đọc không có khả năng suy luận thì mọi giá trị của tác phẩm sẽ “chết” trên trang  sách của nhà văn. Khi đọc suy luận để nắm bắt hình tượng nghệ thuật, người đọc sẽ nhận ra  những tư tưởng, thông điệp, những phát biểu của nhà văn, dù ngôn từ không trực  tiếp giãi bày, thì người đọc vẫn nhận ra trạng thái tình cảm, cảm xúc mãnh liệt ở  tác giả qua văn bản. Câu nói cuối cùng của nhân vật Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao) ­ Ai cho tao lương thiện?  Giây phút Chí nhận ra khao khát đó vẫn còn tồn tại trong mình cũng là khi  Chí nhận ra hắn mãi mãi không thể có được nó.  Chí Phèo nhận ra qua từng chặng đường mình đã qua, những gì mình đã làm   khiến không ai có thể dung nạp một kẻ như hắn làm lại từ  đầu.Tao muốn làm   người lương thiện! Ai cho tao lương thiện? câu nói chất đầy nỗi căm hờn, phẫn  uất và cả nỗi đau đớn không gì diễn tả được. Căm hờn, phẫn nộ đối với kẻ thù   được   gói trong câu nói  Ai cho tao lương thiện?, hay ai đã cướp đi cuộc đời  lương thiện của tao? Chí Phèo ném vào mặt kẻ thù của cuộc đời những câu nói  đanh thép mà bất lực,tuyệt vọng. “không, tao không thể  là người lương thiện   được nữa, hiểu không...?nó khiến cho những ai có lương tri đếu cảm thấy đau  lòng, đều phải ưu tư. Những tâm trạng chua xót, bi thương và bế tắc ấy đã thể  hiện trong những trang cuối truyện Chí Phèo, bằng khả  năng cảm nhận và suy  luận của người học chúng ta thấy được: Nỗi đau của con người lao động bị  tước đoạt quyền sống, quyền làm người, bị  chà đạp và xô đẩy đến con người  tha hóa rồi lưu manh và ngay cả  khi lòng ham sống, khát vọng lương thiện trở  về, người lao động ấy cũng không được đón nhận, sự  phi nghĩa và tàn bạo của  chế độ xã hội phong kiến nông thôn Việt Nam trước Cách Mạng Tháng 8­1945  được nhà văn Nam Cao lột tả  đến tột đỉnh: Nó không chỉ  bóp méo hình hài và  nhân phẩm Chí mà nó, chính nó đã tước đoạt mạng sống và khát vọng làm   16
  17. người lương thiện của người lao động. Và nỗi đau của nhà nhân đạo trước tình  trạng xói mòn của nhân cách con người trong xã hội phi nhân tính đó. GV trong quá trình hướng dẫn HS tìm ra những lớp ý nghĩa sau tầng ngôn  từ của văn bản, có thể đặt ra những vấn đề về thực tiễn cuộc sống cho HS tiếp   tục suy luận và tìm hiểu: trong cuộc sống hiện đại của chúng ta còn hay không   lời khẩn thiết đau đớn của con người về khát vọng: Ai cho tôi lương thiện? 1.3. Biện pháp đọc suy luận trong dạy học văn bản văn xuôi hiện đại   trong chương trình Ngữ văn 11 1.3.1. Biện pháp đọc suy luận Trong quá trình đọc ­hiểu tác phẩm văn học, GV phải luôn luôn định hướng  cho HS cách đối thoại với văn bản  từ bối cảnh xác định của người học. Điều này  có nghĩa là, người học phải đọc hiểu tác phẩm trong quá trình vận dụng, liên hệ và  mở rộng nhận thức của mình về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, ý đồ sáng  tạo của nhà thơ, nội dung, tư tưởng và cảm hứng cũng như những mục đích, yêu   cầu, cảm xúc cụ  thể của quá trình sáng tạo trong mối quan hệ với năng lực của   người học. Có thể nói quá trình đọc hiểu tác phẩm văn học là một quá trình đối  thoại, đối thoại với tác giả, với cách hiểu của người đọc trước, với những cách  cảm, cách hiểu, cách lí giải, thẩm bình về tác phẩm của chính những người học ­  HS đặt trong lớp học cụ thể, giờ học cụ thể về tác phẩm văn học cụ thể. Người học  ở  đây là một lớp độc giả  đặc biệt – người đọc có một môi   trường đọc ­ hiểu cụ thể, xác định và mang tính định hướng sâu sắc. Đó là đọc  hiểu tác phẩm văn xuôi hiện đại giai đoạn 1930 ­1940 trong các giờ  học Ngữ  văn ở trường THPT.  Dạy học đọc ­ hiểu văn bản văn xuôi hiện đại trong nhà trường theo hướng  lấy HS làm trung tâm của lí thuyết tiếp nhận vừa kết hợp nguyên lí lấy học sinh   làm trung tâm của hoạt động dạy ­ học. Khi dạy học đọc hiểu theo hướng phát  triển năng lực sẽ tạo ra quá trình đối thoại giữa người học với tác phẩm hay với  tác giả. Bởi vì việc đọc ­ hiểu là một quá trình cảm thụ và tư  duy về tác phẩm  mang tính cá thể  hóa cao độ, gắn với cảm xúc, trình độ, năng lực, trí tuệ  của  người học (gắn với năng lực cá nhân). Vì thế, đọc suy luận là một quá trình tìm  hiểu ý nghĩa của tác phẩm cũng như quá trình tương tác nhiều chiều. Khi hướng   dẫn HS đánh giá văn bản, GV cần hiểu được tâm lí HS, cần có định hướng cụ  thể, càng khuyến khích được sự chủ động bày tỏ chủ kiến suy luận, phản biện   của người học thì việc khai mở giá trị tác phẩm càng sâu sắc và phong phú, điều  này đòi hỏi GV có nhiều kinh nghiệm và sự  đầu tư  trong hướng dẫn đọc hiểu  các tài liệu thế bản, đề  làm nền cho việc đánh giá, khảo sát giá trị  văn bản có   điểm tựa và chiều sâu hơn. Theo nhà lí luận văn học Bakhtin thì tác phẩm là một  phát ngôn mang “nhiều tiếng nói” có quan hệ  với tác giả  với hiện thực và với   người đọc. Người đọc giữ  một vai trò quan trọng trong việc tham dự  vào việc  khai thác, khám phá vẻ đẹp của tác phẩm. Vì thế, để HS có được năng lực phân  tích, đánh giá văn bản nhất là văn bản văn xuôi hiện đại giai đoạn 1930 ­1945,   17
  18. GV cần có năng lực chỉ dẫn khéo léo để HS tự mình nhìn ra giá trị to lớn của tác   phẩm bằng khả năng phân tích, lí giải, phản biện của bản thân. 1.3.2. Hướng dẫn học sinh đọc suy luận GV hướng dẫn HS sử dụng biện pháp đọc suy luận để  lí giải những vấn  đề của văn bản. Trong văn bản “Hai đứa trẻ ” của Thạch Lam. GV nêu vấn đề:   Trong  truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, nhà văn Thạch Lam  xây dựng không gian và   thời gian khá đặc biệt: trong không gian đóng khung là một phố  huyện nghèo,  với những không gian là phiên chợ tàn, cửa hàng nhỏ của chị em Liên, gánh hàng  nước của chị Tí nơi gốc cây bàng, và chuyến tàu đêm đi qua. Thời gian là một sự  vận động  ở  ba lát cắt: phố  huyện lúc chiều tàn; phố  huyện về  đêm và phố  huyện khi về khuya. Vậy, các em thử  suy luận xem tại sao tác giả  lại có sự  lựa chọn về  bối   cảnh không gian cố định phố huyện và thời gian lại vận động ở ba khoảnh khắc   từ chiều tàn đến đêm khuya ? Liệu rằng có thể  thay đổi trật tự  về  thời gian trong kết cấu nghệ thuật   này được không? Vì sao? Có thể cho hình ảnh chuyến tàu đi ngang phố huyện vào lát cắt thời gian   thứ hai: khi phố huyện về đêm có được không? Vì sao? Để  giải quyết vấn đề  nêu trên, các em ghi vắn tắt cách lí giải vào sơ  đồ,  sau đó trình bày những suy luận mà bản thân phát hiện. 1.3.2. Năng lực phản biện được thể  hiện sau quá trình vận dụng biện   pháp đọc suy luận Trước vấn đề GV đặt ra, HS suy luận về cách kết cấu không gian và thời   gian nghệ  thuật của tác phẩm,cùng những gợi ý dẫn dắt, HS cần phải suy xét  xem nên suy luận thế nào cho hợp lí, căn cứ vào đâu mà ta đưa ra nhận xét như  thế. HS cũng có thể  phản bác lại quan điểm của HS khác, đưa ra những kiến  giải cho riêng mình, lí giải được vì sao tác giả  có sự  lựa chọn đặc biệt như  vậy ? HS tranh luận lại và chứng minh để  đưa ra thông tin đúng, thông qua cách  lập luận của riêng mình. Vì thế,năng lực phản biện được hình thành và thể hiện rõ  trong hoạt động vận dụng kiến thức, kĩ năng và thái độ  xử lí tình huống học tập   trên.Như vậy khi đứng trước một vấn đề có ý nghĩa của tác phẩm về mặt nghệ  thuật hay nội dung, GV cần tạo nên một hệ  thống câu hỏi nhằm dẫn dắt HS   bước vào quá trình tìm hiểu, lí giải, suy luận. Các câu hỏi có thể  sử  dụng như  sau: Vì sao nhà văn lại lựa chọn như thế này? ta có thể thay thế hoặc xáo đổi vị   trí của (lời nói/ chi tiết/ hình ảnh....) không? vì sao? 18
  19. + Vì sao nhà văn Thạch Lam không đặt ra vấn đề về cái đói cái khổ một cách   cụ thể và sâu sắc như trong truyện ngắn “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố và Lão Hạc   của Nam cao? +  Điều mà Thạch Lam muốn nói qua bức tranh cuộc sống của con người   nghèo đói, lay lắt của phố huyện là gì?  Anh/ chị  có thể  nhận ra sự  khác biệt trong nghệ  thuật miêu tả  nhân vật  ở   ngòi bút Thạch Lam? so sánh với nghệ thuật miêu tả nhân vật ở nhà văn Nam Cao? Những phân tích và lí giải ở trên, GV có thể “bắt” lấy và hướng dẫn HS chỉ ra   và lí giải đặc trưng phong cách nghệ thuật Thạch Lam. ­ GV khuyến khích HS vừa đọc vừa lí giải, suy luận vừa ghi chép lại những   suy nghĩ của mình, đây là cách để HS thâm nhập vào văn bản sâu hơn, luôn đặt ra   những câu hỏi,biết soi chiếu vấn đề ở nhiều góc cạnh, ở nhiều điểm nhìn, trong   sự  so sánh với tác giả, tác phẩm khác. Khơi tạo con đường đi đến một thói quen  trong học tập: không ngừng phản biện để tìm ra những giá trị thực của tác phẩm. 2. Biện pháp tranh biện trong đọc ­ hiểu văn xuôi hiện đại  Ngữ  văn   11 2.1. Biện pháp dạy ­ học Ngữ văn bằng tranh biện  Tranh biện là một trong những biện pháp dạy học hữu ích giúp HS giải   quyết những vấn đề mà bản thân còn đang cảm thấy mâu thuẫn, xung đột…, từ  đó giúp các em nâng cao và mở rộng kiến thức, tôn trọng khách quan, đồng thời   phát triển nhiều năng lực quan trọng, trong đó bặc biệt có năng lực phản biện.  Theo Từ điển Anh ngữ Oxford: “Tranh biện (debate) là thảo luận chính thức về  một vấn đề cụ thể được đưa ra thảo luận công khai hoặc tại một hội đồng lập   pháp. Trong buổi tranh biện, các lập luận phản biện đưa ra một cách luân phiên   và thường kết thúc bằng một cuộc bỏ  phiếu/ bầu chọn” . Theo từ   điển Hán   Việt từ nguyên của Bửu Kế đã định nghĩa “tranh” là “giành”; “biện” là “cãi lẽ”;   “tranh biện” là “cãi lẽ  để  giành lẽ  phải về  phần mình”; “Tranh biện” đồng   nghĩa với “Tranh luận” Theo cách hiểu của chúng tôi, biện pháp tranh biện là  cách thức tổ chức cho hoạt động tranh biện được diễn ra theo một trình tự nhất  định, có phương pháp, có những hoạt động phù hợp với vấn đề  được đưa ra  tranh biện, giúp chủ  thể  trong quá trình tổ  chức tranh biện sắp xếp được thời   gian, địa điểm và dự  kiến được những diễn biến trong quá trình tranh biện, từ  đó đem đến kết quả cao trong quá trình diễn ra hoạt động tranh biện. Như vậy,  tranh biện là là một biện pháp thể  hiện sự đối thoại trong tư  duy giữa các chủ  thể, bằng cách sử  dụng ngôn ngữ  và các yếu tố  biểu đạt phi ngôn ngữ  (bảng  ,biểu, sơ  đồ, mô hình...)bổ  trợ  để  thể  hiện quan điểm, chứng minh ý kiến của   mình là đúng, bác bỏ  quan điểm phiến diện bằng hệ  thống các lập luận logic.  Đó là cách giải quyết những xung đột, mâu thuẫn giữa các quan điểm khác nhau   nhằm thuyết phục chính bản thân mình hoặc người khác đồng tình với những   19
  20. luận điểm mình đưa ra, qua đó chọn ra được phương án tối ưu cho các chủ thể  được tranh biện.  Trong day học Ngữ văn, biện pháp tranh biện là một hình thức dạy học tích  cực,nhằm phát huy cao độ khả năng chủ động sáng tạo của HS, đồng thời trong   quá trình trao đổi, thảo luận, đưa ra ý kiến, người học buộc phải trải qua quá  trình không ngừng nỗ  lực tìm kiếm thông tin, thu thập kiến thức, rèn  luyện kĩ  năng trình bày. Qua đó năng lực giao tiếp, năng lực phản biện được hình thành  và phát triển. Dạy học văn đòi hỏi GV không ngừng xây dựng các tình huống có   tính vấn đề, đặt ra nhiều câu hỏi và bài tập có tính phức tạp để khích lệ HS nhu   cầu lí giải, tìm hiểu, phản biện. Làm được điều đó, chính là chúng ta đang tiệm  cận gần hơn đến con đường dạy học tích cực Đối với giai đoạn văn học 1930 ­1945, các tác phẩm văn xuôi đều đặt ra  nhiều vấn đề  có tính đời sống sâu sắc, bức tranh xã hội về  cuộc sống, con   người được các nhà văn xây dựng khá chân thực. Việc GV xây dựng được các   “cuộc” tranh biện giữa các HS, hoặc giữa các nhóm HS với nhau sẽ  góp phần  làm vỡ vạc những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc trong từng thiên truyện,  đồng thời giúp HS có được cái nhìn cuộc sống chân thực hơn, hiểu sâu hơn, tiến  gần hơn đến cuộc sống hàng ngày của chúng ta 2.2. Yêu cầu khi dạy học bằng biện pháp tranh biện Đọc hiểu văn bản cũng như tổ chức hoạt động tranh biện trong dạy học đọc ­   hiểu văn bản nghệ  thuật nói chung, văn xuôi hiện đại 1030­ 1945 nói riêng phải  tiến hành trong mối liên hệ với ngữ cảnh của văn bản, tức hoàn cảnh sáng tác, bối  cảnh lịch sử xã hội. Thời đại nào sẽ cho ra đời kiểu văn học ấy. Văn xuôi hiện đại  Việt Nam giai đoạn 1930 ­ 1945 là một giai đoạn lịch sử đặc biệt. Tình hình xã hội  Việt Nam phức tạp, nhân dân chịu sự áp bức của bộ máy thống trị thực dân phong  kiến, đời sống của nhân dân lao động chìm đắm trong khổ đau, ngột ngạt. Nhiều   bộ phận và xu hướng văn học ra đời, trong đó có ba dòng văn học phát triển song   song: Văn học hiện thực ,văn học lãng mạn và văn học cách mạng. Vì thế, khi  hướng dẫn HS đọc hiểu văn xuôi giai đoạn này, nếu GV không nắm vững kiến   thức nền ­ văn học sử, nếu GV không định hướng sâu sắc xu hướng, cảm hứng và  yêu cầu của thời đại hoặc những ảnh hưởng của văn hóa, lịch sử, xã hội đối với   văn xuôi giai đoạn này, vô hình dung sẽ làm mờ  đi “linh hồn” của tác phẩm, làm  mờ đi ranh giới của các xu hướng văn học. Không phải ngẫu nhiên Nam Cao gặt hái được thành công to lớn khi viết về  người nông dân ­ mảnh đất đã được cày xới khá kĩ càng bởi những cây bút lớn:  Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Phạm Duy Tốn…,càng không thể  ngẫu nhiên   Nam cao bén duyên với dòng văn học hiện thực sau khi thử duyên với những tác  phẩm lãng mạn đầu tay. Đó là bởi Nam Cao trước hết là một người nông dân, đời  sống và con người nơi làng quê ông đã rống lên tiếng khóc thê thiết trước cái đói,  cái khổ, cái áp bức, bóc lột đến tàn tận. Hoàn cảnh ấy, môi trường ấy đã đưa đến   cho nhà văn chân chính Nam Cao những trăn trở  và khám phá có giá trị  sâu sắc,  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2