Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kỹ năng làm bài nghị luận văn học trong đề thi THPT quốc gia qua hai tác phẩm người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân và ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường
lượt xem 4
download
Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là chuyến đi tới Tây Bắc của nhà văn đồng thời cũng là cảm hứng chủ đạo của cả tập ký là tìm kiếm chất vàng mười của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là chất vàng mười – “thứ vàng đã qua thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động vùng núi sông hùng vĩ và thơ mộng này. Chất vàng mười tâm hồn ấy đã được kết tinh qua vẻ đẹp độc đáo của nhân vật người lái đò Sông Đà.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kỹ năng làm bài nghị luận văn học trong đề thi THPT quốc gia qua hai tác phẩm người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân và ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường
- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập- Tự do- Hạnh phúc BẢN ĐĂNG KÝ SÁNG KIẾN NĂM 2018 TÊN SÁNG KIẾN: RÈN KỸ NĂNG LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VĂN HỌC TRONG ĐỀ THI THPT QUỐC GIA QUA HAI TÁC PHẨM NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄN TUÂN VÀ AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG? – HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Tác giả sáng kiến: Tạ Anh Ngọc, Hoàng Thị Lâm, Tạ Hoàng Tâm, Đặng Thị Mai Hoa Đơn vị công tác: Tổ Ngữ văn Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy Ninh Bình, tháng 5 năm 2018 1
- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi (1): Sở giáo dục và đào tạo Ninh Bình Chúng tôi ghi tên dưới đây: Tỷ lệ (%) Trình độ đóng góp Ngày tháng TT Họ và tên Nơi công tác Chức vụ chuyên vào việc năm sinh môn tạo ra sáng kiến Trường THPT Giáo viên 1 Tạ Anh Ngọc 09/12/1976 chuyên Lương Thạc sĩ 25% Ngữ Văn Văn Tụy Trường THPT Giáo viên 1 Hoàng Thị Lâm 25/07/1980 chuyên Lương Thạc sĩ 25% Ngữ Văn Văn Tụy Trường THPT Giáo viên 2 Tạ Hoàng Tâm 22/03/1981 chuyên Lương Thạc sĩ 25% Ngữ Văn Văn Tụy Trường THPT Đặng Thị Giáo viên 2 09/08/1987 chuyên Lương Thạc sĩ 25% Mai Hoa Ngữ Văn Văn Tụy I. Tên sáng kiến, lĩnh vực áp dụng Là nhóm tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến RÈN KỸ NĂNG LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VĂN HỌC TRONG ĐỀ THI THPT QUỐC GIA QUA HAI TÁC PHẨM NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄN TUÂN VÀ AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG? – HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Lĩnh vực áp dụng: Dạy học Ngữ Văn ở trường THPT, ôn thi THPT Quốc gia. 2
- II. Nội dung sáng kiến 1. Giải pháp cũ thường làm Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường là hai nhà văn có thực tài về thể kí. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 tập 1 đã giới thiệu hai tác phẩm tiêu biểu cho phong cách viết kí của hai nhà văn, đó là tác phẩm Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhưng thực tế khi giảng dạy và ôn thi THPT Quốc gia, GV và HS thường chỉ tập trung vào các tác phẩm thuộc thể loại khác dễ nắm bắt, khám phá hơn như thơ, truyện ngắn, kịch mà chưa có sự quan tâm thích đáng đến thể ký. Thể kí là một thể loại đặc biệt nếu thầy cô chỉ quan tâm tới những kiến thức có sẵn trong bài văn thì khó mà giảng hay được, dẫn đến giờ học bài kí muôn thuở vẫn khô khan, học sinh khó tiếp nhận được văn bản. Vì thế, có thể khẳng định rằng: giảng dạy một tác phẩm kí là sự khó khăn, vất vả, công phu đối với giáo viên. Hơn nữa hai nhà văn đều là những cây bút tài hoa uyên bác, thể hiện trên trang viết những tri thức đa ngành, những liên tưởng tạt ngang tạt dọc khiến hai tác phẩm đều khó nắm bắt với đối tượng học sinh. Vì vậy các em đa phần đều “ngại” hai tác phẩm này. Để giúp GV và nhất là học sinh có kiến thức và kĩ năng làm dạng bài nghị luận văn học (dạng bài chiếm nhiều điểm nhất trong đề thi THPT Quốc gia) về thể kí, chúng tôi đã chọn đề tài này. Từ trước đến nay, với nhiều hướng tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu thường đi sâu tìm hiểu cách dạy học hai tác phẩm trên theo đặc trưng thể loại, theo chủ đề... Thực tế hầu hết các công trình, bài viết, các sách tham khảo hiện nay mới chỉ dừng ở việc hướng dẫn HS dạng đề phân tích cảm thụ; hoặc chỉ một số dạng đề nghị luận một ý kiến bàn về văn học hay dạng đề so sánh. Chưa có đã có nhiều bài bình luận, phân tích, cảm nhận về hai tác phẩm trên nhưng chưa có một công trình, bài viết nào rèn luyện cho học sinh những kĩ năng làm dạng đề nghị luận văn học qua hai tác phẩm này với ba dạng cơ bản nhất (dạng đề phân tích cảm thụ; dạng đề bàn luận về một ý kiến văn học; dạng đề liên hệ - so sánh, đặc biệt là liên hệ với kiến thức chương trình Ngữ văn 11). Với phương pháp tìm hiểu vấn đề như trên, có thể nhận thấy những ưu, nhược điểm như sau: * Ưu điểm: - Cung cấp cho học sinh kiến thức chuẩn của từng bài, đảm bảo nhu cầu nắm “cấp tốc” kiến thức để phục vụ kiểm tra, thi cử. * Nhược điểm: 3
- - Người học không có được cái nhìn hệ thống về hai tác phẩm ký. Không được rèn kỹ năng làm đề. Trong khi đây là mục tiêu quan trọng hàng đầu để các em đạt điểm cao trong bài thi THPT Quốc gia cũng như trong tất cả các kỳ thi. - Phương pháp cũ cũng không đáp ứng được yêu cầu tích hợp, liên môn, rèn kỹ năng, phát triển năng lực theo hướng đổi mới giáo dục hiện nay. Đề tài của chúng tôi đã cung cấp những tri thức và kĩ năng cơ bản nhất để phục vụ cho công việc giảng dạy của giáo viên cũng như ôn thi THPT Quốc gia cho các em học sinh. 2. Giải pháp mới cải tiến Trước thực tế ấy, chúng tôi luôn trăn trở tìm ra cách để giúp HS nắm được các kỹ năng phương pháp làm các dạng đề nghị luận văn học qua hai tác phẩm ký tiêu biểu trong chương trình, nhằm tạo hứng thú cho cả người dạy và người học; phát triển toàn diện năng lực HS, đáp ứng được các yêu cầu của đề thi THPT Quốc gia. Chúng tôi đã vận dụng đề tài vào thực tế giảng dạy và ôn thi THPT Quốc gia cho HS và đã đạt được những hiệu quả mong đợi. Có thể nói đây là một đề tài có ý nghĩa quan trọng, thiết thực, hiệu quả trong việc rèn kỹ năng, phương pháp cũng như cung cấp kiến thức cho HS. Cụ thể như sau: Tính mới, tính sáng tạo: ` - Với đối tượng nghiên cứu là “Rèn kỹ năng làm bài nghị luận văn học trong đề thi THPT Quốc gia qua hai tác phẩm Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường”, người viết tập trung chủ yếu vào việc: + Hệ thống một cách khoa học các dạng đề và kỹ năng, phương pháp làm dạng bài nghị luận văn học (3 dạng đề nghị luận văn học cơ bản: dạng đề phân tích, cảm thụ tác phẩm văn học; dạng đề nghị luận một ý kiến bàn về văn học; dạng đề so sánh văn học). + Hệ thống ngắn gọn, khoa học các kiến thức cơ bản về tác giả, tác phẩm. + Hệ thống đề luyện tập phong phú, mới mẻ về hai tác phẩm. + Làm rõ yêu cầu và phương pháp, kĩ năng làm bài của - Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như: - Khảo sát, thống kê: xử lí tài liệu, tìm ra những nét nổi bật trong phong cách viết kí của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường. - Phân tích, tổng hợp: chứng minh, lí giải, khái quát để làm sáng tỏ yêu cầu của các dạng đề liên quan đến hai tác phẩm. 4
- - So sánh đối chiếu: được sử dụng để tìm ra sự tương đồng và khác biệt giữa các đối tượng được so sánh trong dạng bài liên hệ - so sánh vấn đề văn học của lớp 12 với vấn đề của lớp 11. Với cách làm như vậy, chúng tôi đã khắc phục được hạn chế của những giải pháp truyền thống khi tìm hiểu hai tác phẩm trên. Đó là chỉ quan tâm đến tri thức, kiến thức. Đề tài này ngoại hệ thống kiến thức khoa học, logic, đầy đủ còn có cả hệ thống phương pháp làm bài và các dạng đề luyện tập phong phú, phục vụ hữu ích cho GV và HSđã cung cấp cho GV những tài liệu thiết thực ý nghĩa cho quá trình giảng dạy, ôn tập và rèn luyện những kỹ năng, phương pháp làm bài cho HS. III. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội dự kiến đạt được 1. Hiệu quả kinh tế HS thường phải chi phí rất nhiều tiền của để mua các sách tham khảo (ước tính trung bình 100. 000 đồng/ quyển), học các khóa học trên mạng xã hội để ôn thi THPT Quốc gia (khoảng vài trăm ngàn đồng). Đề tài này của chúng tôi sẽ giúp các em HS và các GV tiết kiệm một khoản chi phí lớn. Đây là tài liệu bổ ích để các GV tham khảo giảng dạy, ôn tập cho HS; cũng là tài liệu hữu ích giúp các em HS ôn thi THPT Quốc gia hiệu quả. 2. Hiệu quả xã hội - Giúp ích cho việc giảng dạy, ôn tập của GV; ôn thi THPT Quốc gia của HS. - Khơi gợi niềm hứng thú, say mê khám phá thể kí, thấy được phong cách nghệ thuật đặc sắc của hai nhà văn. IV. Điều kiện và khả năng áp dụng Có thể áp dụng cho việc giảng dạy, học tập và ôn thi THPT Quốc gia Vì vậy, sáng kiến này rất phù hợp đối với đối tượng là GV và HS trong nhà trường phổ thông. Chúng tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO Ninh Bình, ngày 1 tháng 5 năm 2018 ĐƠN VỊ Người nộp đơn 5
- PHỤ LỤC DANH MỤC VIẾT TẮT 1. GV: Giáo viên 2. HS: Học sinh Rèn kỹ năng làm bài nghị luận văn học trong đề thi THPT Quốc gia qua hai tác phẩm Nguời lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường A. PHƯƠNG PHÁP LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VĂN HỌC I. Các bước làm bài nghị luận văn học nói chung. - Bước 1: Đọc kĩ đề bài, xác định rõ yêu cầu về nội dung và thể loại của đề. - Bước 2: Tìm ý và lập dàn ý( dùng kí hiệu đánh dấu rõ ràng các cấp độ ý, các ý trọng tâm cần nhấn mạnh và phân bố thời gian hợp lí cho mỗi ý) - Bước 3: Viết bài (trong quá trình viết cần lưu ý tới thời lượng đã phân cho mỗi ý để đảm bào độ sâu và hoàn chỉnh trọn vẹn được bài viết) - Bước 4: Đọc lại bài, soát lỗi các loại, hoàn chỉnh bài viết. Yêu cầu chung: Xuất phát từ đặc trưng thể loại của tác phẩm, đoạn trích để tìm hiểu, phân tích hoặc cảm nhận. II. Phương pháp làm bài dạng đề cảm thụ, phân tích văn học: Đây vẫn là dạng bài cơ bản, cần thiết mà HS phải thông thạo, nhuẫn nhuyễn, bởi nó là cơ sở để triển khai các dạng bài đòi hỏi kĩ năng phức tạp hơn: nghị luận về một ý kiến bàn về văn học; dạng đề so sánh... 1. Mở bài: bằng nhiều cách (giới thiệu dẫn dắt,nêu câu hỏi dẫn dắt, phản đề...Tuy nhiên cách an toàn và thông thường là giới thiệu dẫn dắt, theo mô hình: Thời đại văn học (hoặc trào lưu văn học) – tên tác giả - tên tác phẩm – giới hạn đoạn trích hoặc giới thiệu nhân vật –Sơ lược nội dung đoạn trích hoặc đặc điểm, ý nghĩa nổi bật của nhân vật. 2. Thân bài: cần đảm bảo các ý theo trình tự 6
- + Về tác giả (Những thông tin cơ bản về tiểu sử, những nét tính cách đặc trưng có ảnh hưởng, ghi dấu trong sáng tác) + Về tác phẩm: xuất xứ, hoàn cảnh ra đời, nhan đề, lời đề từ, thể thơ...; một vài đánh giá, nhận xét nổi bật của các nhà nghiên cứu về tác phẩm. + Về đoạn thơ, khổ thơ (vị trí, vai trò của nó đối với toàn bộ bài thơ) hoặc về nhân vật (vị trí, ý nghĩa của nhân vật trong truyện) + Phân tích, cảm nhận về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm hoặc đoạn trích. (Chú ý: Luôn bám sát việc phân tích, cảm nhận các yếu tố nghệ thuật để từ đó làm hiển lộ nội dung cảm xúc và tư tưởng của tác phẩm hoặc đoạn trích. Trong quá trình phân tích cần liên hệ, so sánh giữa yếu tố đang phân tích với các yếu tố tương tự ở tác phẩm khác của cùng tác giả hoặc của tác giả khác (cùng thời hoặc khác thời) để thấy được giá trị riêng biệt của yếu tố đang phân tích) Hoặc phân tích nhân vật: xuât thân, đặc điểm tính cách, lời nói, hành động, suy nghĩ, diễn biến tâm trạng (chú ý khai thác lời độc thoại hoặc độc thoại nội tâm với nhân vật trong truyện ngắn hoặc đoạn trích tiểu thuyết, chú ý lời đối thoại đối với nhân vật kịch...)... + Đánh giá, khái quát về tác phẩm hoặc đoạn trích (đánh giá về đóng góp, giá trị của đoạn trích trong tổng thể tác phẩm, đánh giá tác phẩm trong sự nghiệp sáng tác của tác giả hoặc trong trào lưu, thể loại ...hoặc đóng góp của tác giả với giai đoạn văn học về các mặt : thể loại, ngôn ngữ, đề tài, cách biểu hiện...) + Liên hệ: từ nội dung tư tưởng của đoạn thơ, bài thơ hoặc ý nghĩa hình tượng nhân vật,liên hệ với thực tiễn đời sống xã hội hoặc bản thân để rút ra suy ngẫm, bài học nhận thức và hành động... 3. Kết bài: khái quát nội dung chính đã phân tích của đoạn thơ, bài thơ. Gợi mở hướng suy nghĩ mới hơn, rộng hơn về đoạn thơ, bài thơ, về truyện ngắn, đoạn trích hay nhân vật.. III. Phương pháp làm bài dạng đề nghị luận về một ý kiến bàn về văn học. Kiểu bài nghị luận về một ý kiến bàn về văn học là kiểu bài phổ biến trong các đề thi ngữ văn ( cả đề thi học sinh giỏi lẫn đề thi THPT Quốc gia). Tuy nhiên nhiều em học sinh đặc biệt là học sinh không thuộc các lớp chuyên văn còn đang rất lúng túng trong kĩ năng làm kiểu bài này. Rất nhiều em không phân biệt rõ được các dạng đề nên sa đà vào phân tích lan man hoăc không biết bắt đầu từ đâu. Để làm tốt kiểu bài này các em cần cónhững kĩ năng nhất định cách làm bài như sau: 7
- 1.Mở bài. Khái quát vấn đề và dẫn dắt vào ý kiến 2.Thân bài. Bố cục thân bài ở dạng đề này bao giờ cũng gồm 3 phần. 2.1. Giải thích ý kiến: - Trong kiểu này giải thích thường là bước đầu tiên và là khâu quan trọng của bài viết. Giải thích giúp học sinh tìm được vấn đề nghị luận . Giải thích nhằm trả lời các câu hỏi: Đề bàn về vấn đề gì? Từ đó đưa đến nhận thức sâu sắc và toàn diện về vấn đề nghị luận. - Yêu cầu đối với phần giải thích là học sinh cần nắm chắc những kiến thức lí luận văn học cơ bản, những thuật ngữ văn học và vận dụng phù hợp trong quá trình giải thích. Trong phần giải thích chỉ giải thích những từ ngữ, hình ảnh còn ẩn ý hoặc chưa rõ nghĩa, tránh giải thích quá nhiều từ ngữ dẫn đến lan man, dàn trải.Thao tác giải thích cần trải qua các bước cụ thể: + Bước thứ nhất: Giải thích cắt nghĩa từ ngữ, hình ảnh, khái niệm, cách diễn đạt... mang chứa vấn đề nghị luận được đặt ra ở đề bài. + Bước thứ hai: Khái quát nội dung, ý nghĩa của nhận định trong đề bài. Trên cơ sở đó xác định được chính xác vấn đề cần bàn luận. 2.2.Bình luận + chứng minh ý kiến. *Bình luận: - Bàn luận vấn đề trong văn nghị luận văn học là bàn bạc và đánh giá về sự đúng, sai, hay dở, lợi, hại của ý kiến .Trong bài nghị luận văn học có yếu tố lí luận văn học, bàn luận vấn đề có thể trở thành một ý của phần thân bài. Phần bàn luận thường trải qua các bước như sau: + Bước thứ nhất: Học sinh cần đề xuất ý kiến bình luận.Tùy theo tính chất của vấn đề cần bình luận, học sinh cần khẳng định tính chất đúng, sai, tốt, xấu của vấn đề cần nghị luận một cách khách quan, trung thực. + Bước thứ hai: Cần lí giải vì sao nhận định lại nói như vậy. *Chứng minh. - Mục đích của chứng minh là vận dụng kiến thức lí luận văn học , tác giả, hoặc tác phẩm văn học cụ thể để làm sáng tỏ vấn đề. - Phần này yêu cầu học sinh cần bám sát vào định hướng của đề bài vì chứng minh nhận định từ kiến thức văn học không được lạc sang phân tích tác phẩm, không sao chép nguyên si, máy móc toàn bộ kiến thức về tác phẩm vào bài viết mà phải lựa chọn, chắt 8
- lọc những đơn vị kiến thức phù hợp, hợp lí, đúng yêu cầu của đề. Cần có hệ thống luận điểm theo đúng yêu cầu của đề để làm rõ vấn đề nghị luận. - Các bước chứng minh + Bước thứ nhất: trình bày khái quát kiến thức tác giả, tác phẩm được lựa chọn làm dẫn chứng để chứng minh. + Bước thứ hai: xây dựng hệ thống luận điểm cho bài. Đề bàn về một ý kiến bàn về văn học không tách rời với việc phân tích cảm thụ tác phẩm văn học và để không bị lạc sang kiểu bài phân tích thông thường người viết phải xây dựng luận điểm bám sát ý của nhận định đã được triển khai ở phần bàn luận vấn đề, sau đó vận dụng kiến thức từ tác phẩm văn học đã chọn để chứng minh. 2.3.Đánh giá, mở rộng nhận định. Mục đích của việc đánh giá, mở rộng để nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện, thấu đáo hơn. Giáo viên cần lưu ý học sinh khi bàn luận một vấn đề văn học, không chỉ bàn luận trong nội hàm của vấn đề ấy mà cần mở rộng, nâng cao vấn đề. Phần này học sinh có thể làm qua các bước sau. + Bước 1: cần đánh giá khái quát vấn đề cần nghị luận, khẳng định lại một lần nữa tính đúng đắn của nhận định trong đề bài. + Bước 2: So sánh, đối chiếu theo hướng tương đồng hoặc đối lập để làm rõ hơn vấn đề nghị luận. + Bước 3: Khái quát lại tác giả, tác phẩm được sử dụng làm dẫn chứng minh họa cho vấn đề nghị luận dựa trên những định hướng từ vấn đề nghị luận. 3. Kết luận. Khẳng định lại vấn đề nghị luận. IV. Phương pháp làm dạng bài so sánh văn học 1. Xác định các loại đề so sánh văn học thường gặp 1.1. So sánh hai chi tiết trong hai tác phẩm văn học: Ví dụ 1: Đề khối D 2010: So sánh chi tiết ấm nước đầy và còn ấm mà Từ dành chăm sóc Hộ và chi tiết bát cháo hành của Thị Nở dành cho Chí Phèo Ví dụ 2: Cảm nhận của anh/chị về chi tiết “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá!” mà nhân vật Chí Phèo cảm nhận được sau đêm gặp thị Nở (Chí Phèo - Nam Cao, Ngữ văn 11) và chi tiết “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi” mà nhân vật Mị nghe được trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ngữvăn 12) 1.2. So sánh hai đoạn thơ 9
- Ví dụ 1: Đề khối C 2008 (diễn tả nỗi nhớ) trong hai bài: Tây Tiến của Quang Dũng và Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên Ví dụ2: Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau: Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất; Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi (Vội vàng– Xuân Diệu, Ngữ văn 11, Tập 2, NXB Giáo dục 2011) Tôi buộc lòng tôi với mọi người Để tình trang trảivới trăm nơi Để hồn tôi với baohồn khổ Gần gũi nhau thêmmạnh khối đời. (Từ ấy– Tố Hữu, Ngữ văn 11, Tập2, NXB Giáo dục 2011) 1.3. So sánh hai đoạn văn Ví dụ 1: Đề khối C 2010 (khắc họa vẻ đẹp hai dòng sông) trong hai bài kí: Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường Ví dụ2: Cảm nhận về hai đoạn văn sau: “Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng...” (Vợ chồng APhủ - Tô Hoài) “ Phải uống thêm chai nữa. Và hắn uống. Nhưng tức quá, càng uống lại càng tỉnh ra.Tỉnh ra chao ôi buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức...” ( Chí Phèo –Nam Cao) 1.4. So sánh hai nhân vật Ví dụ1: (Đề thi đại hoc –khối C 2009) Vẻ đẹp khuất lấp của: người vợ nhặt trong Vợ nhặt của Kim Lân vàngười đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Ví dụ2: So sánh nhân vật Đan Thiềm trong trích đoạn Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài của Nguyễn Huy Tưởng và viên quản ngục trong Chữ Người tử tù của NguyễnTuân. Ví dụ3: Bi kịch của Vũ Như Tô (Vũ Như Tô –Nguyễn Huy Tưởng) và Hộ (Đời thừa –Nam Cao) 1.5. So sánh cách kết thúc hai tác phẩm: 10
- Ví dụ: Đề thi đại học 2012: So sánh kết thúc tác phẩm truyện ngắn Chí Phèo của NamCao và kết thúc tác phẩm Vợ nhặt củaKim Lân -So sánh phong cách tác giả: Ví dụ: So sánh Chữ người tử tù (Ngữ văn 11, tập một) với Người lái đò Sông Đà, nhận xét những điểm thống nhất và khác biệt của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. 1.6. So sánh, đánh giá hai lời nhận định về một tác phẩm Đề thi đại học khối C năm 2013 cũngcó thể xem là một dạng của so sánh: Về hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng có ý kiến cho rằng:người lính ở đây có dáng dấp của tráng sĩthuở trước; ý kiến khác thì nhấn mạnh: hình tượng người lính mang đậm vẻ đẹp của người lính thời kì kháng chiến chống Pháp. Từ cảm nhận của mình về hình tượng này, anh chị hãy bình luận những ý kiến trên. Đề thi đại học 2013 yêu cầu người viết hiểuđúng, hiểu sâu nhưng quan trọng là tự bày tỏ hiểu biết tùy theo năng lực nhận thức, không lệ thuộc tài liệu hay bài giảng của thầy cô. Đáp án chấp nhận cảquan điểm khác hướng dẫn chấm nhằm khuyến khích thí sinh mạnh dạn viết về vấn đề với cảm nhận từ nhiều điểm nhìn khác nhau, trình độ khác nhau. Vấn đề quan trọng quyết định đánh giá chất lượng bài thi văn lại chính là kỹ năng phân tích, so sánh, bình luận làm rõ vấn đề của học sinh. 2. Các cách làm bài dạng đề so sánh văn học Đứng trước một đề văn thường có rất nhiều cách triển khai, giải quyết vấn đề, song đối với kiểu đề so sánh văn học dù là ở dạng so sánh hai chi tiết, hai đoạn thơ, hai đoạnh văn, hay hai nhân vật ....phương pháp làm bài văn dạng này thông thường có hai cách: Nối tiếp : Lần lượt phân tích hai văn bản rồi chỉ ra điểm giống và khác nhau Song song : Tìm ra các luận điểm giống và khác nhau rồi lần lượt phân tích từng luận điểm kết hợp với việc lấy song song dẫn chứng của cả hai văn bản minh họa. * Cách 1: Phân tích theo kiểu nối tiếp. Đây là cách làm bài phổ biến của học sinh khi tiếp cận với dạng đề này, cũng là cách mà Bộ giáo dục và đào tạo định hướng trong đáp án đề thi đại học - cao đẳng. Bước một lần lượt phân tích từng đối tượng so sánh cả về phương diện nội dung và nghệ thuật, sau đó chỉ ra điểm giống và khác nhau. Cách này học sinh dễ dàng triển khai các luận điểm trong bài viết. Bài viết rõ ràng, không rối kiến thức nhưng cũng có cái khó là đến phần nhận xét điểm giống và khác nhau học sinh không thành thạo kĩ năng, nắm chắc kiến thức sẽ viết lặp lại những gì đã phân tích ở trên hoặc suy diễn một cách tùy tiện. Mô hình khái quát của kiểu bài này như sau: Mở bài: 11
- - Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này) - Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh Thân bài - Làm rõ đối tượng so sánh thứ 1 (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích) - Làm rõ đối tượng so sánh thứ 2 (bước nàyvận kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích) - So sánh: + Nhận xét nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả các bình diện như: chủ đề, nội dung hình thức nghệ thuật...(bước này vận dụng kết hợp nhiều thaotác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích và thao tác lập luận so sánh) + Lý giải sự tương đồng và khác biệt: thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học… Kết bài: - Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu - Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân. *Cách2: Phân tích song song được hiểu song hành so sánh trên mọi bình diện của hai đối tượng. Cách này hay nhưng khó, đòi hỏi khả năng tư duy chặt chẽ, lôgic, sự tinh nhạy trong phát hiện vấn đề học sinh mới tìm được luận diểm của bài viết và lựa chọn những dẫn chứng tiêu biểu phù hợp của cả hai văn bản để chứng minh cho luận điểm đó. Ví dụ, khi so sánh hai bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và trích đoạn Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Ứng dụng cách viết này học sinh không phân tích lần lượt từng tác phẩm như cách một mà phân tích so sánh song song trên các bình diện: Xuất xứ - cảm hứng- hình tượng - chất liệu và giọng điệu trữ tình. Mô hình khái quát của kiểu bài này như sau: Mở bài: - Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này) - Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh Thân bài: - Điểmg giống nhau: + Luận điểm 1 (lấy dẫn chứng cả hai văn bản) + Luận điểm 1 (lấy dẫn chứng cả hai văn bản) + Luận điểm ..... 12
- - Điểm khác nhau: + Luận điểm 1 (lấy dẫn chứng cả hai văn bản) + Luận điểm 1 (lấy dẫn chứng cả hai văn bản) + Luận điểm..... Kết bài - Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu - Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân. * Hai cách làm bài của kiểu đề so sánh văn học là vậy, mỗi cách làm đều có mặt mạnh, mặt yếu khác nhau. Trongthực tế không phải đề nào chúng ta cũng có thể áp dụng theo đúng khuôn mẫu cách làm như đã trình bày ở trên. Phải tùy thuộc vào cách hỏi trong mỗi đề cụ thể mà ta áp dụng theo cách nào và áp dụng sao cho linh hoạt, phù hợp. Cũng có khi vận dụng đầy đủ các ý của phần thân bài, cũng có khi phải cắt bỏ một phần cho hợp với yêu cầu trọng tâm của đề, hay dụng ý của người viết. B. RÈN KỸ NĂNG LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VĂN HỌC QUA HAI TÁC PHẨM KÝ I. Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân 1. Kiến thức cơ bản 1.1 Tác giả: a. Tiểu sử: - Quê quán: làng Mọc, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội - Hoàn cảnh xuất thân: trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn. - Cuộc đời : + Là con của một gia đình công chức. + Thời niên thiếu ông được đi nhiều nơi, tham gia chống người Pháp, từng làm thư kí nhà máy đèn. +Năm 1930, ông bắt đầu viết văn làm báo. Năm 1937, ông chuyên tâm viết văn b. Sự nghiệp: * Trước cách mạng tháng Tám: Nguyễn Tuân tiêu biểu cho văn xuôi lãng mạng (Vang bóng một thời) * Sau cách mạng: Nguyễn Tuân dùng văn chương để phục vụ kháng chiến – nổi tiếng với thể loại tùy bút (Tùy bút Sông Đà) => Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, một người nghệ sĩ phóng túng tài hoa, uyên bác, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. - Năm 1996 Nguyễn Tuân được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. 13
- c. Phong cách * Trước cách mạng: cô đọng trong một chữ "Ngông": Ngông là thái độ khinh đời làm khác đời dựa trên cái tài hoa sự uyên bác và nhân cách hơn đời của mình - Nguyễn Tuân là 1 người tài hoa uyên bác: Sự tài hoa uyên bác của ông thể hiện ở: + Tiếp cận mọi sự vật ở mặt văn hóa thẫm mĩ để khám phá và... khen chê. + Vận dụng trí thức của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật để quan sát hiện thực. + Nhìn người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ tạo nên những nhân vật tài hoa + Tô đậm cái phi thường gây cảm giác mãnh liệt dữ dội. - Nguyễn Tuân là 1 con người có nhân cách đạo đức hơn đời: chổ dựa ở thái độ "ngông" của ông không chỉ ở sự tài hoa uyên bác mà còn ở đạo đức hơn đời của ông. Cái gốc của nhân cách đạo đức của Nguyễn Tuân là lòng yêu nước tinh thần dân tộc niềm tha thiết với cái đẹp của văn nghệ của phong tục tập quán của thiên nhiên và những thú chơi tao nhã. * Sau cách mạng: có những chuyển biến quan trọng: - Thái độ ngông nghênh khinh bạc không còn nữa. Giọng văn chủ yếu là tin yêu đôn hậu - Nếu trước cách mạng nhà avwn luôn bi quan đối với hiện tại và tương lai. Ông chỉ tin vào cái đẹp của quá khứ. Người tài hoa cái đẹp luôn lạc lõng, cô độc giữa cuộc đời phàm tục thì sau cách mạng ông vẫn ngợi ca những con người tài hoa ấy vẫn hướng đến những cái gì phi thường mãnh liệt, vẫn vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật để quan sát và mô tả vẫn tô đậm phong cách và cá tính độc đáo của mình. Điều khác là tinh thần dân tộc và lòng yêu nước được phát huy mạnh mẽ trong tác phầm của ông. Cái đẹp của người tài hoa có thể tìm thấy trong nhân dân trên mọi lĩnh vực - Tuy nhiên trên những trang văn phong cách riêng của ông vẫn rất rõ nét: Thiên nhiên vẫn còn là những công trình thiên tạo tuyệt vời anh bộ đội ông lái đò thậm chí chị hàng cốm người bán phở... cũng là những con người tài hoa nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình * Thể loại tùy bút là thể văn sở trường của Nguyễn Tuân: vì nó mang tính chủ quan và rất tự do phóng túng. Nhân vật chủ yếu là cái tôi của nhà văn. Mạch văn biết hóa rất linh hoạt nhưng đôi khi ... khó hiểu - Văn xuôi giàu hình ảnh nhạc điệu từ vựng phong phú và rất sáng tạo trong cách dùng từ đặt câu - Với Nguyễn Tuân văn chương phải là văn chương nghệ thuật phải là nghệ thuật mà đã là nghệ thuật thì phải ... độc đáo. Tài phải đi đôi với tâm ấy là thiện lương là lòng yêu 14
- nước là nhân cách trong sạch. - Văn của ông đôi lúc khó theo dõi nhiều đoạn tham kiến thức nên trở nên thành ... nặng nề. 1.2 Tác phẩm: a. Xuất xứ - Hoàn cảnh sáng tác : - Trích trong tập tùy bút Sông Đà. - Tùy bút “Sông Đà” được sáng tác năm 1960, gồm 15 tùy bút và một bài thơ phác thảo. Đây là kết quả chuyến đi thực tế của Nguyễn Tuân lên Tây Bắc vào năm 1958. - Cảm hứng chủ đạo: Nhiệt tình ca ngợi Tổ quốc, ca ngợi nhân dân của một nhà văn mà trái tim đang tràn đầy niềm hứng khởi khi thấy nay mình đã có đất nước, mình đã không còn “thiếu quê hương”. b.Về thể loại tùy bút: - Một loại bút ký ghi chép người thật việc thật, không có cốt truyện, đặc biệt in đậm cảm xúc chủ quan của người viết, đậm chất trữ tình. - Thể loại giúp Nguyễn Tuân thăng hoa cảm xúc và tư tưởng của mình. c. Nội dung : - Hình tượng con sông đà : + Con sông hung bạo. + Con sông trữ tình. - Hình tượng ông lái đò + Trí dũng + Tài hoa => Giới thiệu, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động ở miền Tây Bắc của Tổ Quốc ; Thể hiện tình yêu mến, sự gắn bó thiết tha của Nguyễn Tuân đối với đất nước và con người Việt Nam. d. Nghệ thuật : - Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo bất ngờ và rất thú vị. - Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao. - Câu văn đa dạng nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình. 2. Luyện đề 15
- Đề 1: Phân tích hình tượng Sông Đà trong tùy bút Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân DÀN BÀI I. Mở bài: - Là một nhà văn tài hoa, độc đáo, Nguyễn Tuân thích miêu tả những cái gì dữ dội, mãnh liệt hoặc đẹp một cách tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước … - Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết, ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, cỏ cây trên đất nước mình. Bút kí “Người lái đò sông Đà” đã thể hiện đậm nét phong cách Nguyễn Tuân. Cảm hứng về dòng sông Đà “hung bạo và trữ tình” chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân biến vùng sông nước ấy thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc. II. Thân bài: 1. Khái quát: - “Người lái đò sông Đà” rút từ tập tùy bút “Sông Đà” của Nguyễn Tuân. - Tác phẩm là kết quả của nhiều dịp ông đến với Tây Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958. - Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng khác nhau, sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới đã đem lại cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo. - Đến với những tác phẩm của Nguyễn Tuân là ta đang đến với một tâm hồn vô cùng phong phú, với những phát hiện hết sức tinh tế, độc đáo về quê hương. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu nước ấy cũng chính là tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông Đà – dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông. Chỉ có N.T mới không nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thủy, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước N.T có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ. Cũng không có ai như Nguyễn, để có thể hạ bút viết đúng 3 câu về màu sắc nước sông Đà đã phải có mấy lần bay ngang qua miền sông ấy. Dòng sông Đà trong cảm nhận của nhà văn có hai nét tính cách đối lập: hung bạo và trữ tình. 2. Phân tích: a. Sông Đà hung bạo: 16
- - Vách đá “đá bờ sông dựng vách thành” và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách: + “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” + Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ can nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách… + “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện” -> So sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như N.T luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng nay ăm ắp để tìm cho được một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người. - Gió trên sông Đà: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm …” bằng lối viết tài hoa, những câu văn diễn đạt theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người. - Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát: “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên …” những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác” Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người. - Âm thanh thác nước sông Đà: + Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá + Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “giọng gằn mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa … rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng…” Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, N.T quả là đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật - Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá: “Cả một chân trời đá … mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn 17
- nhúm”, “méo mó” Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ với ba trùng vi thạch trận + Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì “hất hàm” đứa thì “thách thức”, “mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo”, sóng nước “đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền”… + Trùng vi thạch trận thứ II: Sông nước bài binh bố trận ở khắp nơi, tăng nhiều cửa tử, cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn… + Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở ngay giữa. Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một của con người”. Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút VN. b. Sông Đà – trữ tình: - Dòng sông Đà không chỉ có những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế manh trên sông đá” mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người. Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo …” - Màu sắc dòng sông thay đổi theo mùa: + “Mùa xuân xanh màu ngọc bích”, khác với sông Gâm, sông Lô “màu xanh canh hến” + Mùa thu nước sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa …” Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ. - Đến với sông Đà, hăm hở, say mê đến nỗi tác giả như thấy mình như đang “sắp đổ ra sông Đà”. Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” … - Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa… lặng tờ “như từ Lí, đời Trần, đời Lê”. Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có – Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút tài hoa bậc nhất của nền văn học Việt Nam. 18
- III. Kết bài: Phong cách Nguyễn Tuân độc đáo và phong phú. Ở tùy bút “Người lái đò sông Đà” chúng ta thấy phong cách giá trị của ông thể hiện rõ nhất là sự nhọn sắc của giác quan nghệ sĩ đi đôi với một kho chữ nghĩa giàu có và đầy màu sắc, lối văn rất mực tài hoa. Dòng sông Đà “hung bạo và trữ tình” chảy mãi trong dòng văn học nước nhà như niềm yêu mến và tự hào về cỏ cây sông núi quê hương của nhà văn Nguyễn Tuân. Đề 2: Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp của nhân vật người lái đò Sông Đà trong tùy bút Người lái đò Sông Đà ( Nguyễn Tuân). DÀN BÀI 1. Mở bài. - Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút Người lái đò Sông Đà - Dẫn dắt vào nhân vật người lái đò. 2. Thân bài. *Khái quát chung. - Người lái đò sông Đà là một áng văn đặc sắc trong tập tùy bút Sông Đà (1960) – thành quả nghệ thuật đẹp đẽ của Nguyễn Tuân trong chuyến đi gian khổ và hào hùng tới miền Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc. - Mục đích chính của chuyến đi tới Tây Bắc của nhà văn đồng thời cũng là cảm hứng chủ đạo của cả tập ký là tìm kiếm chất vàng mười của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là chất vàng mười – “thứ vàng đã qua thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động vùng núi sông hùng vĩ và thơ mộng này. Chất vàng mười tâm hồn ấy đã được kết tinh qua vẻ đẹp độc đáo của nhân vật người lái đò Sông Đà. *Phân tích vẻ đẹp nhân vật: Người lái đò nổi bật với 3 vẻ đẹp: - Vẻ đẹp của một người tinh thạo trong nghề nghiệp. + Ông lão nắm vững qui luật khắc nghiệt của dòng thác sông Đà “Nắm chắc quy luật của thần sông thần đá”. + Ông thuộc lòng những đặc điểm địa hình của Sông Đà “ nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả các luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, Sông Đà “như một thiên anh hùng ca mà ông đò thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. - Vẻ đẹp của một người trí dũng tuyệt vời: + Ông sẵn sàng đối mặt với thác dữ, chinh phục “cửa tử”, “cửa sinh”, vượt qua trận thuỷ chiến với đá chìm, đá nổi, với những trùng vi thạch trận và phòng tuyến đầy 19
- nguy hiểm. Ông lái đò vượt qua bằng những hành động táo bạo và chuẩn xác. Ông hiện lên như một vị chủ huy dày dạn kinh nghiệm: + Ở trùng vây thứ nhất:thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, cửa sinh duy nhất nằm sát bờ trái và huy độg hết sức mạnh của sóng thác đánh vỗ mặt con thuyền. Luồng song hung tợn “liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Thậm chí còn đánh đòn tỉa, đánh đòn âm… nhưng người lái đò bình tĩnh giữ chắc mái chèo giúp con thuyền “khỏi bị hất khỏi bờm song trận địa phóng thẳng vào mình”. Ngay cả lúc bị trúng đòn hiểm, mặt méo bệch đi nhưng ông vẫn tỉnh táo chỉ huy con thuyền lướt đúng vào luồng sinh. + Ở trùng vây thứ 2, dòng sông đã thay đổi sơ đồ phục kích và cả chiến thuật. Vòng vây thứ 2 này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào. Cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Nhưng ông đò đã “nắm chắc quy luật của thần sông thần đá” nên lập tức cũng thay đổi chiến thuật theo, nhận ra cạm bẫy của bọn thuỷ quân nơi cửa ải nước này. Ông không né tránh mà đưa con thuyền cưỡi lên sóng thác”“cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. “Nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo vào cửa đá ấy”. Người lái đò tả xung, hữu đột như một chiến tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc có thừa lòng quả cảm đã đưa được con thuyền vượt qua tập đoàn cửa tử khiến cho những bộ mặt đá hung hăng dữ tợn phải xanh lè, thất vọng. + Ở trùng vây thứ 3, thạch trận ít cửa tử hơn những bên phải bên trái đều là luồng chết cả, cửa sinh lại nằm giữa lòng sông và bọn đá hậu vệ canh giữ. Nhưng ông đò không hề bất ngờ trước mưu mô hiểm độc của bọn chúng, tiếp tục chỉ huy con thuyền vượt qua trùng vây thứ 3. - Vẻ đẹp của một người tài hoa nghệ sĩ: + Ông đối đầu với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung nghệ sĩ. Tay lái linh hoạt, khéo léo, tài hoa như một nghệ sĩ trên sông nước : “ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”, “Vút, vút…thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”. Dưới bàn tay chèo lái điêu luyện của ông con thuyền đã hoá thành con tuấn mã hiểu ý chủ- khi thì khéo léo né tránh luồng sóng dữ, khi thì phóng thẳng vào cửa đá có 3 tầng cổng “cánh mở, cánh khép”. Con thuyền như bay trong không gian, ông đò luôn nhìn thử thách bằng cái nhìn giản dị mà lãng mạn. + Sau cuộc vượt thác gian nan, ông đò lại có phong thái ung dung của một 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phương pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng Atlat và thực hành biểu đồ Địa lí lớp 12
26 p | 157 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kỹ năng cảm thụ văn xuôi Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12
27 p | 39 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng phát âm thông qua hoạt động lồng tiếng phim tiếng Anh cho học sinh lớp 10A4 trường THPT Yên Mô B
32 p | 19 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hệ thống bài tập Hóa học rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn trong chương trình Hóa học THPT
47 p | 15 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giáo dục kỹ năng sống hiệu quả khi dạy phần đạo đức môn Giáo dục công dân lớp 10
11 p | 117 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức thực tiễn cho học sinh qua nội dung Hàng hóa - Giáo dục công dân 11
31 p | 43 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo nhóm góp phần giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
10 p | 14 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kĩ năng làm bài đọc hiểu văn bản trong đề thi trung học phổ thông Quốc gia
61 p | 16 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng giải toán bằng phương pháp lượng giác hóa
39 p | 19 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận cho học sinh THPT
60 p | 43 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng làm bài một số loại câu giao tiếp trong đề thi THPT Quốc gia được lồng vào tiết dạy phụ đạo cho học sinh lớp 12 trường THPT Lý Tự Trọng
24 p | 56 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo với chủ đề dạy học: Giáo dục địa phương để rèn luyện kỹ năng thuyết trình, đọc hiểu văn bản Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ cho học sinh lớp 11 THPT
81 p | 63 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phương pháp giải bài tập Nhị thức Newtơn
40 p | 41 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kỹ năng làm văn thuyết minh qua hoạt động tìm hiểu làng nghề truyền thống và di tích lịch sử tại địa phương
12 p | 65 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kĩ năng giải các bài toán cực trị hàm số cho học sinh lớp 12 THPT
49 p | 34 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện năng lực độc lập của học sinh qua việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học chương nhóm Halogen lớp 10 trung học phổ thông
39 p | 30 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn