intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn Quỳnh Lưu – Nghệ An nhằm nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử địa phương lớp 12 tại trường THPT Quỳnh Lưu 4

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:54

22
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Sử dụng di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn Quỳnh Lưu – Nghệ An nhằm nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử địa phương lớp 12 tại trường THPT Quỳnh Lưu 4" đã đi sâu vào các hình thức sử dụng di tích lịch sử - văn hóa khi dạy lịch sử địa phương ở trên lớp và tại thực địa cho học sinh THPT. Qua đó nhằm mục đích nâng cao hiệu quả giảng dạy phần lịch sử địa phương ở lớp 12, góp phần giáo dục tình yêu quê hương đất nước cho học sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn Quỳnh Lưu – Nghệ An nhằm nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử địa phương lớp 12 tại trường THPT Quỳnh Lưu 4

  1. GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 4    SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI SỬ DỤNG DI TÍCH LỊCH SỬ ­ VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN  QUỲNH LƯU – NGHỆ AN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC  LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG LỚP 12 TẠI TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 4                                          Môn: Lịch Sử                                          Tác giả: Lê Thị Thanh Huyền                  Tổ bộ môn: Sử ­ Địa – GDCD ­ TDQP                                          Năm thực hiện: 2021 – 2022                                          Số điện thoại: 0942120486                                                    
  2. 2
  3. TT MỤC LỤC Trang PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1 Lý do chọn đề tài 1 1.2 Tính mới của đề tài 2 1.3 Mục đích nghiên cứu 2 1.4 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 2 1.5 Nhiệm vụ nghiên cứu 3 1.6 Phương pháp nghiên cứu 3 PHẦN II NỘI DUNG 2.1 Cơ sở lí luận  4 2.2 Cơ sở thực tiễn 6 Sử dụng di tích lịch sử ­ văn hóa ở Quỳnh Lưu – Nghệ  2.3 An  để   nâng   cao   chất   lượng   dạy   học   lịch   sử   địa  8 phương lớp 12 tại trường THPT Quỳnh Lưu 4 Các   hình   thức   sử   dụng   di   tích   lịch   sử  ­   văn   hóa  ở  2.4 Quỳnh Lưu  để  nâng cao chất lượng dạy học lịch sử  18 địa phương lớp 12 tại trường THPT Quỳnh Lưu 4 2.5 Kết quả nghiên cứu 43 PHẦN III KẾT LUẬN 3.1 Kết luận 46 3.2 Bài học kinh nghiệm 46 3.2 Kiến nghị 47 TÀI LIỆU THAM KHẢO 3
  4. PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Lý do chọn đề tài Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã từng dạy:  “Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Trong giáo dục phổ thông hiện nay, các môn xã hội nói chung và môn Lịch  sử  nói riêng có vai trò quan trọng trong việc khơi nguồn, bồi dưỡng tâm hồn,  nhân cách, bản lĩnh và tư duy của con người. Do vậy, dạy học lịch sử không chỉ  giúp học sinh nắm được lịch sử  hình thành của một quốc gia, dân tộc mà còn   hình thành ở các em lòng tự  hào để từ đó các em thêm yêu quê hương, đất nước   mình hơn. Tuy nhiên, việc dạy và học lịch sử  nói chung và lịch sử  địa phương nói  riêng  ở  trường học từ  trước đến nay vẫn còn nặng nề  về  nội dung, lý thuyết,  thường chỉ  đề  cập đến việc mô tả, thống kê các sự  kiện; phương pháp truyền  đạt chưa  thực sự  đổi mới,  hấp dẫn, thiếu  tính liên hệ, các  tư  liệu, hình  ảnh  minh họa chưa thực sự sống động, các hoạt động trải nghiệm thực tế còn ít. Vì  thế, đa phần học sinh phổ  thông không chú ý đến lịch sử, hiểu biết về  lịch sử  hình thành và phát triển của địa phương nơi mình đang sinh sống còn   rất  hạn  chế. Ngày 16 tháng 01 năm 2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp Bộ Văn hóa  – Thể  thao và Du lịch ban hành  Công văn liên ngành số  73/HD ­ BGD&ĐT­ BVHTTDL    để  chỉ  đạo, hướng dẫn thực hiện việc   “Sử  dụng di sản văn hóa   trong dạy học  ở  trường phổ  thông, trung tâm GDTX”. Theo đó, vai trò của di  tích lịch sử ­ văn hóa trong dạy học đã được khẳng định và chú trọng. Trong xu hướng đổi mới giáo dục hiện nay, việc sử dụng di tích lịch sử  ­  văn hóa trong tổ chức dạy học bộ môn lịch sử cần có những thay đổi. Đó là việc  đổi mới phương pháp dạy học truyền thống, kết hợp với các kỹ  thuật dạy học   tích cực. Việc dạy học lịch sử bằng hệ thống di tích lịch sử ­ văn hóa là một nội  dung của việc dạy học khám phá, dạy học bằng việc trao quyền chủ động cho   học sinh. Các em sẽ là người tự  tìm tòi, khám phá, làm sáng tỏ các sự  kiện liên  quan đến các sự kiện lịch sử dân tộc, địa phương trên cơ sở hướng dẫn của giáo   viên. Việc sử dụng di tích lịch sử ­ văn hóa trong dạy học lịch sử địa phương sẽ  góp phần phát huy năng lực học sinh, bồi dưỡng lòng yêu quê hương đất nước,   góp phần hoàn thiện nhân cách cho các em học sinh. Quỳnh Lưu – Nghệ  An từ  xưa đến nay không chỉ  được biết đến là mảnh  đất trọng yếu, có vị trí chiến lược liên quan đến sự phát triển của quốc gia, dân   tộc, mà còn là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, có hệ thống di tích lịch sử  ­ văn hóa phong phú và đa dạng. Di tích lịch sử ­ văn hóa tại địa phương  Quỳnh  Lưu đóng vai trò là nguồn tư  liệu, phương tiện trực quan vô giá trong dạy học   4
  5. lịch sử. Việc sử dụng các di tích lịch sử ­ văn hóa ở địa phương  Quỳnh Lưu vào  dạy học lịch sử  nói chung và lịch sử  địa phương nói riêng  không chỉ  giúp học  sinh hiểu về mảnh đất và con người nơi mình sinh ra và lớn lên, hun đúc niềm  tự  hào, giáo dục truyền thống... trách nhiệm công dân mà còn là cách giúp học   sinh nhận thức sâu sắc thêm lịch sử dân tộc.  Xuất phát từ những lý do trên đây, tôi quyết định chọn đề tài "Sử dụng di   tích lịch sử  ­ văn hóa  trên địa bàn  Quỳnh Lưu  –  Nghệ  An  nhằm nâng cao   chất lượng dạy học Lịch sử  địa phương  lớp 12 tại trường THPT Quỳnh   Lưu 4" để làm đề tài nghiên cứu với mong muốn nâng cao hơn nữa chất lượng   dạy và học lịch sử  địa phương  ở  trường THPT, hướng tới mục đích giáo dục   con người một cách toàn diện. 1.2. Tính mới của đề tài Đây là đề tài hoàn toàn mới, chưa có đồng nghiệp nào đề  cập đến. Đề tài  chứng minh được tính cần thiết và khả thi của việc sử dụng di tích lịch sử ­ văn   hóa trong dạy học lịch sử  nói chung và lịch sử  địa phương nói riêng. Bên cạnh  đó, đề  tài cũng đưa ra được các hình thức, biện pháp sử  dụng hiệu quả  các di  tích lịch sử ­ văn hóa địa phương, góp phần đổi mới phương pháp dạy học, từ đó  nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử ở trường THPT. Nếu áp dụng việc sử  dụng di tích lịch sử  ­ văn hóa ở  địa bàn Quỳnh Lưu  vào dạy học lich sử địa phương một cách hợp lí sẽ góp phần nâng cao hiệu quả  đổi mới phương pháp dạy học, từ  đó nâng cao chất lượng dạy học lịch sử địa  phương trong nhà trường. 1.3. Mục đích nghiên cứu Trên cơ  sở  khẳng định tầm quan trọng của việc sử  dụng di tích lịch sử  ­  văn hóa ở Quỳnh Lưu trong dạy học lịch sử địa phương, đề tài đã đi sâu vào các  hình thức sử dụng di tích lịch sử ­ văn hóa khi dạy lịch sử địa phương ở trên lớp  và tại thực địa cho học sinh THPT. Qua đó nhằm mục đích nâng cao hiệu quả  giảng dạy phần lịch sử  địa phương  ở  lớp  12, góp phần giáo dục tình yêu quê  hương đất nước cho học sinh.  1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu  1.4.1. Đối tượng nghiên cứu Học sinh lớp 12 trường THPT Quỳnh Lưu 4, các h ình thức, biện pháp sử  dụng các di tích lịch sử  ­ văn hóa  trên địa bàn huyện  Quỳnh Lưu – Nghệ  An  nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ  môn lịch sử  địa phương  ở  trường trung học phổ thông. 1.4.2. Phạm vi nghiên cứu  5
  6. Phạm vi của đề  tài chỉ  nghiên cứu việc sử  dụng di tích lịch sử  ­ văn hóa  trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu để nâng cao hiệu quả  dạy học phần lịch sử địa  phương. 1.5. Nhiệm vụ nghiên cứu Vai trò, ý nghĩa và thực trạng của việc sử  dụng di tích lịch sử   ­ văn hóa  trong giảng dạy lịch sử địa phương ở trường THPT. Giới thiệu khái quát các di tích lịch sử  ­ văn hóa ở  huyện Quỳnh Lưu, các  hình thức sử  dụng di tích lịch sử ­ văn hóa  ở  Quỳnh Lưu, các biện pháp, hình  thức giảng dạy tại trường THPT Quỳnh Lưu 4  để nâng cao chất lượng dạy học  lịch sử địa phương. 1.6. Phương pháp nghiên cứu ­ Nghiên cứu lý thuyết: Đọc và nghiên cứu SGK, tài liệu chuẩn kiến thức  kỹ năng lịch sử lớp 12, tài liệu về lịch sử  Quỳnh Lưu, lịch sử Đảng bộ  Quỳnh  Lưu, tài liệu về các di tích lịch sử ­ văn hóa trên địa bàn Quỳnh Lưu. ­ Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tiến hành dạy học có đối chứng để  rút ra những kết luận khái quát và đề xuất một số biện pháp sư phạm. ­ Phương pháp khảo sát:  Thăm dò ý kiến đổi mới phương pháp dạy của   giáo viên, ý kiến tiếp thu bài của học sinh, khảo sát những mong muốn của học   sinh. Từ đó tổng kết, đánh giá để đưa ra các hình thức dạy học phù hợp.                                   6
  7.                  7
  8. PHẦN 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ  2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Một số khái niệm * Di tích: Di tích là dấu vết của quá khứ còn lưu lại trong lòng đất hoặc trên mặt đất  có ý nghĩa về  mặt văn hóa và lịch sử. Tiêu chí đầu tiên để  xác định một di tích  lịch sử  là nó phải có thực từ  trước và lưu giữ  đến ngày nay, bao giờ  cũng gắn  liền, phản ánh, ghi nhận, minh chứng một sự kiện, nhân vật lịch sử, đặc biệt là  những sự kiện lịch sử lớn, quan trọng. Ở Việt Nam, một di tích khi đủ các điều kiện sẽ được công nhận theo thứ  tự: Di tích cấp tỉnh, di tích cấp quốc gia và di tích quốc gia đặc biệt. Hệ thống di  tích Việt Nam được phân thành 4 loại hình cơ  bản: Di tích lịch sử, di tích kiến  trúc ­ nghệ thuật, di tích khảo cổ và danh lam thắng cảnh. * Di tích lịch sử: Di tích lịch sử (hay di tích cách mạng ­ kháng chiến) là công trình xây dựng,  địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có  giá trị  lịch sử, văn hóa, khoa học. Di tích lịch sử  là một bộ  phận cấu thành hệ  thống các di tích lịch sử ­ văn hoá, tuy nhiên, nó có những điểm khác với các di  tích tôn giáo tín ngưỡng đó là những địa điểm cụ thể, công trình kiến trúc có sẵn   (nhà ở, đường phố…), là những công trình được con người tạo nên phù hợp với  mục đích sử  dụng (địa đạo, hầm bí mật…) gắn liền với những sự  kiện, nhân  vật lịch sử cụ thể mà trở thành di tích. * Di tích lịch sử ­ văn hóa: Di tích lịch sử ­ văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ  vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị  lịch sử, văn hoá,  khoa học. Di tích lịch sử ­ văn hóa phải có một trong các tiêu chí sau đây:  Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự  kiện lịch sử, văn hóa tiêu biểu   của quốc gia hoặc của địa phương. Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng   dân tộc, danh nhân, nhân vật lịch sử  có  ảnh hưởng tích cực đến sự  phát triển   của quốc gia hoặc của địa phương trong các thời kỳ lịch sử. * Lịch sử địa phương: Lịch sử địa phương là một bộ phận hữu cơ của lịch sử dân tộc, có quan hệ  mật thiết với lịch sử dân tộc. Bất cứ một sự kiện nào của lịch sử  dân tộc cũng  đều mang tính địa phương vì nó diễn ra ở một địa phương cụ thể với không gian  và thời gian xác định.  Dạy và học lịch sử địa phương không chỉ giúp học sinh hiểu về mảnh đất  và con người nơi mình sinh ra và lớn lên, hun đúc niềm tự hào, giáo dục truyền  8
  9. thống...trách nhiệm công dân mà còn là cách giúp học sinh nhận thức sâu sắc   thêm lịch sử dân tộc. Nguồn tài liệu lịch sử địa phương, với những loại hình đa dạng, phong phú,  sinh động, là cơ sở cho học sinh hiểu được những biểu tượng lịch sử và các khái  niệm, các sự kiện, hiện tượng được đúc kết ở các bài. 2.1.2. Vai trò, ý nghĩa của việc sử  dụng di tích lịch sử  ­ văn hóa  trong   giảng dạy Lịch sử địa phương ở trường THPT Công văn liên ngành số  73/HD ­ BGD&ĐT­BVHTTDL ngày 16 tháng 01  năm 2013 do Bộ  Giáo dục và Đào tạo phối hợp Bộ  Văn hóa ­ Thể  thao và Du   lịch ban hành về  việc  “Sử  dụng di sản văn hóa trong dạy học  ở  trường phổ   thông, trung tâm GDTX”  đã chỉ  rõ vai trò quan trọng của di sản văn hóa trong  dạy học  ở  trường phổ  thông, trung tâm GDTX: Hình thành và nâng cao ý thức  tôn trọng, giữ gìn, phát huy những giá trị của di sản văn hóa; Rèn luyện tính chủ  động, tích cực, sáng tạo trong đổi mới phương pháp học tập và rèn luyện; Góp  phần nâng cao chất lượng và hiệu quả  giáo dục, phát hiện, bồi dưỡng năng  khiếu, tài năng của học sinh". Như  vậy, việc sử  dụng di tích lịch sử  ­ văn hóa  trong dạy học lịch sử nói chung và dạy học lịch sử  địa phương nói riêng là rất   cần thiết và có ý nghĩa vô cùng to lớn. Việc sử  dụng di tích lích sử  ­ văn hóa trong dạy học lịch sử  nói chung và  dạy học lịch sử địa phương nói riêng góp phần giáo dục truyền thống  yêu nước,  yêu quê hương, lòng kính yêu, khâm phục, biết  ơn, tự hào về  các anh hùng dân  tộc. Giáo dục cho học sinh tính chân, thiện, mĩ, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm,  đạo đức và phát triển nhân cách cho học sinh. Giúp học sinh phát huy năng lực  hoạt động tư  duy độc lập cho học sinh, rèn luyện kỹ  năng quan sát, đánh giá,   phân tích và rút ra kết luận, tạo ra được hứng thú học tập cho các em Giáo dục cho học sinh biết tôn trọng, bảo vệ  các di tích lịch sử ­ văn hóa.  Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu nội dung lịch sử, văn hóa hàm chứa trong mỗi  di tích lịch sử ­ văn hóa sẽ  giúp các em biết quý trọng và ý thức bảo vệ  di tích   lịch sử  ­ văn hóa từ  những việc nhỏ, như giữ gìn vệ  sinh, bảo vệ và trồng cây   xanh… đến việc sưu tầm di vật, tài liệu về  di tích lịch sử  ­ văn hóa… Qua đó,  góp phần bảo vệ, tôn tạo cảnh quan di tích lịch sử  ­ văn hóa ngày càng sạch   đẹp, nghiêm trang. Giúp học sinh có phương tiện để nhận thức các sự kiện trong quá khứ, tạo  được biểu tượng cụ thể, chính xác, sinh động về các sự kiện, nhân vật lịch sử,   góp phần khắc phục tình trạng "hiện đại hóa lịch sử". Góp phần bổ  sung những tri thức mà học sinh đã tiếp thu  ở  phần lịch sử  dân tộc (lịch sử Việt Nam), rút ra được những kết luận khái quát, phát hiện quy   luật vận động, phát triển của lịch sử. 9
  10. 2.2. Cơ sở thực tiễn 2.2.1. Thực trạng của việc dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT Dạy học lịch sử địa phương giúp học sinh hiểu biết về lịch sử hình thành  và phát triển, những truyền thống tốt đẹp, ý thức về  trách nhiệm và bổn phận  của mình để góp sức xây dựng quê hương. Tuy nhiên trên thực tế, việc dạy học   chương trình lịch sử địa phương ở trường trung học phổ thông hiện nay vẫn còn  nhiều bất cập. Thứ nhất: Nội dung kiến thức lịch sử địa phương kéo dài từ cội nguồn cho   đến nay, trong khi đó chương trình học lịch sử địa phương từ lớp 10 đến lớp 12  chỉ  có 4 tiết, dẫn đến tình trạng kiến thức còn nặng và sự  lệch nhau giữa nội   dung lịch sử  dân tộc và lịch sử  địa phương, làm cho việc chuyển tải kiến thức  đến các học sinh gặp nhiều khó khăn. Thứ  hai:  Mặc dù trong phân phối chương trình bắt buộc tiến hành biên  soạn và giảng dạy nhiều giáo viên chưa đánh giá đúng được vai trò của các tiết   học lịch sử địa phương, thường hướng dẫn học sinh tự học, hoặc sử dụng làm  tiết ôn tập, kiểm tra. Thứ ba: Nguồn tư liệu  ở các địa phương rất hiếm, khó khai thác, chủ yếu  dựa  vào nguồn tư liệu truyền miệng, chương trình lịch sử địa phương không có  một bài dạy cụ thể nào, chính vì thế, thầy cô giáo muốn dạy tốt tiết lịch sử địa  phương thường phải bỏ  ra rất nhiều  thời gian,  công sức tìm tòi, sưu tầm tài  liệu, soạn bài giảng. Điều này làm cho giáo viên ngại giảng dạy, nếu có thực  hiện thì chỉ mang tính hình thức. Thứ  tư:  Môn lịch sử  từ  lâu theo quan điểm là môn học phụ, có rất ít tiết  dạy, (thường mỗi khối lớp chỉ có 1­ 2 tiết/tuần), nếu vì lý do gì đó mà phải nghỉ  học tất nhiên sẽ chậm chương trình, và 2 tiết dạy sử địa phương được thầy cô  chủ yếu dùng để dạy bù chương trình chậm. Tiết dạy sử địa phương lại  không  có nội dung cụ thể trong chương trình nên rất khó để kiểm tra đánh giá. Vì vậy  giáo viên có thể “mạnh ai nấy làm”. Thứ  năm:  Chương trình giáo dục trong nhà trường hiện nay quá thiên về  truyền   thụ   kiến   thức   để   phục   vụ   cho   các   kỳ   thi   cử,   kiến   thức   lịch   sử   địa  phương lại không có trong khung đề  thi của kỳ thi THPTQG của Bộ giáo dục,   nên đôi khi các trường ít chú trọng đến các kiến thức về  lịch sử, văn hóa dân  tộc, do đó, dạy học lịch sử  địa phương nói chung và việc phối hợp đưa di sản  văn hóa vào nhà trường nói riêng càng bị  coi là một hình thức mới mẻ, ít được  quan tâm.  Trên  thực tế, nếu tổ  chức được tiết dạy lịch sử  địa phương chu đáo, bài  bản, học sinh sẽ rất hào hứng với 2 tiết dạy ít ỏi này. Bởi qua đó, các em được  biết thêm về những danh nhân văn hóa của quê hương mình. Các em cũng được  đi tham quan những di tích lịch sử văn hoá của nơi mình sinh sống, để hiểu thêm   10
  11. về  quê hương với những truyền thống tốt đẹp và công trạng của các bậc tiền  nhân. 2.2.2. Thực trạng của việc sử  dụng di tích lịch sử  ­ văn hóa trong dạy   học lịch sử địa phương ở trường THPT hiện nay Những năm gần đây,  trên cơ  sở  công văn chỉ  đạo và hướng dẫn của Bộ  giáo dục, nhiều sở  giáo dục và đào tạo đã có những chỉ đạo sát sao về  vấn đề  sử  dụng di tích lịch sử  ­ văn hóa trong dạy học lịch sử  địa phương  ở  trường   THPT,  nhiều công trình nghiên  cứu về  lịch  sử   địa phương  được biên soạn,  nhiều buổi học chuyên đề, trao đổi kinh nghiệm về hình thức, phương pháp dạy  học lịch sử thông qua di sản văn hóa, di tích lịch sử, danh nhân… đã được tiến   hành. Việc giảng dạy lịch sử, đặc biệt là tiết lịch sử  địa phương ở  các trường   trung học phổ  thông đã có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, việc khai thác các di tích  lịch sử ­ văn hóa trong dạy học lịch sử địa phương vẫn còn nhiều hạn chế. Thứ  nhất, việc  dạy và học  lịch sử  địa phương  chỉ  mới dừng  ở  mức như  một môn học ngoại khóa, mang tính chất giới thiệu, khái quát chứ  chưa được   chú trọng.Việc xếp thời gian để học các nội dung liên quan đến đưa di  tích lịch  sử ­ văn hóa vào nhà trường là cực kỳ khó khăn về mặt thời gian. Do đó, đối với  các trường thật sự  có tâm huyết, các giáo viên sẽ  phải linh hoạt về  thời khóa   biểu, bố trí dạy bù...  Thứ hai, nội dung giáo dục di tích lịch sử ­ văn hóa mà giáo viên giảng dạy   cho học sinh chưa có tính liên hệ  thực tiễn, thường chỉ  dừng lại  ở  vai trò, ý  nghĩa và giá trị của di tích lịch sử ­ văn hóa. Nhưng trên thực tế, các di tích lịch   sử  ­ văn hóa hiện nay hầu như đã xuống cấp trầm trọng, cần được bảo vệ, thì   việc giáo dục ý thức, trách nhiệm bảo tồn vẫn chưa được giáo viên quan tâm  thỏa đáng và truyền thụ sâu sắc cho học sinh. Thứ ba, phương pháp giáo viên sử dụng trong giáo dục di tích lịch sử ­ văn  hóa chủ  yếu là phương pháp truyền thống, các phương pháp có tác động đến   nhận thức của học sinh còn ít được sử  dụng thậm chí ít được áp dụng vì cho  rằng không có kinh phí và thiếu thời gian. Thứ tư, hình thức tổ chức dạy học lịch sử địa phương chưa đa dạng.  Theo  thống kê sơ bộ thì chủ yếu được tổ chức trên lớp, việc dạy học tại di tích lịch  sử ­ văn hóa, hoặc tổ chức ngoại khóa lịch sử địa phương, ứng dụng công nghệ  thông tin chưa được quan tâm thỏa đáng. Thứ năm, kinh phí để sử  dụng cho hoạt động tham quan trải nghiệm cũng  hạn chế, nhiều phụ huynh ngại yếu tố an toàn cho con em nên mỗi lần tổ chức  gặp phải khá nhiều khó khăn trong công tác vận động. Chính vì vậy, hoạt động  tham quan, trải nghiệm tại các di tích lịch sử  chủ  yếu chỉ  diễn ra  ở  những   trường nằm  ở trung tâm, hoặc là gần các di tích. Còn những trường ở  xa, vùng  khó khăn hầu như không được tiến hành, hoặc tiến hành nhỏ  giọt, không đồng  bộ. 11
  12. Thứ  sáu, trong giờ  học lịch sử  địa phương, giáo viên chủ  yếu sử  dụng tài   liệu thành văn, các loại tài liệu khác như  tài liệu đồ  dùng trực quan, tài liệu  truyền miệng dân gian, tài liệu điền dã ít được khai thác, sử  dụng nên bài học  thường khô khan, nhàm chán, thiếu hấp dẫn. Thứ bảy, tâm lí e ngại học lịch sử đã ảnh hưởng đến thái độ học tập, khiến   cho các em chưa thật sự hào hứng với bộ  môn lịch sử  nói chung và lịch sử  địa   phương nói riêng, điều này dẫn đến tình trạng một số  tiết học chưa đảm bảo  được nội dung và yêu cầu của chương trình. 2.3. Sử dụng di tích lịch sử ­ văn hóa ở Quỳnh Lưu – Nghệ An để nâng  cao   chất   lượng   dạy   học   lịch   sử   địa   phương  lớp   12   tại   trường   THPT  Quỳnh Lưu 4 2.3.1. Những nguyên tắc sử  dụng di tích lịch sử  ­ văn hóa trong giảng   dạy lịch sử địa phương ở trường THPT Thứ nhất, cần đảm bảo khai thác tính trực quan sinh động của di tích lịch   sử ­ văn hóa. Nguyên tắc này xuất phát từ đặc điểm của hiện thực lịch sử, đặc điểm của   quá trình nhận thức lịch sử và đặc điểm tâm lý học của học sinh THPT.  Di tích  lịch sử ­ văn hóa là một loại phương tiện trực quan nên có ý nghĩa vô cùng quan   trọng trong dạy học lịch sử. Tuy nhiên, cần lưu ý những đặc điểm của di tích   lịch sử  ­ văn hóa như: Không thể  mang di tích vào lớp học, hiện đại hóa hay  thần thoại hóa di tích… Để  khai thác tối  ưu tính trực quan sinh động của di tích lịch sử  ­ văn hóa,  tốt nhất là tổ chức các bài học trải nghiệm thực tế tại các di tích.  Thứ hai, cần đảm bảo tính khoa học, sư phạm. Chọn các di tích lịch sử ­ văn hóa để dạy học cần đảm bảo các di tích lịch  sử  ­ văn hóa  đó được các nhà khoa học xác định, lập hồ  sơ, các di tích gần   trường, quan trọng nhất là các di tích phản ánh những sự kiện lịch sử tiêu biểu   của chương trình THPT, các di tích còn nguyên vẹn, thường xuyên được tôn tạo,  có cảnh quan đẹp, các di tích hàng năm tổ chức lễ hội... + Thời gian dạy học tại di tích lịch sử ­ văn hóa nằm trong khuôn khổ quy  định của chương trình và kế hoạch dạy học (tuy có phần linh hoạt hơn). + Tập trung khai thác các kiến thức chứa đựng trong các di tích lịch sử ­ văn  hóa, phù hợp với yêu cầu bài học và trình độ  của học sinh  ở  từng khối, lớp.  Trong quá trình thực hiện, cần sử  dụng linh hoạt các phương pháp dạy học  truyền thống kết hợp với các phương pháp, phương tiện dạy học hiện đại theo   tinh thần đổi mới phù hợp với đặc trưng bộ môn. 12
  13. + Giáo viên cần trau dồi kiến thức trên nhiều lĩnh vực liên quan như   văn  học,  khảo cổ  học,  địa lý, văn hóa...những kỹ  năng chụp  ảnh, vẽ  bản đồ, tổ  chức, giới thiệu... ­ Phát huy tính tích cực, chủ động trong nhận thức của học sinh. + Tạo ra nhiều tình huống có vấn đề để học sinh tìm hiểu, hướng dẫn học  sinh khai thác các nguồn sử  liệu, rèn luyện các thao tác nhận thức lịch sử, phát  triển tư duy quan sát, tưởng tượng, miêu tả… + Khai thác triệt để  tính trực quan sinh động của các hiện vật,  tranh  ảnh  duy trì hứng thú học tập của học sinh để bài học đạt hiệu quả cao nhất. + Sử dụng di tích lịch sử ­ văn hóa ngoài việc minh họa kiến thức sách giáo  khoa, cần tạo ra các dữ liệu,  tổ chức cho học sinh các hoạt động tìm kiếm, phát  hiện tri thức lịch sử mới cho học sinh. + Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng làm tốt các bài tập thực hành bộ môn   từ đơn giản đến phức tạp. Những học sinh khá giỏi tập dượt các công việc của  nhà nghien cứu như sưu tầm, chỉnh lý tài liệu, hiện vật, lập hồ sơ di tích. 2.3.2. Di tích lịch sử  ­ văn hóa  ở  huyện  Quỳnh Lưu được sử  dụng để   nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử địa phương lớp 12 tại trường THPT   Quỳnh Lưu 4 Huyện Quỳnh Lưu hiện có 26 di tích lịch sử ­ văn hoá được xếp hạng cấp   tỉnh và cấp quốc gia.  Để giảng dạy phần lịch sử địa phương lớp 12, các di tích lịch sử ­ văn hóa  có thể sử dụng là: ­ Di tích đền thờ nguyên tổ họ Hồ  Trang Bào Đột là tên gọi cổ  xưa của vùng đất thuộc xã Quỳnh Lâm và  Ngọc Sơn (Quỳnh Lưu) bây giờ, nơi ông tổ họ Hồ Việt Nam đầu tiên đặt chân  đến khai cơ lập  ấp. Đền thờ  nguyên Tổ  họ  Hồ  hiện nay nằm trên địa phận xã  Ngọc Sơn, khởi công tôn tạo khoảng 10 năm nhưng đã có tới hàng trăm năm lịch  sử. Theo sử sách ghi lại, Đức Nguyên Tổ họ Hồ Việt Nam là Trạng nguyên Hồ  Hưng Dật, thời vua Hậu Hán Ẩn Đế (948 ­ 951). Hồ Hưng Dật sang làm thái thú   Châu Diễn mấy năm thì xảy ra loạn 12 sứ  quân, ông đến hương Bào Đột (nay   thuộc địa phận 2 xã Ngọc Sơn và Quỳnh Lâm) lập nghiệp. Sau khi thôi quan,  ông lui về chiêu dân lập ấp, làm trại chủ tại hương Bào Đột, được nhân dân tôn   làm Thần Thành Hoàng, và cũng là nguyên tổ họ Hồ duy nhất ở nước ta. Đến thời nhà Hồ, vua Hồ  Quý Ly sau khi lên làm vua được một năm thì  nhường ngôi cho con là Hồ  Hán Thương, rồi làm Thái thượng hoàng cùng coi   việc nước. Năm Quý Mùi  (1403), niên hiệu khai  đại thứ  nhất, vua Hồ  Hán  13
  14. Thương theo lệnh vua cha Hồ Quý Ly về Ngũ Bàu “Dựng miếu thờ ở làng Bàu  Đột phủ Linh Nguyên, để thờ cúng tổ tiên”. Đền thờ nằm trên đồi Thượng Đọt, tựa lưng vào hòn Rồng, bên trái là núi  Ngọc, bên phải là hòn Rết. Cả 3 hòn này đều nằm trên dãy núi Y Sảo, gọi là thế  “long ngai”. Đền làm theo kiểu nội công ngoại quốc, có cửa tam quan, một sân  rộng là đến tòa chính điện 5 gian. Sau tòa chính diện là 1 sân nhỏ, 2 bên có tả vu,   hữu vu, tòa trung điện 3 gian 2 hồi, hậu cung, sân ngoài góc bên phải có miếu   thờ  Thái Dương công chúa… Cả  một khu đền họ  Hồ  với quy mô hoành tráng  trên   vùng địa linh nhân kiệt đã được xây dựng  và tồn tại suốt hàng trăm năm. Về  sau, nhân dân trong vùng phối tế  2 vua (vua Hồ  Quý Ly và vua Quang   Trung), nên thường quen gọi là Đền vua Hồ, nhưng tên gọi chính xác là đền thờ  nguyên Tổ họ Hồ. Trang Bào Đột năm xưa, còn có tên Bào Trạch, dần dần đổi  thành Bào Giang, rồi làng Ngũ Bàu (vì được chia làm 5 thôn: Ngọc Viên, Bào An,  Bào Trung, Bào Ngọc và Bào Hậu). Hằng năm, tại nơi  đây tổ  chức lễ  hội vào ngày 12/3 âm lịch, rất trang  nghiêm, linh đình, mang đậm màu sắc văn hóa dân gian. Riêng Đại tế thì 3 năm  một lần, từ  3 đến 5 ngày. Còn có 300 mẫu đất công điền chia cho 5 thôn Ngũ   Bàu, lấy hoa lợi rồi luân phiên tổ  chức tế lễ. Các thôn đến đền vua Hồ  làm lễ  tế, rước thần qua 5 thôn, giếng nền ở giữa đồng, rồi quay trở về đền. Ngoài lễ,   còn có hội như rước kiệu, cờ người, bài điếm, đánh đu, đấu vật, chọi gà, diễn  tuồng chèo, đêm đại tế bắn pháo hoa… Trải qua bao thăng trầm thời gian, cả một công trình kiến trúc tâm linh lớn  cũng theo đó mà chẳng còn lại vết tích. Những người dân trong vùng kể lại, cho  đến trước năm 1971, vẫn còn nền cũ của Đền vua Hồ năm xưa, với những gạch   đá vỡ và 2 cột nanh phía trước. Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, tất cả đã bị san  phẳng. Luyến tiếc một công trình linh thiêng xưa, và cũng từ  cái đạo nghĩa  “uống nước nhớ nguồn”, bà con họ  Hồ  cả  nước quyết tâm phục dựng lại đền  thờ  nguyên Tổ  họ  Hồ, làm linh từ  của dòng họ  Hồ  Việt Nam trên nền đất cũ.   Dù có thể  không hoàn thành ngay được cả  công trình, cũng là nơi để  con cháu   hằng năm đi về. Bắt đầu khởi công từ  năm 2006, đến nay,  đền vua Hồ đã xây  dựng được cổng, tường bao xung quanh, mái nhà bia, hoàn thành điện chính. Từ  đó đến nay, cứ mỗi dịp đầu xuân năm mới, vào ngày 10, 11 tháng Giêng âm lịch,  nơi đây lại tổ chức ngày tế Tổ họ Hồ Việt Nam, đón con cháu khắp nơi hướng   tâm về cội. Và không chỉ riêng con cháu họ Hồ, cứ đến ngày rằm và mùng một,  ngày càng đông người dân lại về  đây, thắp hương cúng bái, tỏ  lòng thành kính   đối với các vị thần được thờ trong đền. Ngày 12/12/2014, Bộ văn hóa thể thao và du lịch có quyết định số 4106/QĐ­ BVHTT&DL xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia ­ Đền thờ Nguyên tổ Họ Hồ  Việt Nam, Trạng nguyên Hồ  Hưng Dật ­ thần thành hoàng; thờ  các vua Hồ  và  14
  15. các bậc tiên liệt họ  Hồ  Việt Nam. Đây là sự  ghi nhận của nhà nước và xã hội  đối với những người có công với dân, với nước; với một công trình có giá trị lớn   về đời sống văn hóa tâm linh, lịch sử và nghệ thuật kiến trúc. ­ Mộ và nhà thờ họ Hồ Tùng Mậu Mộ và nhà thờ họ Hồ Tùng Mậu, tọa lạc tại thôn 5, xã Quỳnh Đôi, Quỳnh   Lưu, tỉnh Nghệ An. Tổng diện tích khuôn viên: 1.500 m2, nơi tôn thờ  và tưởng  niệm cụ Hồ Tùng Mậu và các bậc hậu duệ trong dòng họ đã có công bảo quốc,  hộ dân trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Cụ  Hồ  Tùng Mậu, tên khai sinh là Hồ  Bá Cự, sinh ngày 15 tháng 6 năm   1896, quê  ở  xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ  An. Cụ  ra đời trong   một gia đình khoa bảng có truyền thống yêu nước. Năm 1920 Hồ  Tùng Mậu ra  nước ngoài, với hoài bão tìm con đường giải phóng nước nhà khỏi ách thực dân.  Năm 1923, tại Quảng Châu (Trung Quốc), ông cùng Lê Hồng Sơn thành lập Tâm  Tâm xã (Tân Việt Thanh niên đoàn). Tháng 6 năm 1925, được sự  chỉ  dẫn của Nguyễn Ái Quốc, Hồ  Tùng Mậu   đã cùng Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong tập hợp những thanh niên tích cực nhất,   chuyển Tâm tâm xã thành tổ  chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí  Hội. Đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản đoàn (trong lớp 9 người đầu  tiên) là tổ chức nòng cốt trong Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Những năm 1925 – 1927, Hồ  Tùng Mậu làm phụ  giảng và phụ  trách công  tác tổ chức các khóa học. Tháng 3 năm 1926, đồng chí gia nhập Đảng cộng sản   Trung Quốc. Trong những năm hoạt động tham gia chống thực dân pháp Hồ  Tùng Mậu   bị bắt và bị tù đày nhiều lần. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp ở  Đông Dương, Hồ  Tùng Mậu cùng anh em tù vượt ngục, trở  về  quê hương sau   14 năm bị giam cầm, đồng chí tiếp tục vào Thừa Thiên Huế tham gia khởi nghĩa  giành chính quyền. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, đồng chí Hồ  Tùng Mậu  được   cử   làm   Chủ   tịch   uỷ   ban   hành   chính   kháng   chiến   Liên   khu   IV.   Tháng  8/1948, đồng chí được Chính phủ điều động lên Việt Bắc giữ chức Tổng thanh  tra Chính phủ. Tháng 2 năm 1951, tại Đại hội lần thứ  hai của Đảng, đồng chí   Hồ Tùng Mậu được bầu vào Ban chấp hành Trung ương, giữ chức Trưởng ban   kiểm tra Trung  ương Đảng. Đồng chí vẫn kiêm giữ  chức Tổng thanh tra Chính  phủ và Hội trưởng Hội Việt ­ Hoa hữu nghị. Đang lúc cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp và can   thiệp Mỹ bước vào giai đoạn quyết liệt, đồng chí được cử đi công tác Liên khu  V. Khoảng 5 giờ chiều ngày 23/7/1951, trên đường quốc lộ 1A, đồng chí vừa ra  khỏi chợ Cồng (nay là thị trấn Tĩnh Gia, Thanh Hóa) liền bị máy bay giặc Pháp  bắn. Thi hài đồng chí được Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa đưa về mai táng tại  xã Quỳnh Đôi, Đồng chí Hồ Tùng Mậu thọ 55 tuổi. 15
  16. Nhà thờ  và Mộ  cụ  Hồ  Tùng Mậu  ở  Quỳnh  Lưu, Nghệ  An đã được xếp hạng Di tích lịch sử  văn hoá Quốc gia vào tháng  2/2000 theo Quyết định số 03/QĐ ­ BVHTT. Hiện nay, di tích nhà thờ  và mộ  đồng chí Hồ  Tùng Mậu đang được tu bổ,   tôn tạo với tổng dự  toán công trình trên 17,5 tỷ  đồng với các hạng mục công  trình: Nhà tưởng niệm nhà cách mạng tiền bối Hồ  Tùng Mậu được xây dựng   với tổng diện tích 1.208,66m2, gồm các hạng mục chính là: Nhà thờ  và nhà bái  đường Nhà lưu niệm, sân, cổng, tường rào, bồn cây, ao cá, bể  hoá vàng…; Tu  bổ  lăng mộ  cụ Hồ Tùng Mậu với diện tích 104m2. Đây sẽ là khu di tích lịch sử  quan trọng của xã Quỳnh Đôi và huyện Quỳnh Lưu, là nơi tham quan học tập,   nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp cách mạng của đồng chí Hồ Tùng Mậu và   là địa chỉ đỏ giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ.  ­ Đình làng Quỳnh Đôi Đình làng Quỳnh Đôi thuộc xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ  An.  Khi đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, đa số sĩ phu, nhân dân Quỳnh Đôi  đứng về  phe chủ  chiến. Tiêu biểu nhất là các cụ  Văn Đức Giai, Dương Doãn   Hài, Hồ Bá Ôn. Thời Cần Vương, sĩ phu Quỳnh Đôi như các ông Phan Duy Phổ,   Hồ Trọng Miên... đều nhiệt liệt hưởng ứng. Tham gia khởi nghĩa chống Pháp có  các cụ  giải nguyên Nguyễn Quý Yêm bỏ  quan theo Tống Duy Tân rồi bị  Pháp  bắt và xử  tử năm 1891 hay như cụ giải nguyên Dương Quế Phổ chống Pháp ở  Quỳ  Châu bị  bắt giải về  Vinh đã uống thuốc độc tự  tử  để  giữ  tròn danh tiết   (1887). Cũng trong phong trào chống Pháp sau đó ít lâu nổi bật lên những gương  mặt khí tiết của người Quỳnh Đôi như  bà Lụa (Trần Thị Trâm), vợ  ông Hồ  Bá  Trị, em ruột ám sát Hồ Bá Ôn. Bà Lụa đã bôn ba từ Việt Nam sang Xiêm mua vũ  khí cho nghĩa quân Phan Đình Phùng, Nguyễn Xuân Ôn... và làm liên lạc cho các  chí sĩ cách mạng. Bà bị giặc bắt, dụ dỗ, tra tấn song không hé răng một lời. Đình   làng Quỳnh Đôi đã trở  thành nơi gặp gỡ  của các sỹ  phu yêu nước trong phong   trào Văn Thân Cần Vương. Trong phong trào xuất dương cứu nước nhiều thanh niên Quỳnh Đôi đã  hăng hái ra đi như  Hồ  Học Lãm, Nguyễn Nhu, Hồ  Ngọc Chương, tiêu biểu là  đồng chí Hồ  Tùng Mậu, một trong những đảng viên cộng sản đầu tiên của   Quỳnh Lưu được chủ  tịch Hồ  Chí Minh đào tạo  ở  Quảng Châu, Trung Quốc  năm 1924. Đồng chí là tấm gương tiêu biểu cho tinh thần yêu nước và cách  mạng của nhân dân Việt Nam. Từ  năm 1925 trở về  sau, phong trào cách mạng  ở  Nghệ  Tĩnh lên cao, đình   Quỳnh Đôi trở thành nơi tập trung các cuộc đấu tranh, hội họp bí mật của các tổ  chức cách mạng như: Tân Việt và Thanh Niên. Những thanh niên yêu nước làng  Quỳnh thường tổ chức các hoạt động văn hoá tại đình làng, diễn kịch, tuồng, trò   Trưng Trắc, Trưng Nhị, bình thơ  để  tuyên truyền, cổ  động trong quần chúng  nhân dân. 16
  17. Trên cơ  sở  sự  phát triển của các tổ  chức Tân Việt và Thanh Niên, sau khi   Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào tháng 3­1930 chi bộ  Đảng làng Quỳnh   được thành lập. Dưới sự  lãnh đạo của Đảng, nhiều cuộc diễn thuyết, mít tinh   biểu tình đã được tổ  chức tại đình làng đã lôi kéo nhân dân các làng đến tham  dự. Tại đình làng đã diễn ra nhiều sự  kiện lịch sử  cách mạng tiêu biểu trong  thời kì 1930­1931. Ngày 20­6­1930 nhân dân Quỳnh Đôi cũng tham gia tích cực  trong cuộc biểu tình tại xã Quỳnh Thuận. Để  chuẩn bị  cho cuộc biểu tình tối  hôm trước đó, chi bộ Quỳnh Đôi đã tổ chức treo cờ và diễn thuyết tại đình làng   để biểu dương lực lượng và cổ vũ cho khí thế cách mạng. Ngày 1­8­1930 nhân kỷ  niệm ngày thế  giới đứng lên đấu tranh chống đế  quốc thì chi bộ Đảng Quỳnh Đôi đã tổ chức treo cờ, rải truyền đơn tại đình làng   và các địa điểm trọng yếu. Đầu tháng 10­1930 chi bộ Quỳnh Đôi đã tổ chức cho   nhân dân tham gia vào phong trào đấu tranh ở Quỳnh Yên. Tự vệ đỏ  đã tổ chức   treo cờ tại đình làng để cổ vũ tinh thần cho nhân dân. Đội tự  vệ  đỏ  làng Quỳnh hàng đêm tập trung diễn tập tại đình làng để  chuẩn bị tinh thần cho các cuộc đấu tranh. Trong các cuộc biểu tình, tiếng trống   lệnh được phát ra từ  đình làng đã kêu gọi, thúc dục quần chúng nhân dân tập   trung tập hợp lực lượng tại đình rồi kéo lên phủ huyện đấu tranh, đưa yêu sách   đòi quyền lợi. Khi chính quyền Xô Viết ra đời  ở  các thôn xã thì đình trở  thành  nơi làm việc của các chính quyền xã Bộ Nông. Mọi hoạt động chính trị, xã hội,   văn hoá, quân sự, kinh tế và văn hoá đều được quy tụ tại đình làng. Chính quyền   Xô Viết ra đời đã đem lại một cuộc sống mới no  ấm, tươi vui cho nhân dân.  Lần đầu tiên trong lịch sử, tại ngôi đình làng Quỳnh Đôi, chính quyền Xô viết  đứng ra gánh vác công việc như  một chính quyền cách mạng theo gương cách  mạng tháng Mười Nga. Tại đây chính quyền đã đứng ra tuyên bố xoá bỏ địa tô,  bãi miễn vụ  mùa cho nhân dân. Các lớp học chữ  quốc ngữ, lớp học văn hoá   được tổ chức ngay tại đình làng. Không chỉ vậy đình làng Quỳnh Đôi còn là chứng tích tố cáo tội ác dã man   của kẻ thù. Tại nơi đây đã diễn ra nhiều hành động trắng trợn tàn bạo của bọn  thực dân phong kiến. Sau các sự kiện đấu tranh và sự ra đời của chính quyền Xô  Viết. Bọn đế  quốc tay sai vô cùng căm tức, chúng mở  nhiều cuộc khủng bố  trắng để đàn áp cách mạng. Từ  tháng 1­1931 tại Quỳnh Đôi thực dân Pháp kéo   về đóng đồn tại đình làng Quỳnh và đặt 9 điếm canh ở những nơi có phong trào   mạnh. Suốt ngày bọn lính lùng sục bắt bớ  những người hoạt động cách mạng   đem về  tra khảo, giam giữ. Để  uy hiếp tinh thần cách mạng của quần chúng,  thực dân Pháp và lũ tay sai đã tra tấn dã man các chiến sỹ  ngày tại đình làng.   Chúng dùng vũ lực, dụ  dỗ, mua chuộc cũng không làm lay chuyển được ý chí  cách mạng của những người con làng Quỳnh gang thép, kiên cường, thuỷ chung.   Giữa tháng 2 năm 1931, chúng đã đem bắn 9 chiến sỹ cách mạng trước cửa đình   17
  18. làng, đó là các đồng chí: Dương Ngọc Liễn, Hoàng Văn Hợp, Hồ  Sỹ  Nam, Hồ  Phi Phồn, Hồ Sỹ Hoan, Phan Minh Khang… Trong cách mạng tháng 8 năm 1945, đình làng Quỳnh Đôi cũng là nơi hội   họp làm việc của Mặt  trận Việt Minh.    Đình  được xây dựng từ  năm 1850,  nhưng bị chiến tranh và thiên tai tàn phá làm hư hỏng nhiều. Năm Tự Đức thứ 17  (1854) đình được thiết kế sửa chữa lại. Ông Phạm Đại Phu giúp làng đá, một số  người   cùng  lo   việc  xây   dựng  đình   như   ông   Hồ   Văn   Viễn  ­   cựu   lý  trưởng,  Dương Đức Quán, Phạm Đình Uyển, Phạm Đình Toái (cụ  Hường Phạm) làm  quan trong triều đình Huế. Toàn bộ  số  gỗ  lim làm đình và ngói lợp đều do cụ  Phạm Đình Toái bỏ tiền ra để lo liệu. Đến năm Tân Hợi 1861 toàn bộ công trình  ngôi đình được hoàn thành. Cột đình 3 người ôm, đình cao hơn cả điện Thái Hòa  triều Nguyễn ở Huế. Đình làng cao ráo thoáng mát, xung quanh có nhiều cây cối   làm cho đình càng thêm vẻ uy nghiêm.   Đình   làng   Quỳnh   Đôi   khá   đồ   sộ,   mặt  ngoảnh hướng Đông Nam, gồm có 5 gian, 2 hồi có 6 vì kèo, 24 cột, cột cao 5,3m   có đường kính một người ôm không xuể. Đình xây theo kiểu tứ trụ, mái chuông,   lợp ngói nam ta, vì kèo được chạm trổ hoa văn hoa lá. Trước sân đình dựng 2 bia   đá nói về lịch sử xây dựng và trùng tu đình. Đình làng là trung tâm hành chính, văn hoá của làng. Đây là nơi diễn ra mọi  sinh hoạt chung của cả  làng, hàng năm nhân dân thường tổ  chức các kỳ  tế  lễ,   vui chơi sinh hoạt trong các lễ  hội như  lễ  kỳ  yên, lễ  kỳ  phúc.... Các lễ  hội tổ  chức tại đình khá long trọng, nhất là Lễ  rước Thần từ  Đền về  đình  . Sau các  nghi thức tế lễ dân làng tổ  chức các trò vui chơi, ca hát.   Đình làng Quỳnh Đôi  còn là một di tích cách mạng trong thời kỳ Xô Viết Nghệ Tĩnh. Năm 1978 đình  làng đã được chính quyền địa phương dùng làm nhà truyền thống của xã để  phục vụ  công tác giáo dục truyền thống cách mạng cho con em địa phương.  Trong đó có trưng bày một số  tài liệu hiện vật liên quan đến phong trào cách   mạng Quỳnh Đôi như  báo Lao Động, mâm chè, mác, gậy mun, va ly, sắc lệnh  của Hồ Chủ Tịch….. Đình làng Quỳnh Đôi được công nhận di tích Lịch sử  ­ Văn hóa cấp quốc   gia ngày 30/8/1991.  ­ Nhà thờ họ Hồ  Nhà thờ  họ  Hồ  Đại tộc, tọa lạc tại thôn 4, xã Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, tỉnh  Nghệ  An. Tổng diện tích khuôn viên: 6.200 m2, nơi tôn thờ  và tưởng niệm cụ  Hồ  Kha và các bậc hậu duệ trong dòng họ  đã có công giúp nước, an dân trong   hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Cụ  Hồ  Kha sinh vào khoảng đầu thế  kỷ  14 và lập nghiệp tại thôn Quỳ  Trạch (nay là xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An ), ông là cháu đời  18
  19. thứ mười ba của Trạng nguyên, thứ sử châu diễn Hồ Hưng Dật, sau đó ông dời   sang trang Tiên sinh xã Nghĩa Liệt, tổng đường Khê (thuộc địa phận 3 xã Nghĩa  Thuận, Nghĩa Mỹ, Nghĩa Trung, huyện Nam Đàn ­ nay là thị xã Thái Hòa ). Vào năm 1314 (Giáp Dần, năm đầu đời Trần Minh Tông niên hiệu Đại  Khánh) ông từ Tiên sinh qua Bào Đột đến xem xét vùng đất sa bồi ở Đông bắc   xã Hoàn Hậu. Từ đường thiên Lý vượt qua Đồi Thần, ông thấy phong thủy, hữu  tình, với nhận thức và tâm linh thửa ấy, cụ cho đất này là “Đinh long dẫn mạch,   đinh thủy dáo đường” con cháu đời sau sẽ khai thác những cảnh vật thiên tạo ấy   như  là điểm trợ  lực về  tinh thần để  gây sự  phấn chấn trong học tập, trong sự  nghiệp. Sau một thời gian khai phá ông đã giao khu đất này lại cho con trai là Hồ  Hồng kế  tục sự  nghiệp khai hoang lập  ấp. Ông Hồ  Kha được phong làm phúc   thần của làng Quỳnh, “Hồ khai cơ ”. Nhà thờ họ Hồ được công nhận di tích Lịch sử ­ Văn hóa cấp quốc gia ngày  22/01/1992.  ­ Nhà thờ họ Nguyễn Triệu Cơ Nhà thờ  họ  Nguyễn Triệu Cơ, tọa lạc  ở  thôn 4 xã Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu,  Nghệ An. Tổng diện tích khuôn viên: 1.587 m2, nơi tôn thờ, tưởng nhớ công đức  cụ  Nguyễn Thạc và các bậc tiền nhân đã có công giúp nước, giúp dân trong   cuộc sống đời thường. Cụ  Nguyễn Thạc húy là Ma Lạnh công, hiệu là An tâm  cư sĩ, ông là hậu duệ của Đinh Quận Công Nguyễn Bặc. Ông sinh ra và lớn lên   ở  thôn Hà Giang, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Nay là thôn Bình Hàn,   huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Cuối thời Trần chế  độ  phong kiến trung  ương tập quyền thối nát, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, nhiều cuộc khởi   nghĩa của nông dân nổ  ra trong cả  nước. Năm 1344, Ngô Bệ   ở  Trà Hưng, Hải  Dương dựng cờ khởi nghĩa. Ông đã tham gia chiến đấu tích cực trong hàng ngũ  nghĩa quân. Cuộc khởi nghĩa kéo dài 16 năm gây tiếng vang rất lớn, tháng 3 năm  1960 cuộc khởi nghĩa bị  quân đội triều Trần dật tắt, Nguyễn Thạc đã lẩn trốn   vào vùng Hoan Diễn. Trong một thời gian khảo sát tìm hiểu địa lý trong vùng và  liên hệ cộng tác được với Hồ Hồng; Hành Khiển, Châu Diễn, Hoàng Khánh, ba  người quyết định về  định cư  ở  thổ  đôi chiêu dân lập ấp, khai hoang quyết tâm  biến mảnh đất hoang vu này thành nơi sinh sống lâu dài và con cháu đời sau. Sau  khi Hồ Hồng hy sinh, Hoàng Khánh bận việc quan, tất cả việc xây dựng cơ sở  tổ chức thôn trang giao cho Nguyễn Thạc trông coi. Hai công trình thủy lợi: đập   Hói, đật Bờ Re hoàn thành dưới sự chỉ huy của Nguyễn Thạc, diện tích canh tác   của Thổ  Đôi được mở  rộng. Ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ  9 (1924) cụ  được phong làm phúc thần của làng Quỳnh cùng với các ông Hồ Kha, Hồ Hồng  và Hoàng Khánh. Hiện nay, tại nhà thờ  còn lưu giữ  nhiều hiện vật, tài liệu có  giá trị, tiêu biểu Sắc phong của vua trao cho cả bốn Cụ.                                 19
  20. Nhà thờ  họ  Nguyễn Triệu Cơ  được công nhận di tích Lịch sử  ­ Văn hóa  cấp quốc gia ngày 19/02/1998. ­ Nhà thờ họ Hoàng Khánh Nhà thờ  họ  Hoàng Khánh, tọa lạc tại thôn 4, xã Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, tỉnh  Nghệ  An. Tổng diện tích khuôn viên: 2.660 m2, nơi tôn thờ  và tưởng niệm cụ  Hoàng Khánh và các bậc hậu duệ  trong dòng họ  đã có công bảo quốc, hộ  dân  trong cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.     Ảnh: Nhà thờ họ Hoàng Khánh Cụ  Hoàng Khánh sinh năm 1358  ở  Diễn Vạn ­ huyện Diễn Châu, là cháu  nội của Sát Hải đại vương Hoàng Tá Thốn ­ người có công lao to lớn trong cuộc   kháng chiến chống Mông ­ Nguyên lần thứ 2 (1258). Tuổi trưởng thành ông theo  cha đi tiểu phạt thổ  phỉ   ở  vùng núi phía tây Thanh Hóa và một số  cuộc chinh   phạt giặc Chiêm  ở  Phương Nam; Ông thi đậu Hương cống và lập được nhiều   công lao nên dần dần được cân nhắc, ông được nhà Trần (Trần Duệ Tông 1375  ­ 1377) phong hàm hành Khiển và được giao Quản thủ  Lộ  Diễn Châu. Trong  thời gian đó ông vừa tiếp tục củng cố cơ sở kinh tế, quân sự, vừa tổ  chức xây   dựng những cơ  sở  phòng thủ  và mở  mang kinh tế, văn hóa trong vùng. Người  chăm lo kinh tế  xã hội của Lộ  Diễn Châu, Hoàng Khánh đã tổ  chức chiêu dân  lập ấp, tạo nên một xã ở huyện Quỳnh lưu trong đó có Thổ Đôi xưa  (nay là xã  Quỳnh Đôi ). Đền thờ Hoàng Khánh được công nhận Di tích Lịch sử ­ Văn hóa cấp Quốc   gia ngày 12/02/1999. 2.4. Các hình thức sử dụng di tích lịch sử  ­ văn hóa ở  Quỳnh Lưu  để  nâng cao chất lượng dạy học lịch sử địa phương  lớp 12 tại trường THPT   Quỳnh Lưu 4 Trên cở  sở  các  văn bản hướng dẫn  của Bộ  giáo dục để  tài liệu chương  trình bám sát hướng phát triển phẩm chất, năng lực cho người học, nhiều năm  gần đây, nhiều  sở  giáo dục và đào tạo đã giao quyền tự  chủ  cho các đơn vị  trường xây dựng phân phối chương trình, nội dung dạy học lịch sử địa phương  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0