intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Thiết kế và sử dụng bài tập tiếp cận PISA trong dạy học chương I – Phần B: Chuyển hóa vật chất và năng lượng ở động vật – Sinh học 11 nhằm phát huy tính tích cực tư duy cho học sinh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:56

31
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Thiết kế và sử dụng bài tập tiếp cận PISA trong dạy học chương I – Phần B: Chuyển hóa vật chất và năng lượng ở động vật – Sinh học 11 nhằm phát huy tính tích cực tư duy cho học sinh" nhằm thiết kế và sử dụng bài tập tiếp cận PISA trong dạy học chương I – Phần B: Chuyển hóa vật chất và năng lượng ở động vật nhằm phát huy tính tích cực tư duy cho học sinh; Nâng cao năng lực cho giáo viên về đánh giá năng lực học sinh theo chuẩn quốc tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Thiết kế và sử dụng bài tập tiếp cận PISA trong dạy học chương I – Phần B: Chuyển hóa vật chất và năng lượng ở động vật – Sinh học 11 nhằm phát huy tính tích cực tư duy cho học sinh

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT BẮC YÊN THÀNH THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG BÀI TẬP TIẾP CẬN PISA TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG I - PHẦN B: CHUYỂN HÓA VẬT CHẤT VÀ NĂNG LƯỢNG Ở ĐỘNG VẬT - SINH HỌC 11 NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC TƯ DUY CHO HỌC SINH Môn: Sinh học Tác giả: Trần Thị Kim Lương Lê Thị Kim Ngân Tổ chuyên môn: TỰ NHIÊN Yên Thành – 2022. Số điện thoại: 0965755208 i
  2. MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG Phần I: Đặt vấn đề 1 1. Lí do chọn đề tài 2 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 2 4. Phương pháp nghiên cứu 2 Phần II: Nội dung nghiên cứu 3 Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn xây dựng bài tập tiếp cận 3 PISA 1.1 Cơ sở lý luận của việc xây dựng bài tập theo tiếp cận PISA 3 1.1.1. Bài tập PISA là gì? 3 1.1.2. Đặc điểm bài tập PISA 3 1.1.3. Đánh giá năng lực khoa học theo quan điểm PISA 4 1.1.4. Vai trò và ý nghĩa của việc sử dụng bài tập tiếp cận PISA trong 5 dạy học, đánh giá năng lực nhằm phát huy tính tích cực tư duy cho HS 1.2. Thực tiễn việc xây dựng và vận dụng câu hỏi theo kĩ thuật PISA tại 6 đơn vị công tác 1.2.1. Thực trạng chung 6 1.2.2. Thực tiễn việc “Thiết kế và sử dụng bài tập tiếp cận PISA trong 8 dạy học chương I – Phần B: Chuyển hóa vật chất và năng lượng ở động vật – Sinh học 11 nhằm phát huy tính tích cực tư duy cho học sinh” tại đơn vị công tác Chương 2: “Thiết kế và sử dụng bài tập tiếp cận PISA trong dạy học 10 chương I – Phần B: Chuyển hóa vật chất và năng lượng ở động vật - Sinh học 11 nhằm phát huy tính tích cực tư duy cho học sinh” 2.1. Cơ sở, nguyên tắc và quy trình xây dựng bài tập tiếp cận PISA 10 2.2. Xây dựng bài tập và hướng dẫn chấm theo tiếp cận PISA “Chương I 12 – Phần B: Chuyển hóa vật chất và năng lượng ở động vật” ii
  3. 2.3. Sử dụng bài tập theo tiếp cận PISA “Chương I – Phần B: Chuyển 42 hóa vật chất và năng lượng ở động vật” 2.3.1 Sử dụng trong các khâu của tiến trình dạy học 42 2.3.2 Sử dụng kết hợp bài tập tiếp cận PISA trong kĩ thuật, phương pháp 44 dạy học tích cực 2.3.3 Sử dụng để kiểm tra định kì và ôn thi tốt nghiệp THPT Quốc gia 45 Chương 3: Kết quả thực nghiệm 46 3.1. Nội dung thực nghiệm 46 3.2. Kết quả thực nghiệm 47 Phần III. Kết luận và kiến nghị 51 1. Kết luận 51 2. Kiến nghị 51 iii
  4. BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết Tên đầy đủ tắt 1 GV Giáo viên 2 HS Học sinh 3 NL Năng lực 4 TN Thực nghiệm 5 ĐC Đối chứng 6 KH Khoa học 7 CN Công nghệ 8 SGK Sách giáo khoa iv
  5. PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 không những là cơ hội phát triển mà còn là một thách thức lớn đối với nguồn nhân lực tương lai. Để có thể hòa nhập và thành công trong thời đại “Cách mạnh 4.0”, ngoài trình độ chuyên môn, thế hệ trẻ còn cần tới rất nhiều kỹ năng thiết yếu khác, trong đó kĩ năng tư duy được xem là một trong những kỹ năng có giá trị nhất, có tính ứng dụng cao nhất mà mỗi người cần có để học tập và làm việc hiệu quả. Tư duy của con người chính là “chìa khóa” đưa thế giới không ngừng phát triển, nhờ có tư duy mới có quá trình sáng tạo giúp cho con người khám phá, phát minh ra những công trình vĩ đại làm thay đổi thế giới. Trong giáo dục, tư duy của người học thể hiện ở tính chủ động, tích cực vận dụng linh hoạt những kiến thức kinh nghiệm vào trong những tình huống, nhiệm vụ học tập, rèn luyện nhằm giải quyết tốt các nhiệm vụ đặt ra. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, ở Việt Nam một bộ phận không nhỏ học sinh còn thụ động, chưa tích cực, hứng thú tham gia vào các hoạt động học mà năng lực chủ yếu được hình thành thông qua hoạt động học của học sinh. Chính vì vậy, đòi hỏi giáo viên phải tổ chức dạy học theo phương pháp dạy học tích cực, cần có một hệ thống bài tập định hướng năng lực tư duy để đặt học sinh vào các tình huống xuất phát từ thực tiễn, gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận và các em sẽ tích cực tương tác, chủ động tham gia, có nhu cầu được tìm hiểu, và vận dụng sáng tạo những điều đã học vào thực tiễn … Như vậy mới có thể phát huy được tính tích cực tư duy cho học sinh PISA – Programme for International Student Assessment – Chương trình giá học sinh quốc tế do hiệp hội các nước phát triển (OECD) khởi xướng và chỉ đạo. Các câu hỏi của PISA (đánh giá học sinh theo chuẩn quốc tế) đều dựa trên các tình huống của đời sống thực, hướng đến rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức, phát triển khả năng lập luận, giải quyết vấn đề liên quan đến khoa học cho HS, do đó để tìm phương án trả lời hoặc cách giải quyết nhiệm vụ đòi hỏi học sinh phải thực hiện các thao tác của tư duy như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa, đánh giá và vận dụng kiến thức. Dạng thức của câu hỏi phong phú, chất liệu được sử dụng để xây dựng các câu hỏi đa dạng như: Bảng, biểu đồ, tranh ảnh quảng cáo, văn bản, bài báo (Ministry og Education and Training, 2015). Trong quá trình dạy học môn sinh học Chúng tôi nhận thấy quan điểm của PISA trong việc đánh giá học sinh phù hợp với định hướng phát huy tính tích cực tư duy cho học sinh. Xu hướng sử dụng bài thi đánh giá tư duy, đánh giá năng lực theo chuẩn Quốc tế ngày càng được các trường đại học hàng đầu Việt Nam dùng để xét tuyển và dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong những năm tiếp theo, đòi hỏi giáo viên và học sinh phải kịp thời thích ứng. Vì vậy việc thiết kế và sử dụng hệ thống câu hỏi theo quan 1
  6. điểm PISA là cần thiết trong bối cảnh Việt Nam đang đổi mới căn bản và toàn diện Giáo dục. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Thiết kế và sử dụng bài tập tiếp cận PISA trong dạy học chương I – Phần B: Chuyển hóa vật chất và năng lượng ở động vật – Sinh học 11 nhằm phát huy tính tích cực tư duy cho học sinh” 2. Mục đích nghiên cứu - Thiết kế và sử dụng bài tập tiếp cận PISA trong dạy học chương I – Phần B: Chuyển hóa vật chất và năng lượng ở động vật nhằm phát huy tính tích cực tư duy cho học sinh. - Nâng cao năng lực cho giáo viên về đánh giá năng lực học sinh theo chuẩn quốc tế. 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu - Đề tài được thực hiên trong nội dung Chương I – Phần B: Chuyển hóa vật chất và năng lượng ở động vật và có sự tích hợp các môn học khác. - Đối tượng: 4 lớp 11 gồm 170 HS tại đơn vị công tác trong năm học 2021- 2022. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Sử dụng phối hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa … trong nghiên cứu tài liệu lý luận có liên quan. - Phương pháp tham vấn chuyên gia: Tham vấn các chuyên gia là giảng viên trường đại học Vinh cùng các giáo viên phổ thông về quy trình thiết kế và sử dụng bài tập tiếp cận PISA, xây dựng câu hỏi phát triển năng lực. - Thực nghiệm: Tổ chức thực nghiệm sư phạm để xem xét tính khả thi của đề tài. - Phương pháp thu thập và xử lí số liệu. 2
  7. PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN XÂY DỰNG BÀI TẬP TIẾP CẬN PISA 1.1. Cơ sở lý luận của việc xây dựng bài tập theo tiếp cận PISA 1.1.1. Bài tập PISA là gì? PISA – “Programme for International Student Assessment – Chương trình đánh giá HS quốc tế” do Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) khởi xướng và chỉ đạo, đối tượng đánh giá là HS trong độ tuổi kết thúc giai đoạn giáo dục bắt buộc ở hầu hết các quốc gia (15 năm 3 tháng đến 16 năm 2 tháng). PISA nổi bật nổi bật nhờ quy mô toàn cầu và tính chu kì 3 năm 1 lần. Mục tiêu tổng quát của PISA nhằm kiểm tra xem ở độ tuổi kết thúc giai đoạn giáo dục bắt buộc, HS đã chuẩn bị được những kiến thức kỹ năng gì. Chương trình hướng vào việc giải quyết và đo lường sự hiểu biết và khả năng giải quyết vấn đề trong cuộc sống hàng ngày của HS. Bài tập PISA chú trọng đánh giá khả năng HS vận dụng kiến thức và kỹ năng của mình khi đối mặt với những tình huống và thử thách liên quan đến kiến thức và kỹ năng đó. Bài tập PISA xây dựng 1 khung đánh giá năng lực riêng không dựa trên bất cứ chương trình giáo dục của một quốc gia nào về 3 mảng chính: Năng lực toán học, năng lực đọc hiểu và năng lực khoa học. Qua mỗi chu kì các năng lực được bổ sung thêm như: Năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tài chính, năng lực sử dụng máy vi tính, năng lực công dân toàn cầu. Mỗi kì đánh giá sẽ có một lĩnh vực được lựa chọn để đánh giá sâu hơn, gọi là lĩnh vực trọng tâm và sử dụng làm căn cứ để xếp loại chất lượng của các quốc gia. Kết quả của PISA giúp cung cấp các dữ liệu so sánh nhằm giúp các nước cải thiện các chính sách và kết quả giáo dục. PISA cũng khảo sát các mối quan hệ giữa việc học của học sinh và các yếu tố khác để hiểu rõ sự khác biệt về kết quả trong mỗi nước và giữa các nước. 1.1.2. Đặc điểm bài tập PISA Bài tập PISA đánh giá năng lực thông qua các Unit (bài tập) bao gồm phần dẫn “stimulus material” (có thể trình bày dưới dạng chữ, bảng, biểu đồ, tranh ảnh quảng cáo, văn bản, bài báo…) và theo sau đó là một số câu hỏi (item) được kết hợp cùng dựa trên một phần dẫn chung. Câu hỏi được xây dựng dựa trên: - Năng lực thành phần: Giải thích hiện tượng khoa học, Đánh giá và thiết kế các câu hỏi truy vấn khoa học, Phân tích và giải thích dữ liệu và các bằng chứng khoa học. - Bối cảnh tình huống: Sức khỏe – bệnh tật; tài nguyên; Chất lượng môi trường; thiên tai; khoa học và công nghệ. Đánh giá PISA không phải là đánh giá 3
  8. các ngữ cảnh (context), mà đánh giá về các năng lực (competencies), đánh giá kết quả về việc sử dụng thành công kiến thức và kĩ năng khoa học trong các tình huống, ngữ cảnh cụ thể đó. - Cấp độ kiến thức: Kiến thức nội dung, kiến thức thực hành, siêu kiến thức - Cấp độ nhận thức: Cấp độ thấp, cấp độ trung bình, cấp độ cao. Các kiểu câu hỏi được sử dụng trong các Unit: - Câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn (Multiple choice) - Câu hỏi Có – Không, Đúng – Sai phức hợp (Yes – No; True – False complex) - Câu hỏi đóng vai trò trả lời (dựa trên những trả lời có sẵn) - Câu hỏi mở đòi hỏi trả lời ngắn (Short response question) - Câu hỏi mở đòi hỏi trả lời dài (khi chấm sẽ phải tách ra từng phần để cho điểm) (Open – constructed response question) 1.1.3. Đánh giá năng lực khoa học theo quan điểm PISA NL khoa học theo PISA được thể hiện qua việc HS có kiến thức khoa học và sử dụng kiến thức để nhận ra các vấn đề khoa học, giải thích các hiện tượng khoa học và rút ra các kết luận trên cơ sở chứng cứ về các vấn đề liên quan đến khoa học; Hiểu những đặc tính của khoa học như một dạng tri thức của loài người và là hoạt động tìm tòi, khám phá của con người; Nhận thức được vai trò của khoa học; Sẵn sàng tham gia- như một công dân tích cực, vận dụng hiểu biết khoa học vào giải quyết các vấn đề liên quan. Với khái niệm của PISA về NLKH, nhận thấy NLKH được PISA mô tả gồm bốn yếu tố liên quan đến nhau: kiến thức, năng lực, bối cảnh và thái độ. Mối quan hệ giữa bốn yếu tố này được thể hiện qua hình 1: Hình 1. Các khía cạnh liên quan đến NLKH trong PISA 4
  9. Đánh giá năng lực khoa học theo quan điểm PISA Khi vận dụng quan điểm PISA trong đánh giá NLKH của HS sẽ khác với các hình thức đánh giá hiện nay ở các điểm sau: - Đánh giá PISA là đánh giá quan tâm đến sự phát triển người học từ đó tạo động cơ cho người học, giúp học có trách nhiệm hơn đối với việc học của mình. Cho phép GV nhận dạng và kích thích khả năng sáng tạo của HS. - Đánh giá PISA sẽ đánh giá mức độ nắm vững tri thức khoa học của HS ở mức độ tích hợp, trong khi đánh giá kiến thức, kĩ năng chỉ đánh giá được tri thức khoa học của HS ở mức độ đơn lẻ - Đánh giá PISA có khả năng đánh giá mức độ áp dụng tri thức khoa học vào thực tiễn của HS. Đánh giá năng lực khoa học của học sinh theo quan điểm PISA là: Đánh giá kiến thức khoa học của một cá nhân và khả năng sử dụng kiến thức đó để nhận biết các câu hỏi, tiếp thu kiến thức mới, giải thích các hiện tượng khoa học, và rút ra các kết luận có cơ sở về các vấn đề liên quan đến khoa học" 1.1.4. Vai trò và ý nghĩa của việc sử dụng bài tập tiếp cận PISA trong dạy học, đánh giá năng lực nhằm phát huy tính tích cực tư duy cho HS Theo từ điển Tiếng Việt “Tư duy là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lý”. Trong nghiên cứu về tư duy, có thể chỉ ra các loại hình tư duy khác nhau như tư duy logic (logical thinking), tư duy phản biện (critical thinking), tư duy sáng tạo (creative thinking), … Trong giáo dục, tư duy của người học thể hiện ở tính chủ động, tích cực vận dụng linh hoạt những kiến thức, kinh nghiệm vào trong những tình huống, nhiệm vụ học tập, rèn luyện nhằm giải quyết tốt các nhiệm vụ đặt ra. Đối với môn Sinh học chương trình đánh giá PISA chủ yếu nằm ở lĩnh vực thi khoa học. Thông qua chương trình đánh giá này giúp người học nâng cao năng lực khoa học, tích cực tư duy. Cụ thể: - Bài test được thiết kế dựa trên đánh giá năng lực thay vì kiểm tra kiến thức nội dung. Một Unit (bài tập) bao gồm phần dẫn “stimulus material” (có thể trình bày dưới dạng chữ, bảng, biểu đồ, tranh ảnh quảng cáo, văn bản, bài báo…) và theo sau đó là một số câu hỏi (item) được kết hợp cùng dựa trên một phần dẫn chung. Do đó, học sinh không cần học thuộc các kiến thức mà chú trọng đến việc học sinh sẽ sử dụng kiến thức đó như thế nào để giải quyết nhiệm vụ trong tình huống đặt ra. Và để tìm phương án trả lời hoặc cách giải quyết nhiệm vụ đòi hỏi học sinh phải thực hiện các thao tác của tư duy như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa, đánh giá và vận dụng kiến thức. 5
  10. - Các câu hỏi đánh giá (assessment items) được bố trí đặt vào các tình huống nói chung và không giới hạn trong cuộc sống ở trường. Các ngữ cảnh được lựa chọn dựa trên mối quan tâm (interest) và cuộc sống (life) của học sinh. Tạo ra sự hứng thú và cơ hội cho HS được giải quyết vấn đề trong ngữ cảnh có ý nghĩa. - Các kiểu câu hỏi của PISA rất đa dạng như: Câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn; Câu hỏi Có – Không, Đúng – Sai; Câu hỏi đóng vai trò trả lời (dựa trên những trả lời có sẵn); Câu hỏi mở đòi hỏi trả lời ngắn; Câu hỏi mở đòi hỏi trả lời dài. Tạo ra sự mới mẻ, đa dạng trong các nhiệm vụ được giao. - Các bài tập được xây dựng theo hướng mở giúp học sinh tiếp cận theo nhiều hướng, có thể đưa ra nhiều phương án giải quyết khác nhau. Câu trả lời không chỉ có một đáp án duy nhất mà có thể được chia thành một số mức độ: Mức đầy đủ, mức chưa đầy đủ, mức không đạt. Với cách đánh giá này, không những giúp học sinh tự tin, phát huy được ý kiến cá nhân mà còn giúp phát triển tư duy ở mức cao hơn là tư duy sáng tạo. - Thông qua kết quả đánh giá của bài thi, GV có thể phân tích và cải thiện kết quả giáo dục trong quá trình dạy học. 1.2. Thực trạng việc thiết kế và sử dụng bài tập tiếp cận PISA ở trường THPT 1.2.1. Thực trạng chung Việt Nam tham gia PISA từ chu kì 2012 với chỉ số GDP thấp nhất trong các quốc gia tham gia PISA (2009, thu nhập bình quân trên đầu người của Việt Nam được hơn 1000 USD/năm, thấp thứ 69/70 quốc gia và vùng lãnh thổ). Tuy nhiên, với quyết tâm của Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo, Việt Nam đã tham gia chu kì 2012, bắt đầu triển khai từ 2010. Khi ngay lần tham gia đầu tiên, Việt Nam đã đạt điểm cao hơn mức trung bình chung của OECD, hơn cả Anh, Mỹ, O-xtray- li-a trên bảng xếp hạng. Ở những chu kì tiếp theo kết quả của PISA của Việt Nam tiếp tục tỏa sáng, điều này cho thấy giáo dục Việt Nam không chỉ đạt thành tựu về phát triển quy mô, số lượng mà còn đạt chất lượng giáo dục phổ thông cơ bản không thua kém gì thế giới. Dưới đây là thông tin tóm tắt về kết quả PISA qua từng chu kì. Lĩnh vực trọng tâm 2012 2015 2018 Toán học 17/65 22/70 24/79 Khoa học 8/65 8/70 4/79 Đọc hiểu 19/65 32/70 13/79 Bảng 1: Kết quả PISA của Việt Nam qua từng chu kì. 6
  11. Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định, tham gia PISA là cơ hội hội nhập quốc tế về giáo dục; để biết nền giáo dục Việt Nam đang ở đâu trên thế giới, có được bức tranh tổng thể về giáo dục quốc gia so với giáo dục quốc tê, làm cơ sở cho đề xuất những thay đổi về chính sách giáo dục quốc gia. Điều này góp phần đổi mới phương pháp đánh giá, đưa ra cách tiếp cận mới về dạy – học, thi và đánh giá theo hướng phát triển năng lực, góp phần chuẩn bị tích cực cho lộ trình đổi mới giáo dục, xây dựng chương trình giáo dục phổ thông mới. Từ năm 2012, Bộ giáo dục cũng đã có nhiều lần tổ chức tập huấn cho cán bộ cốt cán từ trung ương đến địa phương. Để đưa PISA vào phổ thông, Bộ chỉ đạo trên toàn quốc các giáo viên đã được tập huấn PISA về trường sẽ giới thiệu lại cho giáo viên trong trường thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn hàng tuần, thảo luận từng dạng bài thi và câu hỏi thi PISA. Đối vởi Tỉnh Nghệ An, từ năm 2012 đến nay cũng đã có nhiều nghiên cứu của các giáo sư và tiến sĩ về lĩnh vực này. Tại đơn vị công tác chúng tôi cũng đã được giới thiệu, cung cấp tài liệu để tham khảo. Chúng tôi tiến hành khảo sát 150 GV (90 GV tại đơn vị công tác và 60 GV trường THPT lân cận) bằng phiếu khảo sát với 6 câu hỏi: 1. Bài tập PISA là gì? 2. Đặc điểm của bài tập PISA? 3. Bài tập PISA chú trọng đánh giá năng lực hay kiểm tra kiến thức nội dung? 4. Bài tập đánh giá PISA có phù hợp với xu hướng của kì thi đánh giá tư duy, đánh giá năng lực trong tuyển sinh của các trường đại học không? 5. Thầy cô đã thiết kế và sử dụng các bài tập tiếp cận PISA vào việc giảng dạy chưa? 6. Thầy cô có mong muốn sử dụng hệ thống bài tập tiếp cận PISA để phát triển năng lực học sinh khi dạy môn học của mình không? Kết quả khảo sát cho thấy: 1. Tỉ lệ giáo viên chưa biết đến chiếm 30%. 2. Tỉ lệ giáo viên biết đến kì thi PISA nhưng chưa sử dụng hoặc sử dụng chưa hiệu quả chiếm 60%. 3. Tỉ lệ giáo viên đã thiết kế và vận dụng có hiệu quả chỉ chiếm 10%. 4. Tỉ lệ giáo viên đánh giá bài tập PISA là 1 kiểu đánh hiện đại và phù hợp với xu thế chung chiếm 90%. 5. Tỉ lệ giáo viên có mong muốn được sử dụng các dạng bài tập tiếp cận PISA vào giảng dạy môn của mình chiếm 90%. 7
  12. Hình 2: Kết quả khảo sát những hiểu biết về PISA của GV Như vậy cần thiết phải có sự quan tâm và nghiên cứu sâu về việc thiết kế và sử dụng bài tập tiếp cận PISA vào giảng dạy giúp GV và HS thích ứng kịp thời với xu hướng đánh giá hiện đại. 1.2.2. Thực tiễn việc “Thiết kế và sử dụng bài tập tiếp cận PISA trong dạy học chương I – Phần B: Chuyển hóa vật chất và năng lượng ở động vật – Sinh học 11 nhằm phát huy tính tích cực tư duy cho học sinh” tại đơn vị công tác a. Khó khăn Mặc dù vấn đề thi cử, đánh giá học sinh đang từng bước đổi mới nhưng còn nặng về lý thuyết, còn chú trọng vào ghi nhớ, tái hiện. Hầu hết trong các đề thi chưa hoặc có rất ít câu hỏi gắn liền kiến thức lý thuyết với thực tiễn. Các bài tập lại thiên về tính toán hóc búa, chưa khai thác hết bản chất sinh học cũng khiến cho các em mất dần tình yêu đối với môn Sinh học. Bên cạnh đó chủ yếu các đề thi chỉ có câu trắc nghiệm đã làm giảm khả năng trình bày, tư duy logic và khả năng sáng tạo của học sinh. Cùng với đó tư tưởng “thi gì học nấy”, “học để thi, học để lên lớp” là một trở ngại lớn trong việc GV đổi mới phương pháp đánh giá theo hướng phát triển năng lực. Việc thiết kế và sử dụng bài tập tiếp cận PISA trong dạy học là một xu hướng hiện đại góp phần chuẩn bị tích cực cho lộ trình đổi mới giáo dục, xây dựng chương trình giáo dục phổ thông mới. Tuy nhiên, cách ra dạng bài tập PISA tốn rất nhiều công sức khi soạn đề và chấm bài, đòi hỏi giáo viên phải lập kế hoạch, xây dựng thiết kế bài tập khá công phu, lựa chọn bối cảnh tình huống một cách cầu kỳ, cân nhắc kỹ lưỡng, phải thật sự tâm huyết mới có thể thực hiện. b. Thuận lợi Bên cạnh những khó khăn nêu trên, chúng tôi cũng nhận thấy những thuận lợi đặc thù của môn học Sinh học nói chung, cũng như nội dung chúng tôi lựa chọn nói riêng. Cụ thể: 8
  13. - Môn Sinh học trong PISA nằm chủ yếu ở lĩnh vực thi khoa học. Các bài thi nhằm kiểm tra khả năng vận dụng kiến thức khoa học để hiểu và giải thích các tình huống thực tiễn, tạo động cơ cho người học, giúp học có trách nhiệm hơn đối với việc học của mình. - Nội dung chương I – Phần B: Chuyển hóa vật chất và năng lượng ở động vật – Sinh học 11 phù hợp với bối cảnh tình huống trong PISA khoa học như: Sức khỏe – bệnh tật; tài nguyên; Chất lượng môi trường; thiên tai; khoa học và công nghệ. 9
  14. CHƯƠNG 2: THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG BÀI TẬP TIẾP CẬN PISA TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG I – PHẦN B: CHUYỂN HÓA VẬT CHẤT VÀ NĂNG LƯỢNG Ở ĐỘNG VẬT - SINH HỌC 11 NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC TƯ DUY CHO HỌC SINH 2.1. Cơ sở, nguyên tắc và quy trình xây dựng bài tập tiếp cận PISA * Cơ sở: Bài tập tiếp cận PISA hướng đến rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức, phát triển khả năng lập luận, giải quyết vấn đề liên quan đến khoa học cho HS. Vì vậy việc xây dựng bài tập PISA xuất phát từ: - Yêu cầu đổi mới đánh giá kết quả học tập của học sinh. Đánh giá kết quả học tập không lấy việc kiểm tra đánh giá khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm của việc đánh giá, cần chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. - Khái niệm, các biểu hiện và tiêu chí đánh giá năng lực môn học sinh học. - Nội dung và yêu cầu cần đạt của HS. - Những tình huống, vấn đề thực tế trong đời sống có liên quan đến lĩnh vực Sinh học. - Đề thi PISA qua các kì đánh giá. * Nguyên tắc: Để thiết kế câu hỏi PISA yêu cầu phần dẫn cũng như câu hỏi và phương án trả lời phải dự trên 5 nguyên tắc: - Nguyên tắc 1: Đảm bảo độ tin cậy khoa học. - Nguyên tắc 2: Đảm bảo độ giá trị. - Nguyên tắc 3: Đảm bảo tính thực tiễn. - Nguyên tắc 4: Đảm bảo tính tương quan, hợp lí, tính sư phạm. - Nguyên tắc 5: Đảm bảo tính toàn diện, đầy đủ. Hình 2: Nguyên tắc xây dựng bài tập tiếp cận PISA 10
  15. * Quy trình xây dựng bài tập tiếp cận PISA: Việc xây dựng hệ thống bài tập tiếp cận PISA nhằm phát huy tính tích cực tư duy cho HS gồm 5 bước: Bước 1: Lựa chọn đơn vị nội dung kiến thức phù hợp với các mục tiêu giáo dục. Bước 2: Dựa vào mục tiêu của bài học, nội dung học tập, xác định các yêu cầu cần đạt sau khi học tập, từ đó xác định năng lực, tiêu chí và mức độ biểu hiện của năng lực. Bước 3: Chọn chủ đề, tình huống, bối cảnh của phần dẫn, thiết kế bài tập, xây dựng hướng dẫn chấm. Bài tập tiếp cận PISA được thiết kế trong chương I – Phần B: Chuyển hóa vật chất và năng lượng ở động vật - Sinh học 11 được gắn với bối cảnh/tình huống thực tế hoặc giả định, do đó, để tìm ra phương án trả lời hoặc cách giải quyết nhiệm vụ đòi hỏi HS phải vận dụng khả năng phân tích, tổng hợp, đánh giá và vận dụng kiến thức. Các bài tập được xây dựng theo hướng mở giúp HS tiếp cận theo nhiều hướng khác nhau, góp phần hình thành và phát triển toàn diện năng lực ở HS. Các bài tập này không chỉ có một đáp án duy nhất mà có thể chia theo các mức độ hoàn thành nhiệm vụ học tập được giao. - Mức đầy đủ: HS thực hiện được đầy đủ các nhiệm vụ, giải quyết được các vấn đề bài tập đặt ra. Nếu quy đổi ra con điểm, thì cho điểm tối đa đối với câu trả lời này. - Mức chưa đầy đủ: HS thực hiện được một phần trong các nhiệm vụ học tập được giao. Nếu quy đổi ra con điểm, GV có thể chia nhỏ thang điểm để chấm. - Mức không đạt: HS thực hiện sai hoặc không thực hiện được các nhiệm vụ học tập được giao. Khi quy đổi ra con điểm, HS không được điểm Bước 4: Đưa vào thực nghiệm sư phạm. Bước 5: Chỉnh sửa, hoàn thiện hệ thống bài tập Hình 3: Quy trình xây dựng bài tập tiếp cận PISA 11
  16. 2.2. Xây dựng bài tập và hướng dẫn chấm theo tiếp cận PISA “Chương I – Phần B: Chuyển hóa vật chất và năng lượng ở động vật” Chủ đề Bài tập tiếp cận PISA Bài 1: Ống tiêu hóa Tiêu hóa ở động vật Bài 2: Ngộ độc thực phẩm Bài 3: Hút thuốc lá và các bệnh về phổi Hô hấp ở động vật Bài 4: Cảnh báo tai nạn đuối nước khi mùa hè tới gần Bài 5: Cảnh báo ngộ độc khí CO Bài 6: Hệ tuần hoàn Tuần hoàn máu Bài 7: Huyết áp – chỉ số sức khỏe Bài 8: Nhồi máu cơ tim Bài 9: Cân bằng nội môi Cân bằng nội môi Bài 10: Vai trò của gan trong điều hòa đường huyết và bệnh tiểu đường 12
  17. CHỦ ĐỀ: TIÊU HÓA Ở ĐỘNG VẬT BÀI 1: ỐNG TIÊU HÓA Tiêu hóa là quá trình biến đổi các chất hữu cơ phức tạp trong thức ăn thành các chất dinh dưỡng mà cơ thể có thể hấp thu được. Hệ tiêu hóa ở người bao gồm ống tiêu hóa và tuyến tiêu hóa. Các cơ quan này giúp cắt nhỏ và phân giải thức ăn; cuối cùng chất dinh dưỡng được cơ thể hấp thu còn chất thải, chất bã được loại thải ra ngoài. Hình sau mô tả ống dinh dưỡng ở người: Câu hỏi 1: Chú thích các cấu trúc 1,2,3,4,5,6 trên sơ đồ. 1 2 V 3 4 5 6 Câu hỏi 2: Quá trình tiêu hóa hóa học và hấp thụ chất dinh dưỡng diễn ra chủ yếu ở A. khoang miệng. B. dạ dày. C. ruột non. D. ruột già. Câu hỏi 3: Khi bạn uống một cốc sữa, sản phẩm cuối cùng của Protein trong sữa được tiêu hóa và hấp thụ vào máu là A. axit amin. B. axit béo. C. glucozo. D. nucleotit Câu hỏi 4: Tên chất chuyển xuống ống V và chức năng của chất đó? ……………………………………………………………………………… Câu hỏi 5: Trong trường hợp của bệnh tiêu chảy, chức năng của vùng số 4 diễn ra không còn bình thường nữa, cho biết tên gọi của quá trình xảy ra trong vùng 4. ……………………………………………………………………………… 13
  18. Câu hỏi 6: Trong cơ thể người 2 bộ phận tốn nhiều năng lượng nhất chính là bộ não và ruột. “Căng da bụng, chùng da mắt” thường được dùng để hình dung hiện tượng sau khi ăn no, chúng ta có cảm giác buồn ngủ, đặc biệt là buổi trưa. Hãy giải thích hiện tượng đó? ……………………………………………………………………………… Câu hỏi 7: Tùy vào chế độ ăn khác nhau mà các cơ quan trong ống tiêu hóa có sự biến đổi cấu tạo phù hợp để đạt hiệu quả tốt nhất. Hình sau mô tả ống tiêu hóa của động vật ăn thịt (hình 1) và động vật ăn thực vật (hình 2). Hãy chú thích các chữ cái a, b, c, d trên hình bằng các cấu trúc của ống tiêu hóa. Em có nhận xét gì về ruột và manh tràng động vật ăn thịt và động vật ăn cỏ. Giải thích? Câu hỏi 8: Dẫn đầu danh sách các loài động vật phàm ăn là voi. Mỗi ngày một chú voi trưởng thành có thể ngốn hết 200kg thức ăn và uống 200 lít nước. Tại sao động vật ăn cỏ phải ăn số lượng thức ăn rất lớn? Tại sao động vật ăn cỏ chỉ ăn cỏ mà vẫn sinh trưởng, phát triển bình thường? ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… 14
  19. Hướng dẫn đánh giá bài 1 Câu hỏi 1: - Mức đầy đủ: Chú thích: 5 cấu trúc. 1. Miệng 2. Thực quản 3. Dạ dày 4. Ruột non 5. Ruột già 6. Hậu môn - Mức chưa đầy đủ: Chỉ chú thích đúng 2-5 cấu trúc - Mức không đạt: Chỉ chú thích đúng 1 cấu trúc hoặc trả lời sai hoặc không trả lời. Câu hỏi 2: - Mức đầy đủ: C. Ruột non. - Mức không đạt: Chọn đáp án khác hoặc không trả lời. Câu hỏi 3: - Mức đầy đủ: A. Axit amin. - Mức không đạt: Chọn đáp án khác hoặc không trả lời. Câu hỏi 4: - Mức đầy đủ: Tên chất tiết: Mật; Chức năng: Tiêu hóa mỡ - Mức chưa đầy đủ: Chỉ nêu được tên chất tiết mà không nêu được chức năng hoặc ngược lại. - Mức không đạt: Trả lời sai hoặc không trả lời. Câu hỏi 5: - Mức đầy đủ: Hấp thụ nước. - Mức không đạt: Trả lời sai hoặc không trả lời. Câu hỏi 6: - Mức đầy đủ: Sau khi ăn, hoạt động tiêu hóa diễn ra mạnh mẽ → máu được dồn về dạ dày, ruột nhiều để thực hiện quá trình tiêu hóa → lượng máu lên não giảm → não thiếu oxi, năng lượng → gây cảm giác buồn ngủ. - Mức không đạt: Trả lời sai hoặc không trả lời. Câu hỏi 7: - Mức đầy đủ: Chú thích: 5 cấu trúc. b: Dạ dày a: Ruột non c: Manh tràng d: Ruột già 15
  20. Nhận xét: + Ruột của động vật ăn thịt ngắn hơn ruột của động vật ăn thực vật. + Manh tràng của động vật ăn cỏ phát triển hơn của động vật ăn thịt. Giải thích: + Thức ăn là thực vật sẽ khó tiêu hóa hơn nên động vật ăn thực vật cần có nhiều thời gian để tiêu hóa hơn → ruột dài hơn. + Ở động vật ăn thịt, manh tràng không phát triển và không có chức năng tiêu hóa, còn động vật ăn thực vật, manh tràng rất phát triển và có nhiều vi sinh vật sống cộng sinh tiếp tục tiêu hóa xenlulozo và các chất dinh dưỡng khác trong tế bào thực vật. - Mức chưa đầy đủ: Chú thích: Chỉ chú thích đúng 2 đến 4 cấu trúc. Nhận xét: Chỉ nhận xét được 1 trong 2 cấu trúc. Giải thích: Chỉ giải thích được 1 trong 2 đặc điểm. - Mức không đạt: Trả lời sai hoặc không trả lời. Câu hỏi 8: - Mức đầy đủ: Giải thích + Thức ăn là thực vật nghèo chất dinh dưỡng, khó tiêu hóa và hấp thụ. Vì vậy động vật ăn cỏ phải ăn số lượng rất lớn thức ăn để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể. + Động vật ăn cỏ chỉ ăn cỏ mà vẫn sinh trưởng, phát triển bình thường vì: Trong cỏ cũng có vitamin, muối khoáng, một lượng nhỏ axit nucleic, protein… và chủ yếu là xenlulozo; Động vật ăn có có enzim tiêu hóa xenlulozo tạo thành đường glucozo; Trong dạ cỏ của trâu bò có rất nhiều vi sinh vật cộng sinh, chính các vi sinh vật này sau khi chết sẽ là nguồn cung cấp Protein chính cho cơ thể. - Mức chưa đầy đủ: Chỉ giải thích được 1 trong 2 ý trên. - Mức không đạt: Trả lời sai hoặc không trả lời. 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0