intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Thiết kế và sử dụng thí nghiệm nêu vấn đề trong dạy học chủ đề Sự ăn mòn kim loại – hoá học 12 nhằm phát triển năng lực tư duy sáng tạo của học sinh THPT

Chia sẻ: Cỏ Xanh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:54

18
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của sáng kiến là nghiên cứu những vấn đề cơ bản về năng lực tư duy sáng tạo; về phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề; về vai trò của thí nghiệm hóa học trong quá trình dạy học, từ đó thiết kế và nêu ra cách thức sử dụng thí nghiệm hóa học theo phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề nhằm phát triển năng lực tư duy sáng tạo của học sinh trong chương trình hóa học trung học phổ thông.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Thiết kế và sử dụng thí nghiệm nêu vấn đề trong dạy học chủ đề Sự ăn mòn kim loại – hoá học 12 nhằm phát triển năng lực tư duy sáng tạo của học sinh THPT

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT HÀ HUY TẬP SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY VÀ SÁNG TẠO CHO HỌC SINH THPT QUA VIỆC SỬ DỤNG CÁC THÍ NGHIỆM TỰ THIẾT KẾ TRONG CHỦ ĐỀ “SỰ ĂN MÒN KIM LOẠI” HOÁ HỌC 12 LĨNH VỰC: HÓA HỌC      Nhóm tác giả : 1. NGUYỄN THỊ HOÀI AN   2. NGUYỄN HỮU TÂN   3. NGUYỄN THỊ LỆ THỦY Tổ : Khoa học tự nhiên Năm thực hiện : 2020­2021 Điện thoại : 0972.181.909 1
  2. Vinh, 2021 PHẦN I: MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài  Giáo dục Việt Nam đang từng bước chuyển mình trong tất cả các cấp học, bậc   học từ mầm non đến đại học và sau đại học.  Theo nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội và Quyết định  số 404/QĐ­TTg ngày 27/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đổi mới  chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ  thông, ngày 5/8/2015, Bộ  Giáo dục và  Đào tạo đã công bố  dự  thảo về  chương trình giáo dục phổ  thông tổng thể. Một  trong những mục tiêu của giáo dục đào tạo hiện nay là “Lý thuyết phải gắn liền với  thực tiễn ­ Học phải đi đôi với hành”. Quá trình này thành công sẽ đạt được 3 mục   tiêu dạy học: phát triển trí dục, phát triển tư duy và giáo dục cho học sinh.  Để dáp ứng những yêu cầu đó của giáo dục, giáo viên cần phải đổi mới phương  pháp dạy học theo hướng dạy học tích cực. Với đặc thù của các môn tự  nhiên nói  chung và môn hóa học nói riêng thì thí nghiệm đóng vai trò rất quan trọng. Không  những thí nghiệm giúp cho học sinh rèn luyện kỹ  năng, kỹ  xảo, củng cố  niềm tin   khoa học mà còn thông qua đó kích thích trí thông  minh, tính tò mò, gây hứng thú học  tập trong quá trình lĩnh hội tri thức, giúp học sinh chuyển từ tư duy trừu tượng sang  tư duy cụ thể. Thí nghiệm không chỉ là nguồn cung cấp kiến thức mà còn giúp các  em ôn tập, cũng cố, hệ thống hóa kiến thức. Đồng thời thí nghiệm cũng giúp HS rèn  luyện các thao tác tư duy như so sánh, tổng hợp, phân tích, qui nạp, đánh giá … Bên  cạnh đó thí nghiệm còn giúp học sinh có điều kiện rèn luyện kĩ năng thực hành, làm   thực nghiệm khoa học từ  đó giúp HS có tinh thần làm việc của nhà khoa học như  tính kiên nhẫn, cẩn thận và củng cố niềm tin vào khoa học cũng như yêu thích môn  hóa học. Hiện nay giáo  viên  hóa học đã có nhiều nỗ  lực đổi mới phương pháp và hình   thức tổ chức dạy học phù hợp cho riêng mình, các thầy cô đã biết áp dụng phương  pháp dạy học tích cực vào giảng dạy. Thầy cô đã biết đến phương pháp dạy học  nêu vấn đề  và cũng đã dùng thí nghiệm trong việc tạo tình huống khi dạy học. Đa   số  giáo viên cho rằng cần thiết và rất cần thiết phải sử dụng thí nghiệm tạo tình  huống có vấn đề trong dạy học. Mặc dù đã nhận thấy sự cần thiết của thí  nghiệm  tạo tình huống nhưng việc áp dụng thường xuyên còn rất thấp. Điều này chứng tỏ  các thầy cô còn gặp khó khăn trong việc hiểu rõ phương pháp, thiết kế, cách thức   tổ chức và tiến hành thí nghiệm tạo tình huống ... Chủ đề “Sự ăn mòn kim loại” trong chương trình hoá học 12 là một chủ đề gắn   liền với thực tiễn cuộc sống. Nội dung kiến thức của chủ đề tương đối khó và trừu  tượng đối với học sinh. Vì vậy nếu thí nghiệm được sử dụng để tạo tình huống có  2
  3. vấn đề sẽ phát huy cao độ tính tích cực tư duy, tích cực tham gia vào bài học, kích  thích khả  năng tự  khám phá, tự  phát hiện, tự  lĩnh hội tri thức của học sinh, từ  đó  thúc đẩy tính năng động, sáng tạo, giải quyết mọi tình huống mà vấn đề  đặt ra có   liên quan trong học tập và trong  cuộc sống. Từ  thực tiễn  đó chúng tôi quyết định  chọn đề tài: “Thiết kế và sử dụng thí nghiệm nêu vấn đề trong dạy học chủ đề   “ sự  ăn mòn kim loại” – hoá học 12 nhằm phát triển năng lực tư  duy sáng tạo   của học sinh THPT”. II. Mục đích nghiên cứu Trong  đề  tài này, chúng tôi tập trung nghiên cứu những vấn đề  cơ  bản về  năng lực tư duy sáng tạo; về phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề;   về vai trò của thí nghiệm hóa học trong quá trình dạy học, từ đó thiết kế và nêu ra   cách thức sử  dụng thí nghiệm hóa học theo phương pháp phát hiện và giải quyết   vấn đề  nhằm phát triển năng lực tư  duy sáng tạo của học sinh trong chương trình  hóa học trung học phổ thông. Phát triển năng lực tư duy sáng tạo của học sinh trong dạy học chủ đề “ Sự  ăn mòn Kim loại” thông qua thí nghiệm hóa học bằng phương pháp dạy học phát  hiện và giải quyết vấn đề. III. Nhiệm vụ nghiên cứu * Nghiên cứu cơ sở lí luận về: ­ Năng lực tư duy sáng tạo. ­ Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề. ­ Vai trò và cách sử dụng thí nghiệm hóa học trong quá trình dạy học. ­ Thiết kế các thí nghiệm hóa học trong  chủ  đề  “ Ăn mòn Kim loại”  theo phương  pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề. * Nghiên cứu cơ sở thực tiễn: ­ Tìm hiểu thực trạng việc sử dụng thí nghiệm hóa học trong quá trình dạy học hóa   học ở các trường trung học phổ thông (THPT). ­ Thực nghiệm sư phạm, xử lí kết quả bằng thống kê toán học, đánh giá việc thiết  kế  và sử  dụng thí nghiệm hóa học trong chủ  đề  “Ăn mòn Kim loại” theo phương  pháp phát hiện và giải quyết vấn đề  nhằm phát triển năng lực tư duy sáng tạo của  học sinh. IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1. Đối tượng nghiên cứu ­ Năng lực tư duy sáng tạo của học sinh. ­ Thí nghiệm hóa học vô cơ trong chủ đề “Sự ăn mòn Kim loại” thuộc chương trình  sách giáo khoa (SGK) hóa học trung học phổ thông. 2. Phạm vi nghiên cứu ­ Các thí nghiệm hóa học vô cơ trong chủ đề “Sự ăn mòn Kim loại” thuộc chương  trình hóa học trung học phổ thông. V. Phương pháp nghiên cứu ­ Phương pháp nghiên cứu lý thuyết ­ Phương pháp điều tra thăm dò và phương pháp thực nghiệm sư phạm. 3
  4. Để  chứng minh giả  thuyết trên, đề  tài sử  dụng phối hợp các nhóm phương  pháp nghiên cứu sau đây: 1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí luận Nghiên cứu, tổng quan các tài liệu về lý luận dạy học có liên quan đến đề tài. Sử  dụng phối hợp các phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp, hệ thống  hóa, khái quát hóa… các tài liệu đã thu thập được từ các nguồn khác nhau. 2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn ­ Điều tra, phỏng vấn   giáo viên (GV) và HS về  thực trạng việc phát triển  năng lực tư duy sáng tạo (TDST) cho HS trong dạy học hóa học. ­ Quan sát quá trình học tập của HS qua các giờ học, phỏng vấn HS. ­ Thực nghiệm sư phạm đánh giá hiệu quả  và tính khả  thi của hệ  thống bài  tập và các biện pháp đã đề xuất để bồi dưỡng năng lực TDST. ­ Bảng kiểm đánh giá năng lực TDST được phát hiện. 3. Phương pháp xử lí thông tin Sử dụng phương pháp thống kê toán học trong nghiên cứu khoa học giáo dục  để xử lí kết quả thực nghiệm sư phạm.  VI. Cấu trúc của sáng kiến Sáng kiến bao gồm 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận và  kiến nghị. Trong đó nội dung sáng kiến  được trình bày trong 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài. Chương 2: Thiết kế và sử dụng thí nghiệm hóa học vô cơ  chủ đề “Sự ăn mòn Kim  loại” hoá học 12  THPT theo phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề  nhằm  phát triển năng lực tư duy sáng tạo của học sinh. Chương 3: Hiệu quả của sáng kiến thông qua thực nghiệm sư phạm. 4
  5. PHẦN II: NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lý luận       Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, khái niệm năng   lực được sử dụng như sau: năng lực liên quan đến bình diện, mục tiêu của dạy học,   mục tiêu dạy học được mô tả thông qua các năng lực cần hình thành và hướng tới;   năng lực là sự kết nối tri thức, hiểu biết, khả năng, mong muốn… Trong luật giáo dục đã khẳng định giáo dục phổ  thông là phải phát huy tính  tích cực, tự  giác, chủ  động sáng tạo của học sinh phù hợp với từng lớp học, môn   học tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú trong khi học tập bộ  môn.  Phương pháp dạy học tích cực là phương pháp giáo dục ­ dạy học theo hướng tích  cực chủ động sáng tạo của người học thông qua đồ dùng dạy học.        Thí nghiệm hóa học giúp học sinh làm quen với tính chất, mối liên hệ  và  quan hệ có quy luật giữa các đối tượng nghiên cứu, làm cơ sở để nắm vững các quy   luật, các khái niệm khoa học và biết cách khai thác chúng. Thí nghiệm còn giúp học  sinh sáng tỏ mối liên hệ phát sinh giữa các sự vật, giải thích được bản chất của các   quá trình xảy ra trong tự nhiên, trong sản xuất và đời sống.  Thí nghiệm hóa học còn có tác dụng phát triển tư duy, giáo dục thế giới quan   duy vật biện chứng và củng cố  niềm tin khoa học cho học sinh, giúp hình thành   những đức tính tốt: Thận trọng, ngăn nắp, trật tự, gọn gàng. Đặc biệt với việc đổi  mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh như  hiện nay thì thí nghiệm càng được coi trọng, nhất là các thí nghiệm được tiến hành  thực hiện bằng phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề  (giáo viên đặt ra cho   học sinh một bài toán nhận thức, học sinh tiếp nhận mâu thuẫn nhận thức đó và  biến thành mâu thuẫn nội tại của bản thân, có nhu cầu muốn giải quyết mâu thuẫn   đó, tạo động cơ suy nghĩ, học tập). Vì vậy để làm được điều này, người giáo viên   cần có kinh nghiệm và biết sử dụng thí nghiệm sao cho phù hợp với nội dung kiến   thức và mục tiêu của bài học nhằm phát huy tính tích cực, chủ  động, sáng tạo của  học sinh. Mỗi một thí nghiệm đều có thể thực hiện các chức năng sau:  ­ Truyền thụ tri thức ­ Giới thiệu vào bài  ­ Thông báo hay trình bày thông tin ­ Kiểm chứng, nghiên cứu, phát hiện và giải quyết vấn đề ­ Tổ chức và tiến hành các hoạt động học tập ­ Hình thành kĩ năng, phát triển năng lực ­ Phát triển hứng thú học tập, nêu cao lòng tin vào khoa học      ­    Phát triển tư duy học sinh 5
  6. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Thực trạng sử dụng thí nghiệm trong giảng dạy môn Hóa học 1.2.1.1. Về phía giáo viên Sử  dụng phương tiện trực quan trong dạy học là một trong những cách tích  cực hóa hoạt động dạy và học. Trong đó thí nghiệm là một trong các phương tiện   trực quan quan trọng với môn hóa học (là một bộ môn khoa học thực nghiệm). Tuy   nhiên, việc sử  dụng thí nghiệm là tích cực hơn nếu giáo viên sử  dụng chúng làm  nguồn kiến thức để  học sinh tìm tòi, khám phá ra kiến thức mới. Tuy vậy, trong  thực tế  nhiều giáo viên phổ  thông cho rằng cứ  sử  dụng thí nghiệm theo hướng   nghiên cứu là tích cực nhất và thường sử dụng thí nghiệm theo cách: giáo viên tiến   hành thí nghiệm, yêu cầu học sinh quan sát, nêu hiện tượng sau đó yêu cầu giải   thích. Quan niệm và tiến trình dạy học như  vậy chưa thực sự  hiệu quả  và không   phù hợp với mọi thí nghiệm. Phương pháp nghiên cứu là một phương pháp tích cực  nhưng chỉ nên sử dụng với các kiến thức mới, học sinh không có khả năng suy luận  chắc chắn theo các lí thuyết chung đã học, những trường hợp học sinh có thể  vận   dụng  những kiến thức đã có để dự đoán thì nên dùng thí nghiệm để kiểm chứng sẽ  có tác dụng củng cố  đồng thời dạy cho học sinh phương pháp suy diễn, hoặc có  những thí nghiệm có hiện tượng khác so với kiến thức đã học có thể  dùng để  đặt   vấn đề  tạo hứng thú học tập cho học sinh. Sở dĩ nhiều học sinh có quan niệm sai  lầm và cách sử dụng thí nghiệm chưa hợp lí đó là do chưa thực sự hiểu rõ tác dụng,  tiến trình dạy học của mỗi cách sử  dụng thí nghiệm cũng như  chưa biết cách lựa  chọn phương pháp sử dụng thí nghiệm cho phù hợp.     Mặt khác, giáo viên thường áp dụng các hình thức tổ chức một giờ thực hành   Hóa học theo cách: Nghiên cứu nội dung thí nghiệm trong sách giáo khoa để trả lời  câu hỏi; quan sát hình  ảnh, tranh vẽ, mô hình, sơ đồ...; quan sát thí nghiệm do giáo   viên biểu diễn... Giờ thực hành bị xem nhẹ, kết quả thu được chỉ là một bản tường   trình đơn giản. Như vậy hiệu quả của thí nghiệm chưa được phát huy tối đa trong  dạy học. 1.2.1.2. Về phía học sinh ́ ̣  Môn Hoa hoc là m ột môn học rất nhiều lý thuyết về công thức, tên gọi, tính   chất của các chất, phương pháp điều chế. Vì vậy nếu không sử  dụng thí nghiệm   trong dạy học thì học sinh sẽ khó mà nhớ hết kiến thức được.   Mặt khác, nhiều học sinh còn ngại đọc sách, không nắm vững được tính  chất hóa học của các chất, còn rụt rè khi tiếp xúc với dụng cụ hóa chất, không có  ky năng th ̃ ực hanh. Đa s ̀ ố học sinh học môn Hóa học một cách máy móc,  rập khuôn  theo kiểu truyền thống. Học sinh học thuộc bài song không hiểu bản chất các kiến  thức trọng tâm của bài, không nắm vững yêu cầu cơ bản của bài học (học vẹt, học   để  đáp  ứng yêu cầu kiểm tra của giáo viên), không vận dụng được kiến thức đã  học để giải thích các hiện tượng hóa học trong tự nhiên và cuộc sống hàng ngày, đó  là do các em ít làm bài tập trên lớp và ở nhà. Đa số  các em bị mất căn bản ngay từ  lớp dưới vì đây là môn học không phải là môn thi thường xuyên trong quá trình thi   6
  7. chuyển cấp. Học sinh chưa được làm quen nhiều với thiết bị thí nghiệm, hóa chất ở  các lớp dưới, chủ  yếu các em chỉ  được học thông qua sách vở.  Sự  yêu thích môn  Hóa học của các em còn ít, đa số các em chỉ học theo yêu cầu của chương trình giáo   dục phổ thông.  Tại sao học sinh lại không yêu thích với môn Hóa học, mặc dù ngay từ  khi  trong bụng mẹ đến khi sinh ra và lớn lên các em đã được tiếp xúc trực tiếp với các   chất hóa học? Do các lí do nêu trên hay do nội dung bài học hay vì người dạy chưa   có phương pháp thích hợp, chưa sử  dụng thí nghiệm một cách thường xuyên và  hiệu quả? Chúng tôi đã tiến hành khảo sát tâm lí học sinh khối A, A1 và D của ba  khối lớp 10,11,12 trường THPT Hà Huy Tập năm học 2020 – 2021; kết quả  trắc   nghiệm như sau:  BẢNG KHẢO SÁT TÂM LÍ (tại các lớp 10D1, 10A1,10T1, 11D1, 11A1, 11T1, 12D1, 12A1, 12T1  năm học 2020 ­2021; tổng số HS 406 ) TT Nội dung Có (%) Không (%) 1 HS có quan tâm đến bộ môn Hóa học không? 54,5 45,5 2 HS có yêu thích môn Hóa học không? 58,3 41,7 HS thấy môn Hóa học  có là môn  học  quan trọng  3 60,2 35,8 không? Theo em có cần thí nghiệm trong giờ  học hoá học  4 85 15 không? HS có thích giờ  học hóa có thí nghiệm trình chiếu  5 100 0 qua video, hoặc thí nghiệm thực làm? HS có thích bài học dùng thí nghiệm để nghiên cứu  6 hay kiểm chứng một định luật hay giả  thuyết nào  76,3 23,7 đó không ? HS có thích một bài học mà thí nghiệm dùng để  7 98,7 1,3 phát hiện và giải quyết vấn đề không? Nguyên nhân HS thích giờ Hoá học 8 a, Vì có các thí nghiệm Đúng: 99 Sai: 1 b, Vì ứng dụng trong thực tiễn nhiều Kết quả điều tra cho thấy học sinh rất hứng thú với các giờ học có sử dụng  thí nghiệm hoặc thực hành, nhiều học sinh rất say mê tìm tòi phát hiện và giải  quyết vấn đề bằng thí nghiệm, hoặc kiểm chứng lí thuyết đã được học. Vì vậy sử  dụng các phương pháp thí nghiệm trong giảng dạy một cách hiệu quả  đã đem lại  sức hấp dẫn đáng kể cho giờ học Hóa học. 1.2.2.  Nguyên nhân của thực trạng sử  dụng thí nghiệm trong giảng dạy môn   Hóa học 7
  8. Sở dĩ có tình trạng trên vì cách dạy học sử dụng thí nghiệm trong giảng dạy  học cần rất nhiều thời gian, đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư  cả  về  thời gian  công sức, trí tuệ, tâm huyết. Giáo viên  ngại làm thí nghiệm vì phải chuẩn bị  lâu,  mất nhiều thời gian hoặc hoá chất không đảm bảo. Một số  giáo viên chưa có kỹ  năng thực hiện thí nghiệm tốt nên ngại làm. Chưa có quy định rõ ràng về việc phải  sử dụng thí nghiệm như thế nào trong trong giảng dạy và chưa có chế độ  đãi ngộ  hợp lí đối với giáo viên. Một số  thí nghiệm khó thực hiện, hiện tượng không rõ  ràng, không hấp dẫn. Rất ít tài liệu hướng dẫn thí nghiệm. Ngoài ra còn có một số  nguyên nhân khác như: nội dung bài học quá dài không đủ  thời gian để  làm thí  nghiệm đặc biệt là những thí nghiệm trong hóa hữu cơ, vì có những phản ứng xảy  ra rất chậm. Phòng thí nghiệm bộ  môn co nh ́ ưng chưa đap  ́ ưng đ ́ ược yêu câu cua ̀ ̉   ̣ ờ  thực hanh, hóa ch môt gi ̀ ất và dụng cụ  không đủ, không đam bao chât l ̉ ̉ ́ ượng  cho  cả  lớp thực hiện, mặt khác hệ  thống điện, nước chưa đảm bảo và đặc biệt hệ  thống   tủ   hốt   chưa   có,   do   đó   không   đảm   bảo   an   toàn   cho   người   thực   hành   thí   nghiệm. Giáo viên giảng dạy nhiều lớp nên sẽ  bất tiện khi di chuyển dụng cụ từ  lớp này qua lớp khác. Trong các kỳ  thi, kiểm tra chưa chú trọng nhiều đến kiến  thức, nội dung mang tính thực nghiệm. 1.3. Một số vấn đề cơ bản của tư duy 1.3.1. Khái niệm Theo từ  điển tiếng Việt phổ  thông: “ Tư  duy là giai đoạn cao của quá trình   nhận thức, đi sâu vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những  hình thức như: biểu tượng, khái niệm, phán đoán, suy lý”. Theo từ điển triết học: “ Tư duy là sản phẩm cao nhất của các vật chất được   tổ  chức một cách đặc biệt là bộ  não, quá trình phản ánh tích cực thế  giới khách  quan trong các khái niệm, phán đoán suy luận,..Tư  duy xuất hiện trong quá trình   hoạt động sản xuất của con người và bảo đảm phản ánh thực tại  một cách gián  tiếp, phát hiện những mối liên hệ hợp với quy luật của thực tại”. 1.3.2. Đặc điểm cơ bản của tư duy Tính có vấn đề: Khi gặp những tình huống mà vấn đề hiểu biết cũ, phương  pháp hành động đã biết của chúng ta không đủ giải quyết, lúc đó chúng ta rơi vào “  tình huống có vấn đề” và chúng ta phải cố vượt ra khỏi phạm vi những hiểu biết cũ   để đi tới cái mới hay nói cách khác chúng ta phải tư duy. Tính khái quát: Tư duy có khả năng phản ánh những thuộc tính chung, những   mối quan hệ, liên hệ có tính quy luật của hàng loạt sự vật hiện tượng. Do đó tư duy  mang tính khái quát. Tính độc lập tương đối của tư  duy: Tư  duy không chỉ  gắn với bộ  não của  từng cá thể  con người mà còn gắn với sự  tiến hóa của xã hội, trở  thành một sản   phẩm có tính xã hội trong khi vẫn duy trì được tính cá thể của một con người nhất  định.  Mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ 8
  9. Mối quan hệ  giữa tư  duy và nhận thức:  Tư  duy là kết quả  của nhận thức  đồng thời là sự phát triển cấp cao của nhận thức. Xuất phát điểm của nhận thức là  những cảm giác, tri giác và biểu tượng,...được phản ánh từ  thực tiễn khách quan  với những thông tin về  hình dạng, hiện tượng bên ngoài được phản ánh một cách   riêng lẻ. Giai đoạn này được gọi là tư  duy cụ thể.  Ở  giai đoạn sau, với sự  hỗ  trợ  của ngôn ngữ, hoạt động tư duy tiến hành các thao tác so sánh, đối chiếu, phân tích,  tổng hợp, khu biệt, quy nạp những thông tin đơn lẻ, gắn chúng vào một mối liên hệ  phổ biến, lọc bỏ những cái ngẫu nhiên, không căn bản của sự vật, hiện tượng, quy   nạp nó thành những khái niệm, phạm trù, định luật,... Giai đoạn này được gọi là  giai đoạn tư duy trừu tượng. 1.3.3. Phân loại tư duy Tùy theo từng đặc trưng mà ta phân loại tư duy thành các loại sau: ­ Tư duy cụ thể ­ Tư duy trừu tượng ­ Tư duy logic ­ Tư duy biện chứng ­ Tư duy sáng tạo ­ Tư duy phê phán 1.3.4. Năng lực tư duy Năng lực tư duy là một khả  năng, một phẩm chất tâm lý của óc người, vừa  như là có tự nhiên bẩm sinh “sẵn có”, vừa như là sản phẩm của lịch sử, hơn nữa là  sản phẩm của lịch sử phát triển xã hội. Năng lực tư duy là sản phẩm của quá trình   phát triển ngày càng cao yếu tố tự nhiên, lịch sử con người và xã hội. Năng lực tư  duy là tổng hợp những khả  năng ghi nhớ, tái hiện trừu tượng hóa khái quát hóa  tưởng tượng suy luận giải quyết vấn đề xử lý tình huống trong quá trình phản ánh,  phát triển tri thức  và vận dụng chúng vào thực tiễn. 1.3.5. Năng lực tư duy sáng tạo Trong thời đại ngày nay, khi nhận thức của con người đã đạt đến trình độ  cao hơn thì năng lực tư duy không còn giữ nguyên nghĩa mà đã trở thành năng lực tư  duy sáng tạo. Với học sinh THPT nói riêng, năng lực tư  duy sáng tạo đã trở  thành   một trong những điều kiện cần thiết để đem lại cho họ một công việc hứa hẹn khi   ra trường hay xa hơn nữa là một chỗ đứng vững chắc trong xã hội và trên thế giới.  Do đó ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường phổ  thông học sinh phải được rèn  luyện và phát triển năng lực tư duy sáng tạo, coi nó như là một hành trang để bước   vào đời. Năng lực tư  duy trong hóa học là năng lực tư  duy sáng tạo trong hoạt động  nghiên cứu hóa học, là năng lực lực tư duy đối với hoạt động sáng tạo hóa học, tạo   ra những kết quả  tốt, mới, khách quan, cống hiến những lời giải hay, những công  trình hóa học có giá trị đối với việc dạy học, giáo dục và sự phát triển của khoa học  nói riêng cũng như đối với hoạt động thực tiễn của xã hội nói chung. 1.4. Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề 9
  10. 1.4.1. Khái niệm Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề có sự kế thừa và hoàn   thiện chất lượng của những phương pháp dạy học như: phương pháp gợi mở, so   sánh, tìm tòi nghiên cứu. Cái mới của phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết   vấn đề là chỗ nó không phải là một phương pháp dạy học cụ thể đơn nhất mà nó là  một tổ hợp phương pháp dạy học phức hợp bao gồm nhiều phương pháp dạy học   liên kết với nhau chặt chẽ và tương tác với nhau. 1.4.2. Bản chất của phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề 1.4.2.1. Giáo viên đặt ra trước học sinh một loạt những bài toán nhận thức   có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết với cái phải tìm. 1.4.2.2. Học sinh tiếp cận mâu thuẫn của bài toán như  mâu thuẫn của nội   tâm mình và được đặt vào tình huống có vấn đề. 1.4.2.3. Trong quá trình giải và bằng cách giải bài toán nhận thức mà học   sinh lĩnh hội tri thức một cách tự giác và tích cực. 1.4.3. Những cách thức xây dựng tình huống có vấn đề trong phương pháp dạy   học phát hiện và giải quyết vấn đề. 1.4.3.1. Cách thứ nhất (Tình huống nghịch lý ­ bế tắc) ­ Tình huống có vấn đề (THCVĐ) được đặt ra khi kiến thức học sinh đã có không   phù hợp với đòi hỏi của nhiệm vụ học tập hoặc với thực nghiệm. ­ Có thể coi đây là một dạng THCVĐ với hai đặc điểm:  + Tình huống nghịch lý: Giáo viên đưa ra vấn đề mà mới nhìn dường như rất  vô lý, trái ngược với những nguyên lý chung đã được công nhận.  + Tình huống bế tắc: Là tình huống mà khi mở  ra xem xét thì có mâu thuẫn  và nếu dùng lý thuyết đã biết để  giải thích thì bế  tắc, khi đó phải vận dụng   lý  thuyết hoặc quy luật khác để giải thích. 1.4.3.2. Cách thứ hai (Tình huống lựa chọn)  ­ THCVĐ được tạo ra khi học sinh phải lựa chọn giữa hai hay nhiều phương án  giải  quyết và chỉ  lựa chọn được một phương án duy nhất để  đảm bảo việc giải quyết   nhiệm  vụ đặt ra. 1.4.3.3. Cách thứ ba (Tình huống tại sao) ­ THCVĐ xuất hiện khi yêu cầu học sinh phải tìm kiếm nguyên nhân của một kết   quả, nguồn gốc của một hiện tượng, tìm lời giải đáp cho câu hỏi “ tại sao?”. 1.4.4. Dạy học sinh cách giải quyết vấn đề 1.4.4.1. Tầm quan trọng của giai đoạn giải quyết vấn đề Nhiệm vụ  của giai đoạn này là đi tìm điều chưa biết trong THCVĐ. Đây là   khâu chủ yếu, quan trọng trong dạy học nêu vấn đề. Đây là bước giúp cho học sinh   hình thành và phát triển năng lực tư duy, năng lực giải quyết vấn đề trong thực tiễn  và cuộc sống. 1.4.4.2. Quy trình dạy học sinh giải quyết vấn đề  học tập (bài toán nhận   thức) trong dạy học Hóa học. 10
  11. Tuy hành động tìm tòi của học sinh khi giải quyết vấn đề  có rất nhiều vẻ  nhưng chúng ta có thể phân ra các bước sau: + Bước 1: Đặt vấn đề + Bước 2: Phát biểu vấn đề + Bước 3: Xác định hướng giải quyết, đề xuất giả thuyết + Bước 4: Lập kế hoạch theo giả thuyết + Bước 5: Thực hiện kế hoạch giải + Bước 6: Đánh giá việc thực hiện kế hoạch giải + Bước 7: Kết luận về  lời giải. Giáo viên chỉnh lý, bổ  sung và chỉ  ra kiến  thức cần lĩnh hội + Bước 8: Kiểm tra lại và ứng dụng kiến thức vừa thu được  1.5. Thí nghiệm hóa học trong dạy học ở trường THPT 1.5.1. Vai trò của thí nghiệm hóa học trong dạy học 1.5.1.1. Thí nghiệm là phương tiện trực quan Thí nghiệm  là  nền  tảng của  việc  dạy  học  môn Hóa  học.  Thí nghiệm  là  phương tiện trực quan chính yếu, được dùng phổ  biến và giữ  vai trò quyết định   trong quá trình dạy học Hóa học. Nó giúp học sinh chuyển từ  tư  duy trừu tượng   sang tư  duy cụ thể và ngược lại. Khi quan sát được tính chất vật lý, học sinh bắt   đầu có khái niệm về  chất đang học, cuối cùng thông qua các thí nghiệm trong bài   học sinh sẽ khắc sâu kiến thức được tính chất hóa học của chất. Một bài học nếu   không sử  dụng thí nghiệm thì giáo viên sẽ  phải tốn nhiều thời gian để  giảng giải   cho học sinh về  tính chất của chất nhưng chắc chắn sẽ không rõ và hết ý vì mọi  thứ  đều không thể  diễn đạt trọn vẹn bằng lời. Lời nói thì trừu tượng còn các thí   nghiệm thì cụ  thể. Do vậy chỉ  cần quan sát thí nghiệm và giáo viên nhấn mạnh   những điều cần rút ra trong thí nghiệm vừa thực hiện hoặc vừa xem qua video clip,   thì học sinh sẽ  học tập môn hóa một cách nhẹ  nhàng, không bị  gò bó hay áp lực  nặng nề. 1.5.1.2. Thí nghiệm là cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn Đối với bộ môn Hóa học, thực hành thí nghiệm sẽ giúp học sinh làm sáng tỏ  những vấn đề lý thuyết đã đưa ra: “ Học đi đôi với hành” – với ý nghĩa đó thực hành   thí nghiệm giúp  học sinh ôn tập và kiểm tra lại các vấn đề lý thuyết đã học, trên cơ  sở  đó hiểu sâu sắc và nắm vững những nội dung cơ  bản trong sách giáo khoa.   Nhiều thí nghiệm rất gần gũi với đời sống, các quy trình công nghệ. Chính vì vậy   thí nghiệm giúp học sinh vận dụng các điều đã học vào thực tế đời sống. Học là để  phục vụ cuộc sống, ứng dụng kiến thức đã học vào cuộc sống, do đó quá trình dạy   học phải gắn liền với thực tế đời sống. Từ đó học sinh phát huy được tính tích cực,   sáng tạo và vận dụng kiến thức nhạy bén trong những trường hợp khác nhau.  1.5.1.3. Rèn luyện kĩ năng thực hành Trong tất cả  các thí nghiệm khoa học, đặc biệt là thí nghiệm về  hóa học,  nếu không cẩn thận nắm vững qui trình và đặc tính của các chất sẽ  gây ra nguy  hiểm. Do vậy khi thực hành thí nghiệm học sinh phải làm đúng các thao tác cần  11
  12. thiết, sử dụng lượng hóa chất thích hợp nên học sinh vừa tăng cường độ  khéo léo  và kỹ năng thao tác, vừa phát triển kĩ năng giải quyết vấn đề.  1.5.1.4. Phát triển tư duy Thí nghiệm giúp học sinh phát triển tư duy, hình thành thế giới quan duy vật  biện chứng. Khi tự tay làm các thí nghiệm hoặc tận mắt nhìn thấy các hiện tượng  hóa học xảy ra, học sinh sẽ tin tưởng vào kiến thức đã học và cũng thêm tin tưởng  vào chính bản thân mình. Nếu như chưa quan sát được hiện tượng, các em sẽ hoài  nghi về  những hiện tượng tự  mình nghĩ thầm trong đầu và đặt câu hỏi: “ Không  biết mình nghĩ như vậy đã chính xác chưa?” Học sinh sẽ không tin tưởng vào chính   mình ­ đó là một trở ngại tâm lý lớn trong học tập và lĩnh hội tri thức mới. 1.5.1.5. Gây hứng thú cho học sinh Giáo viên sử  dụng thí nghiệm trong tiết học sẽ  gây hứng thú cho học sinh  trong quá trình học tập. Nếu học sinh quan sát được những thí nghiệm hấp dẫn, các  em sẽ muốn khám phá những thí nghiệm và tính chất hóa học của các chất. Để giải  thích được các câu hỏi: Làm thế nào để tự mình thực hiện được các thí nghiệm hấp   dẫn? Tại sao các chất phản ứng với nhau lại tạo ra được các hiện tượng như vậy?  Mình có thể sử dụng chất khác mà vẫn tạo ra được hiện tượng như trên không? Từ  đó học sinh sẽ tự mình đi tìm hiểu vấn đề chứ không phải đợi thầy cô nhắc nhở. 1.6. Sử dụng thí nghiệm hóa học trong dạy học Hóa học  1.6.1 Giải pháp cũ thường dùng Trong dạy học hóa học cần có sự liên hệ mật thiết giữa nội dung kiến thức   hóa học với thế  giới tự nhiên và cuộc sống đời thường của con người. Trong một   giờ  học hóa thông thường giáo viên thường sử  dụng các phương pháp dạy học  truyền thống như: Phương pháp thuyết trình (thông báo ­ tái hiện), phương pháp  đàm thoại (hỏi ­ đáp), phương pháp nghiên cứu. Có không ít giáo viên dạy học theo  lối diễn giảng đơn điệu, không đổi mới, không chú ý đến người học và đặc biệt  việc sử  dụng thí nghiệm trong giờ  học rất hạn chế, nếu có thì cũng chỉ  là thí  nghiệm kiểm chứng một vài tính chất nào đó như: Dùng chỉ  thị  màu để  phân biệt  tính axit­ bazơ  của các chất, hay kim loại tác dụng với dung dịch axit,...Trong giờ  học chủ  yếu học sinh chỉ  ngồi nghe giảng, chấp nhận kiến thức một cách miễn   cưỡng mà không được kiểm chứng thực tiễn. Tuy nhiên, trong thực tế  nhiều giáo  viên cho rằng cứ  sử  dụng thí nghiệm theo hướng nghiên cứu là tích cực nhất và   thường sử dụng thí nghiệm theo cách là giáo viên tiến hành thí nghiệm, yêu cầu học   sinh quan sát, nêu hiện tượng sau đó yêu cầu giải thích. Quan niệm và tiến trình dạy  học như vậy chưa thực sự hiệu quả và không phù hợp với mọi thí nghiệm. Phương   pháp nghiên cứu là một phương pháp tích cực nhưng chỉ nên sử  dụng với các kiến   thức mới, khi học sinh không có khả  năng suy luận chắc chắn theo các lí thuyết  chung đã học; những trường hợp học sinh có thể  vận dụng những kiến thức đã có  để  dự  đoán thì nên dùng thí nghiệm để  kiểm chứng sẽ có tác dụng củng cố, đồng   thời dạy cho học sinh phương pháp suy diễn. Một số ví dụ điển hình như:  12
  13. + Khi học về  tính axit – bazơ của các chất, để  biết được dung dịch NH3 có  tính bazo thì học sinh hoặc là được thông báo về tính chất của nó hoặc là nhìn hình   vẽ trong sách giáo khoa để lý giải lại kiến thức vừa được học. Như vậy không phát  huy được năng lực của học sinh và không gây hứng thú học tập. Muốn học một   cách tích cực thì học sinh phải được kiểm chứng cụ thể bằng thí nghiệm và qua đó  giải thích được vì sao trong phân tử không có nhóm OH nhưng nó lại là một bazo. + Chứng minh tính lưỡng tính của Al(OH)3 học sinh chấp nhận Al(OH)3 tan  được trong kiềm nhưng cũng không được kiểm chứng. +  Khi giảng về cách nhận biết glixerol. Giáo viên giảng khi cho Cu(OH) 2 vào  dung dịch glixerol tạo thành phức có màu xanh đặc trưng (xanh thẫm) do sự  tạo   thành phức đồng (II) glixerat. Nhưng học sinh không hình dung được màu xanh  thẫm đó là màu như thế nào? Nó có khác gì so với màu xanh của ion Cu 2+ trong dung  dịch? Nếu giáo viên chỉ cần cho học sinh quan sát được thí nghiệm trên thì ngay lập  tức học sinh thấy được màu xanh thẫm, học sinh  sẽ ghi nhớ lại và khi gặp vấn đề  tương tự  học sinh sẽ nhớ ngay đến kiến thức cũ. Nếu học sinh tiếp thu kiến thức   thiếu chính xác và thiếu vững chắc thì các em sẽ rất mơ hồ về các phản ứng và các  hiện tượng kèm theo của mỗi phản  ứng đó. Mỗi học sinh có một khả  năng tưởng   tượng khác nhau, do đó nếu giáo viên mô tả hiện tượng bằng lời, mỗi học sinh sẽ  hình dung một cách khác nhau và có thể khác xa so với thực tế. Các em sẽ khó hiểu  bài vì không có những biểu tượng rõ ràng, cụ thể  về các chất, các hiện tượng hóa   học. Học sinh sẽ  nhanh quên khi không hiểu bài, không có  ấn tượng sâu sắc bằng  các hình  ảnh cụ  thể. Hình  ảnh cụ  thể  thường dễ  nhớ  hơn so với ngôn ngữ  trừu  tượng, đặc biệt là đối với học sinh trung học. Mặt khác, trong các giờ thực hành giáo viên thường áp dụng các hình thức tổ  chức   một   giờ   thực   hành   Hóa   học   theo   phương   pháp:   Nghiên   cứu   nội   dung   thí  nghiệm trong sách giáo khoa để  trả  lời câu hỏi; quan sát hình  ảnh, tranh vẽ, mô   hình, sơ đồ...; quan sát thí nghiệm do giáo viên biểu diễn.... học sinh chỉ giống như  “ khán giả”.  Đa số  các em ít khi được tự  mình làm thí nghiệm, mà đặc biệt là   những thí nghiệm để phát hiện ra cái mới gây hứng thú học tập, phát triển trí tò mò,  phát huy năng lực nội tại của bản thân thì hầu như  không có. Do điêu kiên cu thê ̀ ̣ ̣ ̉  ̉ ́ ương phô thông nên gi cua cac tr ̀ ̉ ờ  thực hành chi đ ̉ ược tiên hanh môt cach hinh th ́ ̀ ̣ ́ ̀ ưć   ̀ ̉ ̀ ược môt sô thi nghiêm đ va chi lam đ ̣ ́ ́ ̣ ơn gian, k ̉ ết quả  thu được chỉ  là một tờ  giấy   tường trình sơ  sai. Nh ̀ ư  vậy hiệu quả  của thí nghiệm chưa được phát huy tối đa  trong dạy học. Do đó dẫn đến việc học sinh ngại học, sợ học vì có quá nhiều kiến  thức lý thuyết cần phải nhớ  trong khi đó các em còn phải học rất nhiều môn học   khác nữa dẫn đến việc học sinh không có hứng thú với môn học, học để  đối phó   trong các kì thi và kiểm tra. Nguyên nhân chủ  yếu của thực trạng trên chính là  phương pháp dạy học của giáo viên chưa phù hợp với đặc thù của môn học, sử  dụng thí nghiệm chỉ  để  phụ  họa cho một số  tính chất của các chất mà chưa xây   dựng kế hoạch, mục tiêu, định hướng cụ thể cũng chưa xác định đúng quy trình sử  dụng thí nghiệm có hiệu quả. Sau đây là bảng phân tích những ưu, nhược điểm của  các phương pháp dạy học theo quan niệm cũ:  13
  14. Phương pháp Ưu điểm Nhược điểm ­   Truyền   đạt   được   lượng  ­ Học sinh tương đối thụ  động,  Thuyết trình  thông tin lớn. nhanh quên kiến thức đã học (thông báo ­  ­ Ít tốn thời gian. ­ Khó áp dụng vì kiến thức lĩnh  tái hiện) ­ Hiệu quả kinh tế cao. hội trừu tượng. ­ Học sinh làm việc tích cực,  ­ Tốn thời gian. Đàm thoại  độc lập, tiếp thu bài tốt. ­ Giáo viên rất dễ  bị  động khi  (hỏi ­ đáp) ­ Thông tin hai chiều. học sinh hỏi lại ­ Học sinh tự  học, tích cực,  ­ Tốn thời gian. sáng tạo cao nhất. ­ Chỉ  áp dụng được với một số  Nghiên cứu ­ Học sinh tiếp thu kiến thức  nội dung của bài học. sâu sắc, vững chắc ­   Học   sinh   tập   trung   chú   ý,  ­ Phụ  thuộc vào điều kiện, cơ  dễ tiếp thu bài, khắc sâu kiến  sở   vật   chất,   trang   thiết   bị   thí  Trực quan thức. nghiệm. (sử dụng thí  ­ Lớp học sôi nổi, tạo hứng  ­ Tốn thời gian chuẩn bị.  nghiệm, các  thú   học   tập   và   phát   triển  ­ Một số thí nghiệm nguy hiểm,  đồ dung dạy  năng lực học sinh. độc hại học) ­ Rèn được kỹ  năng quan sát  và thực hành thí nghiệm. ­   Học   sinh   tích  cực,   tự   lực,   ­ Ít sử  dụng được khi dạy kiến  Sử dụng bài  sáng tạo, nhớ lâu. thức mới. tập ­ Rèn kỹ năng vận dụng kiến  ­  Tốn thời gian.  thức để giải quyết vấn đề.  1.6.2. Giải pháp mới cải tiến:  “Thiết kế  và sử  dụng thí nghiệm nêu vấn đề   trong dạy học chủ đề “sự ăn mòn kim loại” – hoá học 12 nhằm phát triển năng lực   tư duy sáng tạo của học sinh THPT”. Khi giảng dạy một lớp mà không sử dụng thí nghiệm theo hướng dạy học tích  cực thì hiệu quả tiếp thu của học sinh bị hạn chế rất nhiều, còn những lớp sử dụng   thí nghiệm theo hướng dạy học tích cực thì hiệu quả tiếp thu bài của học sinh tích   cực, học sinh tiếp thu bài tốt, dễ  hiểu, hứng thú và đặc biệt khắc sâu được kiến   thức trọng tâm cần đạt được. 1.6.2.1. Vai trò của thí nghiệm trong việc xây dựng thí nghiệm theo phương   pháp phát hiện và giải quyết vấn đề Thí nghiệm phát hiện và giải quyết vấn đề  có lợi thế  trước hết  ở  đặc tính   trực quan sinh động của đối tượng nghiên cứu. Đó là phát hiện ra tình hướng bất   ngờ,   không   bình   thường   của   phản   ứng   hóa   học   xảy   ra   trong   quá   trình   làm   thí  nghiệm như: sự  biến đổi về  màu sắc, thay đổi trạng thái, tỏa nhiệt hay thu nhiệt  nằm ngoài dự đoán của người quan sát. Chính những dấu hiệu này sẽ  lôi cuốn sự  chú ý của học sinh và tạo ra tâm lý muốn nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân khác   14
  15. thường tạo ra các hiện tượng đó trong thí nghiệm. Khi quan sát và suy nghĩ về các  thí nghiệm nêu vấn đề, học sinh sẽ thấy được mâu thuẫn về nhận thức, do đó các   em phải tìm tòi để  giải quyết được vấn đề  đó. Dưới sự  hướng dẫn của giáo viên,  học sinh sẽ xây dựng giả thuyết để tìm ra con đường giải quyết vấn đề. Như vậy   thí nghiệm phát hiện và giải quyết vấn đề  sẽ  đặt học sinh vào vị  trí của người  nghiên cứu, tìm tòi một cách sáng tạo để  giải quyết nhiệm vụ  đặt ra. Thí nghiệm   dạng này không chỉ dùng cho việc cung cấp kiến thức, hình thành các khái niệm mà  còn dùng để sửa các lỗi về nhận thức của học sinh và hiệu chỉnh các kiến thức về  các vấn đề riêng biệt trong chương trình hóa học.  1.6.2.2. Những định hướng khi lựa chọn thí nghiệm để  phát hiện và giải   quyết vấn đề Những định hướng khi lựa chọn thí nghiệm là cơ  sở  quan trọng để  thiết kế  hệ thống thí nghiệm phát hiện và giải quyết vấn đề. Chính vì thế chúng tôi xin tổng  hợp và đề xuất một số định hướng lựa chọn như sau: 1. Phải có nội dung liên quan đến bài giảng, được xem như  một phần   của bài giảng Vai trò của thí nghiệm là phục vụ  cho nội dung trọng tâm của bài giảng,   những kiến thức cơ  bản mà học sinh cần lĩnh hội được. Nhờ  có thí nghiệm mà  trọng tâm của bài được làm nổi bật nhờ thế mà học sinh sẽ khắc sâu kiến thức, vì  vậy nội dung thí nghiệm không được xa rời bài giảng. 2. Có nội dung được bắt đầu cái quen thuộc đi đến cái bất thường Nội dung phải tồn tại một vấn đề mà trong đó bộc lộ mâu thuẫn giữa cái mà  học sinh đã biết với cái mà học sinh phải tìm ra, do đó các em phải vượt qua một  khó khăn trong tư duy hay hành động mà vốn hiểu biết sẵn có chưa đủ để vượt qua.  Điều chưa biết đó sẽ được khám phá trong thí nghiệm phát hiện và giải quyết vấn   đề mà thí nghiệm đặt ra.  3. Nội dung của các thí nghiệm này phải dựa vào sự hiểu biết về những   hiện tượng và các quy luật mà học sinh đã biết Với nền tảng kiến thức đã có sẽ  giúp học sinh tích cực suy nghĩ để  nhanh  chóng tìm ra phương hướng giải quyết vấn đề. 4. Có nội dung hợp lý và có tính logic chặt chẽ Nội dung bắt nguồn từ những cái quen thuộc đi đến những cái bất ngờ chưa   từng gặp bao giờ  nhưng phải hợp lý, có logic. Cần làm cho học sinh thấy rõ, hiện  tại các em chưa thể  đưa ra lời giải nhưng với vốn kiến thức đã có và vận dụng  những kỹ năng, tích cực suy nghĩ thì sẽ có nhiều khả năng  giải quyết được vấn đề  đặt ra. 5. Chứa đựng hoàn cảnh có vấn đề  gây ra nhu cầu nhận thức cho học   sinh Không phải thí nghiệm nào cũng sử dụng để phát hiện và giải quyết vấn đề  trong giờ  học. Nội dung của thí nghiệm đó phải đặt ra và giải quyết được nhiều   vấn đề học tập khác nhau. 15
  16.  6. Vừa sức, không quá đơn giản, nhưng cũng không quá khó, phù hợp   với khả năng của học sinh để tạo niềm tin Một vấn đề khi đưa ra dù có hấp dẫn đến đâu nhưng nếu quá dễ hay quá khó   so với khả  năng vốn có của học sinh thì chắc chắn sẽ  không tạo ra nhu cầu nhận   thức nào cả. Nếu điều này được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ làm mất hứng thú học  tập, mất niềm tin vào khả năng nhận thức của học sinh.  7. Có tác dụng kích thích tư duy, gây hứng thú cho người học Trong quá trình hoàn thành các thí nghiệm phát hiện và giả  quyết vấn đề,  học sinh thường đi đến kết luận có tính chất tổng quát một cách thỏa mãn đồng  thời cũng phát triển được kỹ  năng của học sinh. Việc phát hiện và giải quyết các  vấn đề  chưa rõ ràng trong nhận thức bằng thực nghiệm sẽ khơi dậy tính độc lập,  phát triển năng lực tư duy sáng tạo của học sinh. Nhưng không phải bất kì một thí   nghiệm hóa học nào cũng có thể  sử dụng để phát hiện và giải quyết vấn đề  trong  giờ  học. Mà phải là các thí nghiệm nảy sinh được một trong các tình huống, các  vấn đề trong dạy học hóa học  như: tình huống nghịch lí­bế tắc, tình huống lựa chọn và tình huống nhân quả…, do  vậy sẽ phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh và tạo hứng thú học tập.  8. Được trình bày ngắn gọn, súc tích, đủ ý, rõ ràng 9. Nội dung phải được thể hiện thành công bằng thí nghiệm Thí nghiệm là phương tiện trực quan chính yếu, được dùng phổ  biến và giữ  vai trò quyết định trong quá trình dạy học. Do đó nội dung lựa chọn cần được tiến   hành thí nghiệm trước để kiểm tra sự chính xác và chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm cho  phù hợp.   1.6.3. Những yêu cầu sư phạm về kĩ thuật biểu diễn thí nghiệm Hóa học 1.6.3.1. Đảm bảo an toàn cho học sinh và giáo viên  Giáo viên hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi sự không may  xảy ra có  ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của học sinh. Giáo viên phải nhất  thiết tuân theo những quy định về bảo hiểm, giữ hóa chất tinh khiết, dụng cụ sạch   sẽ, tốt, làm đúng quy trình kĩ thuật, hiểu rõ nguyên nhân những sự cố có thể xảy ra,   bình tĩnh khi tiến hành thí nghiệm. 1.6.3.2. Bảo đảm thành công của thí nghiệm Giáo viên phải chuẩn bị tỉ mỉ, chu đáo, thử nhiều lần trước khi biểu diễn trên   lớp. Khi làm thí nghiệm không ra kết quả mong muốn, giáo viên cần bình tĩnh suy   nghĩ tìm ra nguyên nhân giải quyết. Tuyệt đối không bắt ép học sinh phải công  nhận kết quả trong khi thí nghiệm không thành công, đó là một việc làm phản khoa  học và phản giáo dục. 1.6.3.3. Thí nghiệm phải rõ, học sinh phải quan sát được đầy đủ  Giáo viên cần bố  trí thí nghiệm  ở vị trí mà sao cho tất cả  các em đều quan   sát được rõ ràng. Kích thước dụng cụ và lượng hóa chất phải đủ làm để biểu diễn  thí nghiệm. Bàn thí nghiệm cao vừa phải. 16
  17. 1.6.3.4. Thí nghiệm phải đơn giản, dụng cụ  thí nghiệm gọn gàng, mĩ thuật   đồng thời đảm bảo tính khoa học  Có thể phát huy, cải tiến dụng cụ thí nghiệm cho đơn giản, dùng hóa chất   dễ kiếm, rẻ tiền để thay thế cho phù hợp. Đồng thời đảm bảo dụng cụ thí nghiệm   được mĩ thuật, gọn gàng, bảo đảm tính khoa học. 1.6.3.5. Số lượng thí nghiệm trong một bài phải hợp lí Cần tính toán hợp lí số  lượng thí nghiệm sử  dụng cho một bài và thời gian  dành cho từng thí nghiệm để  không  ảnh hưởng đến việc dạy các kiến thức khác.  Nên chọn các thí nghiệm phục vụ cho việc làm rõ trọng tâm của bài để biểu diễn. 1.6.3.6. Thí nghiệm phải kết hợp chặt chẽ với bài giảng  Nội dung thí nghiệm phải phù hợp với bài học, giúp học sinh nắm bản chất   của vấn đề và tạo thành một khối thống nhất với nội dung bài học. Đồng thời cần   luyện tập cho học sinh quan sát các hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm, giải thích  hiện tượng và rút ra những kết luận khoa học hướng vào những điểm cơ bản nhất   của bài học. 1.6.4. Các hình thức sử dụng thí nghiệm trong giờ học Hóa học Có nhiều hình thức sử  dụng thí nghiệm trong bài giảng như: Trình chiếu   video thí nghiệm ( thí nghiệm  ảo), tiến hành thí nghiệm trực tiếp... Tùy vào tính  chất của mỗi một thí nghiệm, nội dung của bài giảng và điều kiện chủ  quan và  khách quan mà ta có thể sử dụng hình thức nào cho phù hợp để đạt được hiệu quả  cao nhất có thể, vì mỗi một hình thức thí nghiệm trên đều có những  ưu và nhược   điểm khác nhau, cụ thể như sau: Trình chiếu video( thí nghiệm ảo) Tiến hành thí nghiệm trực tiếp Nhanh gọn, tiết kiệm thời gian, dễ thực   Mất nhiều thời gian cho quá trình chuẩn  hiện bị và tiến hành, khó thực hiện. Hiệu  quả,  luôn  thu  được   kết  quả   như  Có   thể   không   đạt   được   kết   quả   như  mong muốn, chính xác khoa học. mong muốn. Không gây ô nhiễm môi trường, không  Dụng   cụ   thí   nghiệm   hóa   chất:   phức  độc   hại,   không   ảnh   hưởng   đến   môi  tạp,   độc,   gây   ảnh   hưởng   đến   môi  trường   xung   quang,   có   thể   thực   hiện  trường xung quanh. được hầu hết các thí nghiệm, kể  cả  thí  nghiệm khó và độc hại. Rèn luyện kỹ năng thí nghiệm ở mức độ  Rèn   được   kỹ   năng   thao   tác,   tính   cẩn  học tập qua quan sát. thận, chính xác, làm việc với lượng nhỏ  hóa chất thông qua việc thực hành thí  nghiệm. Ghi nhớ kiến thức sâu sắc. Ghi nhớ kiến thức sâu sắc hơn nhờ quá  trình tự làm thí nghiệm. 17
  18. 1.6.5. Qui trình thiết kế  thí nghiệm theo phương pháp phát hiện và giải quyết   vấn đề Điểm mấu chốt của phương pháp là cần tạo được mâu thuẫn nhận thức.  Thường giáo viên dùng thí nghiệm để tạo mâu thuẫn nhận thức với kiến thức đã có  của học sinh và thông qua việc phân tích hiện tượng của thí nghiệm, cấu tạo chất  mà rút ra kiến thức mới, giải quyết mâu thuẫn nhận thức lúc đầu.   Ví   dụ:   Tính   thơm   của   vòng   benzen   mâu   thuẫn   với   tính   chất   của   các  hidrocacbon không no (mặc dù cùng có liên kết   kém bền nhưng vòng benzen lại  dễ  tham gia phản  ứng thế, khó tham gia phản  ứng cộng trong khi các hidrocacbon  không no lại có phản  ứng đặc trưng là phản ứng cộng, tính tạo phức của ancol đa  có ít nhất hai nhóm –OH liền kề, phản ứng thế với nước brom của phenol, anilin,... Do vậy tiến trình dạy học có sử  dụng thí nghiệm theo phương pháp   phát hiện và giải quyết vấn đề  như  sau:  Đặt vấn đề     Tạo mâu thuẫn nhận   thức (có thể  làm thí nghiệm )   Nêu vấn đề   cần giải quyết   Đề  xuất các giả  thuyết, hướng giải quyết, thực hiện kế hoạch giải quyết (có thể  bằng thí nghiệm)   Phân tích để rút ra kết luận   Vận dụng.   Dựa trên những định hướng lựa chọn nội dung thí nghiệm để  phát hiện và  giải quyết vấn đề. Chúng tôi xin đề xuất 5 bước sau: Bước 1: Xác định mục tiêu bài dạy Đây là bước cơ  bản trong việc tiến hành soạn giảng một bài cụ  thể  và đo  lường thành quả  học tập của học sinh. Mục tiêu của bài giảng có thể  gồm nhiều  mức độ khác nhau và cách phân loại khác nhau. Chúng tôi xin đưa ra sơ đồ phân loại   mức độ như sau: Biết   Hiểu   Vận dụng   Phân tích   Tổng hợp   Đánh giá ­ Ở tầng thấp nhất là học sinh phải nhớ được kiến thức của thầy cô đã truyền đạt.  Để kiểm tra giáo viên yêu cầu học sinh mô tả lại, kể lại, đọc thuộc lòng,... ­ Sau khi đã biết thì trình độ  nhận thức của học sinh phải được nâng cao lên tầng   thứ  hai đó là hiểu thấu đáo thông qua các hoạt động là học sinh tóm tắt được nội   dung, giải thích và trình bày lại bằng ý hiểu của mình hoặc thuyết trình, thảo luận,   nhận biết các yếu tố,... ­  Ở  tầng thứ  ba là áp dụng, đó là học sinh nêu được hay chứng minh được kiến  thức đã học, biết giải quyết vấn đề, nêu ví dụ  minh họa, tính toán, sử  dụng thí  nghiệm,... ­ Tầng bốn   là phân tích: học sinh phải phân loại, so sánh, đối chiếu, diễn dịch,  khảo sát, phân biệt,... ­ Tầng năm là tổng hợp: học sinh phải thiết kế, lập giả thuyết, hệ thống hóa,... ­ Cuối cùng là tầng sáu: Học sinh phải có khả  năng đưa ra các nhận xét, đánh giá,   phê bình, đưa ra các đề nghị, dự đoán và lập luận dựa trên những dữ kiện cụ thể đã  được phân tích tổng hợp ở các tầng dưới trong tiến trình nhận thức và học tập. Bước 2: Xác định đơn vị kiến thức dạy Xác định được các kiến thức sẽ  truyền tải đến cho học sinh trong bài học  trong đó có kiến thức trọng tâm và kiến thức cơ bản. 18
  19. Bước 3: Thiết kế tình huống cho từng đơn vị kiến thức   Theo các căn cứ sau:  ­ Định hướng lựa chọn nội dung thí nghiệm theo phương pháp phát hiện và giải   quyết vấn đề. ­ Dựa trên đơn vị kiến thức. ­ Đọc các tài liệu có liên quan đến bài dạy. ­ Tham khảo các tình huống trong dạy học. ­ Tham khảo các thí nghiệm có thể sử dụng trong giảng dạy môn Hóa học. ­ Lựa chọn và thiết kế các thí nghiệm phù hợp với nội dung của tình huống đưa ra.  Bước 4: Tiến hành thí nghiệm để kiểm tra tính chính xác của kiến thức   đưa ra trong tình huống  Bước 5: Kiểm tra Kiểm tra xem trình huống đã xây dựng có phù hợp với mục đích, nội dung bài   dạy và trình độ học tập của học sinh hay không? Cần kiểm tra lại các câu hỏi phù   hợp với mục đích của bài dạy, để tìm ra các câu hỏi phù hợp nhất với trình độ nhận   thức của học sinh, loại bỏ  những câu hỏi quá dễ, quá khó hiểu không hướng vào   mục đích khi giải quyết tình huống.   1.6.6. Quy trình dạy học sử  dụng thí nghiệm theo phương pháp phát hiện và   giải quyết vấn đề * Bước 1: Đặt vấn đề (đây là bước gây hứng thú học tập) Thường nêu mục đích dưới dạng câu hỏi để  tạo tình huống có vấn đề: có  thể  đặt câu hỏi tái hiện kiến thức, áp dụng vào một trường hợp mới rồi làm thí   nghiệm, quan sát hiện tượng thấy sự mâu thuẫn. Cụ thể như sau: ­ Biểu diễn lại thí nghiệm đã biết theo quy luật nào đó, hoặc nhắc lại kiến thức cũ   mà học sinh đã biết và đã hiểu. ­ Trình bày lại thí nghiệm trong điều kiện mới (có thể  khác nhau về  nồng độ, môi   tường, nhiệt độ, chất tương tự). ­ Yêu cầu học sinh suy nghĩ và nhận xét thông qua việc quan sát các dấu hiệu của  thí nghiệm. * Bước 2: Phát biểu vấn đề (phát hiện vấn đề)   Mô tả  vấn đề  cần giải quyết dưới dạng câu hỏi (phát biểu vấn đề  ­ phát  hiện vấn đề). Trên cơ sở những dấu hiệu và hiện tượng đã quan sát được giáo viên  yêu cầu học sinh thiết lập mối quan hệ giữa dấu hiệu bề ngoài và bản chất của các  quá trình và trả lời được các câu hỏi sau:  ­ Phản ứng (thí nghiệm) vừa rồi xảy ra trong điều kiện nào? ­ Các dấu hiệu đó chứng tỏ  phản  ứng xảy ra trong thí nghiệm đã tạo thành những  sản phẩm nào? Có giống với sản phẩm đã biết không? ­ Như vậy ngoài các tính chất đã biết, chất đang nghiên cứu còn có những tính chất  gì khác không?  * Bước 3: Xác định phương hướng giải quyết ­ nêu giả  thuyết (đây là bước   quan trọng để phát triển năng lực tư duy của học sinh) 19
  20. Đặt các câu hỏi sáng tạo để học sinh đề xuất các phương án giải quyết. Câu  hỏi đánh giá để chọn các phương án giải quyết, trong khi thực hiện kế hoạch giải   quyết vấn đề có thể đặt các câu hỏi phân tích, so sánh,... * Bước 4 và 5: Lập kế hoạch và giải theo giả thuyết ­ Vấn đề  1:  Phản  ứng (thí nghiệm) 2 được tiến hành trong điều kiện: nhiệt độ,  nồng độ, áp suất, chất xúc tác,... ­ Vấn đề 2: Chất mới sinh ra ở thí nghiệm 2 có trạng thái, màu sắc, mùi,...                    Chất mới sinh ra có phản ứng đặc trưng với...         Chất mới sinh ra làm chất chỉ thị... đổi màu...Vậy chất  đó là...Phương   trình phản  ứng là...phản  ứng này thuộc loại phản  ứng...và chất đang nghiên cứu  ngoài tính chất đã biết thì còn có thêm tính chất..., ở điều kiện... * Bước 6: Đánh giá việc thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề Căn cứ vào việc tiến hành thí nghiệm và kết quả của thí nghiệm thì xác nhận   kế hoạch giải quyết vấn đề ở trên là đúng. * Bước 7: Kết luận Giáo viên chỉnh lí, bổ  sung, chuẩn hóa kiến thức và chỉ  ra những điều cần   lĩnh hội. * Bước 8: Kiểm tra lại kiến thức vừa tiếp thu và dạy học sinh tập vận dụng   kiến thức  Giáo viên cho học sinh thực hiện thí nghiệm với một số chất khác tương tự  (ở cùng điều kiện nghiên cứu với thí nghiệm 2). CHƯƠNG 2:  THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG THÍ NGHIỆM HÓA HỌC VÔ CƠ  CHỦ ĐỀ “ SỰ ĂN MÒN KIM LOẠI” LỚP 12 THPT THEO PHƯƠNG PHÁP  PHÁT HIỆN VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC  TƯ DUY SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH Bài 20: SỰ ĂN MÒN KIM LOẠI  (2 tiết) Nội dung 1: Khái niệm, các dạng ăn mòn kim loại (tiết 1)  Nội dung 2: Cách chống ăn mòn kim loại và hoạt động trải nghiệm ngoại khóa (tiết  2) I. Mục tiêu dạy học 1. Về kiến thức, kỹ năng, thái độ a. Kiến thức * Học sinh biết được:  ­ Các khái niệm: Sự ăn mòn kim loại, ăn mòn hóa học, ăn mòn điện hóa, các biện   pháp bảo vệ kim loại khỏi bị ăn mòn. * Học sinh hiểu được:  ­ Điều kiện xảy ra sự ăn mòn kim loại. Cơ chế của ăn mòn điện hóa học. b. Kĩ năng 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0