intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Thiết kế và tổ chức dạy học tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường ở một số tiết trong môn GDCD lớp 11 tại trường THPT Anh Sơn 2

Chia sẻ: Ngaynangmoi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:74

21
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thiết kế và tổ chức dạy học tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường ở một số tiết tronĐề tài làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng giáo dục bảo vệ môi trường cho HS THPT, từ đó đề tài tập trung vào việc xác định nội dung và phương pháp tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường trong môn GDCD nhằm giáo dục cho HS ý thức bảo vệ môi trường.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Thiết kế và tổ chức dạy học tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường ở một số tiết trong môn GDCD lớp 11 tại trường THPT Anh Sơn 2

  1. Së gi¸o dôc vµ ®µo t¹o nghÖ an Tr-êng THPT anh s¬n 2 ---------------------- Tên đề tài: THIẾT KẾ VÀ TỔ CHỨC DẠY HỌC TÍCH HỢP GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở MỘT SỐ TIẾT TRONG GDCD LỚP 11 TẠI TRƯỜNG THPT ANH SƠN 2 Thuộc môn: Giáo Dục Công Dân 11 Tên tác giả : Phạm Thị Thùy Dương Tổ bộ môn: Khoa Học Xã Hội Năm thực hiện: 2021 Số điện thoại: 0911179910 Anh Sơn, tháng 3 năm 2021
  2. MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG BÌA MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1 1 PHẦN II. NỘI DUNG 4 I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tích hợp GDBVMT ở một 4 số tiết trong môn GDCD THPT 1. Cơ sở lý luận. 4 1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài. 4 1.2. Cơ sở lý luận. 6 2. Cơ sở thực tiễn. 8 2.1. Khái quát về trường THPT Anh Sơn 2. 8 2.2. Thuận lợi. 10 2.3. Khó khăn. 11 2.4. Tìm hiểu thực trạng công tác dạy học tích hợp GDBVMT 15 trong dạy học nói chung và dạy học GDCD nói riêng. II. Tổ chức thực hiện các giải pháp. 15 1. Mục tiêu tích hợp 15 2. Nguyên tắc và yêu cầu tích hợp nội dung GDMT trong môn 15 GDCD ở trường THPT. 3. Xây dựng địa chỉ tích hợp GDBVMT ở một số tiết trong môn 16 GDCD lớp 11 tại trường THPT Anh Sơn 2. 4. Thực hiện tích hợp GDBVMT ở một số tiết trong môn GDCD 17 lớp 11 tại trường THPT Anh Sơn 2. 5. Thiết kế - tổ chức dạy học tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường ở 22
  3. một số tiết trong môn GDCD lớp 11 tại trường THPT Anh Sơn 2. 6. Một số phương pháp và hoạt động dạy học được sử dụng khi 43 tích hợp GDBVMT ở một số tiết trong môn GDCD lớp 11 tại trường THPT Anh Sơn 2. 7. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. 45 PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ. 49 PHẦN IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO. PHẦN V. PHỤ LỤC.
  4. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Viết tắt Viết đầy đủ BVMT Bảo vệ môi trường GDCD Giáo Dục Công Dân GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo GDMT Giáo dục môi trường GDBVMT Giáo dục bảo vệ môi trường GV Giáo viên HS Học sinh KT-VH-XH Kinh tế-Văn hóa-Xã hội Ngoài giờ lên lớp NGLL TNTN Tài nguyên thiên nhiên THPT Trung học phổ thông TTKT Tăng trưởng kinh tế
  5. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Bà Sylvia Earle - nhà khoa học người Mỹ có một câu nói nổi tiếng: “Phần còn lại của thế giới (thiên nhiên) có thể tiếp tục sống mà không có chúng ta, nhưng chúng ta không thể tồn tại nếu thiếu đi chúng”. Câu nói của Bà Sylvia là lời giải đáp cho lý do vì sao chúng ta phải có trách nhiệm với môi trường sống. Chúng ta sẽ không thể sống hạnh phúc trong một môi trường bị ô nhiễm nặng nề. Vì vậy, việc bảo vệ môi trường chính là cách giữ gìn cuộc sống của chúng ta. “Môi trường bao gồm các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế, xã hội, sự tồn tại, phát triển của con người, sinh vật và tự nhiên”. (Theo Điều 1, Luật Bảo vệ Môi trường Việt Nam). Môi trường có quan hệ mật thiết với cuộc sống của con người, là nơi cung cấp cho chúng ta không gian để sống, cung cấp những nguồn tài nguyên quý giá như đất, nước, không khí, khoáng sản... phục vụ cho cuộc sống sinh hoạt, cũng như hoạt động sản xuất và là nơi chứa đựng chất thải. Tuy nhiên, con người đã tác động quá nhiều đến môi trường, khai thác đến mức cạn kiệt các nguồn tài nguyên, thải nhiều chất độc làm cho môi trường không còn khả năng tự phân hủy. Vì vậy, chúng ta cần phải có các biện pháp để bảo vệ và cải tạo môi trường. Dưới góc độ cá nhân, bản thân tôi thiết nghĩ việc đầu tiên góp phần bảo vệ môi trường là nâng cao nhận thức để mọi người cùng hiểu biết và hành động. Chỉ có suy nghĩ đúng, nhận thức đúng mới hành động đúng, và mỗi hành động
  6. nhỏ sẽ góp một phần lớn vào việc hình thành nếp sống văn minh, có trách nhiệm hơn với môi trường. Ở Việt Nam, bảo vệ môi trường là vấn đề đã và đang được quan tâm sâu sắc. Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường, liên quan đến lĩnh vực giáo dục có: Quyết định số 1363/QĐ-TTg ngày 17 tháng 10 năm 2001 của thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt đề án: “Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân”; Chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ngày 22/7/2008 phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”; Công văn số 7120/BGDĐT-GDTrH ngày 07/08/2008 về việc tích hợp nội dung Giáo dục bảo vệ Môi trường (GDBVMT) vào các môn học cấp THCS và THPT... Để thực hiện yêu cầu trên, nhiều môn học của cấp THPT được được chọn tích hợp GDBVMT trong đó có môn GDCD. Với mục đích giúp HS có những kiến thức cơ bản về môi trường và rèn luyện những kĩ năng cần thiết trong việc BVMT thông qua giờ học GDCD. Với những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Thiết kế và tổ chức dạy học tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường ở một số tiết trong môn GDCD lớp 11 tại trường THPT Anh Sơn 2” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình. 2. Mục đích của đề tài Đề tài làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng GDBVMT cho HS THPT, từ đó đề tài tập trung vào việc xác định nội dung và phương pháp tích hợp GDBVMT trong môn GDCD nhằm giáo dục cho HS ý thức BVMT. 3. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Học sinh THPT. - Đối tượng nghiên cứu: Môi trường tại địa phương mà HS sinh sống và học tập. 4. Phương pháp nghiên cứu * Phương pháp thu thập tài liệu và xử lí thông tin: - Nguồn tài liệu gồm: sách, báo, các đề tài đã nghiên cứu, các trang web, các chỉ thị, nghị quyết, văn bản liên quan đến đề tài. - Để đảm bảo tính khoa học và tính sư phạm của đề tài trong quá trình thu thập tài liệu phải đặc biệt chú ý đến nội dung chương trình sách giáo khoa GDCD, chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học và các tài liệu liên quan khác. * Phương pháp trực quan
  7. Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin đã khẳng định: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - Đó là con đường nhận thức chân lý, của sự nhận thức khách quan”. Vì vậy, tác giả đã sử dụng phương pháp trực quan với các hình thức: tranh ảnh, số liệu thống kê, băng hình, các video-clip, tham quan,... tác động trực tiếp đến người học nhằm phát huy tác dụng đối với quá trình dạy học. * Phương pháp phân tích hệ thống - Nghiên cứu việc GDBVMT trong mối quan hệ qua lại, nhiều chiều với toàn bộ chương trình GDCDTHPT. - Khi xem xét thực trạng dạy và học tích hợp BVMT cần xem xét từ cả GV và HS trên nhiều phương diện. * Phương pháp khảo sát điều tra - Tác giả khảo sát thực tế ở trường phổ thông mà tác giả đang dạy học để làm rõ thực trạng dạy và học tích hợp BVMT tại địa phương như: dự giờ GV dạy môn GDCD 11, phỏng vấn, phát phiếu điều tra cho GV và HS. * Phương pháp thực nghiệm sư phạm - Tác giả trực tiếp giảng dạy và nhờ một số GV đồng môn trong trường dạy theo giáo án tác giả thiết kế. Thực nghiệm đối chứng, lấy phiếu thăm dò ý kiến của GV và HS, từ đó phân tích, rút ra kết luận cần thiết để đưa ra những giải pháp phù hợp. * Phương pháp sử dụng toán thống kê - Tác giả xử lí, phân tích các kết quả thu được sau khi tiến hành khảo sát ở trường phổ thông mà tác giả đang dạy học nhằm đánh giá tính khả thi của đề tài.
  8. PHẦN II. NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tích hợp GDBVMT ở một số tiết trong môn GDCD THPT. 1. Cơ sở lý luận. 1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài. 1.1.1. Khái niệm môi trường, bảo vệ môi trường. + Khái niệm môi trường Môi trường theo định nghĩa thông thường nhất đó là toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên và xã hội trong đó con người hay mọi sinh vật tồn tại, phát triển trong mối quan hệ với con người hay sinh vật ấy”; là “sự kết hợp toàn bộ hoàn cảnh hoặc điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới sự tồn tại, phát triển của một thực thể”. Điều 1 Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kì họp thứ 7 thông qua ngày 23/6/2014 định nghĩa môi trường “là hệ thống các yếu tổ vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật”. Tóm lại, môi trường là các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, chúng bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và thiên nhiên; môi trường là tất cả những gì có xung quanh ta, cho ta cơ sở để sống và phát triển. + Khái niệm bảo vệ môi trường Bảo vệ môi trường là những hoạt động được diễn ra nhằm mục đích giữ gìn sự trong lành, sạch đẹp của môi trường; giúp cân bằng hệ sinh thái và cải thiện môi trường sống của các sinh vật nói chung và con người nói riêng qua những việc làm cụ thể để ngăn chặn, phòng ngừa, khắc phục các hậu quả xấu do thiên tai và con người gây ra ảnh hưởng đến môi trường. “Giáo dục môi trường là một quá trình thông qua các hoạt động giáo dục chính quy và không chính quy nhằm giúp con người có được sự hiểu biết, kỹ năng và giá trị tạo điều kiện cho họ tham gia vào phát triển một xã hội bền vững về sinh thái”. Mục đích của giáo dục môi trường nhằm vận dụng những kiến thức và kỹ năng vào gìn giữ, bảo tồn, sử dụng môi trường theo cách thức bền vững cho cả thế hệ hiện tại và tương lai. Nó cũng bao hàm cả việc học tập cách sử dụng những công nghệ mới nhằm tăng sản lượng và tránh những thảm hoạ môi trường, xoá nghèo đói, tận dụng các cơ hội và đưa ra những quyết định khôn
  9. khéo trong sử dụng tài nguyên. Hơn nữa, nó bao hàm cả việc đạt được những kỹ năng, có những động lực và cam kết hành động để BVMT. Vậy giáo dục bảo vệ môi trường là gì? là một môn học nhằm giáo dục cho học sinh những kiến thức, hiểu biết về môi trường, những kỹ năng sống và làm việc trong một môi trường phát triển bền vững. Hiện nay, ở nước ta GDBVMT chưa được xem là một môn học chính thức ở các cấp học phổ thông. Bộ môn này mới chỉ được lồng ghép trong một số môn học như: Sinh học, GDCD, Địa lý, Công nghệ, NGLL... và một số tiết ngoại khóa, một số cuộc thi BVMT đã được tổ chức trong trường học. Tuy vậy, cũng đã phần nào giáo dục được ý thức BVMT cho các em. Theo tôi, giáo dục ý thức BVMT trong nhà trường là một trong những biện pháp quan trọng, giúp HS biết yêu thiên nhiên, hiểu được tầm quan trọng của môi trường với cuộc sống và hơn nữa biết cách chăm sóc, giữ gìn hành tinh xanh. 1.1.2. Khái niệm dạy học tích hợp, dạy học tích hợp bảo vệ môi trường. + Dạy học tích hợp Dạy học tích hợp là phương pháp dạy học trong đó GV tổ chức hướng dẫn để HS biết huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập, thông qua đó hình thành những kiến thức, kĩ năng mới, phát triển được những năng lực cần thiết nhất là năng lực giải quyết vấn đề. Vì sao phải dạy học tích hợp? Mục tiêu giáo dục phổ thông nhằm tạo ra những con người được phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, con người cá nhân và con người xã hội. Đó là con người có những phẩm chất cao đẹp như yêu gia đình, quê hương, đất nước; nhân ái khoan dung; trung thực, tự trọng; tự lập và tự tin, tự chủ...; có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước; có học vấn phổ thông; có các năng lực cần thiết... Dạy học tích hợp dựa trên cơ sở nào? “Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới… không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới”. + Tích hợp GDMT trong dạy học
  10. Tích hợp GDMT vào dạy học là sự kết hợp một cách tự giác và có hệ thống các kiến thức GDMT và kiến thức môn học thành một thể thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau dựa trên những nguyên tắc nhất định. Sự tích hợp giáo dục môi trường vào môn GDCD có thể phân thành 2 dạng: - Dạng lồng ghép: Kiến thức GDMT đã có trong chương trình và SGK. - Dạng liên hệ: Các kiến thức GDMT không được đưa vào chương trình và SGK, nhưng dựa vào nội dung bài học, GV có thể bổi sung kiến thức GDMT có liên quan vào bài học một cách hợp lí qua giờ dạy trên lớp. Các mức độ tích hợp: - Mức độ toàn phần: Mục tiêu và nội dung của bài học hoặc của chương phù hợp hoàn toàn với mục tiêu và nội dung của GDMT. Ví dụ: Bài 12 (lớp 11) Chính sách tài nguyên và bảo vệ môi trường. - Mức độ từng bộ phận: Chỉ có một phần bài học có mục tiêu và nội dung GDBVMT. Ví dụ, Bài 4 (lớp 11) Cạnh tranh trong sản xuất và lưu thông hàng hóa, nội dung có thể tích hợp GDMT là mục 3.b: ảnh hưởng hai mặt của cạnh tranh đối với môi trường; sự tác động của con người đến với môi trường và đạo đức môi trường. - Mức độ liên hệ: Bài học có một số nội dung có thể liên hệ với nội dung về GDMT nói chung hoặc GDBVMT ở địa phương, gần gũi với HS. GV chú ý liên hệ một cách hợp lí, vừa sức. Trong đề tài này tôi thực hiện tích hợp 2 mức độ là toàn phần và từng bộ phận. Bên cạnh đó, do yêu cầu quan trọng của GDMT là vấn đề thực hành, hình thành các kĩ năng, thói quen, phương pháp hành động cụ thể để HS có thể tham gia có hiệu quả vào việc BVMT, vì thế cần quan tâm đến các hoạt động ngoại khóa, các hoạt động trải nghiệm sáng tạo có thể tích hợp nội dung GDMT như: tham gia các cuộc thi, sinh hoạt câu lạc bộ, các hoạt động dự án, các hoạt động khác liên quan đến BVMT do các tổ chức đoàn thể xã hội, các tổ chức BVMT.v.v.. tổ chức. 1.2. Cơ sở lý luận. 1.2.1. Các văn bản chỉ đạo Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lựơc Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, đặc biệt Nghị quyết số 41-NĐ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
  11. Quyết định số 1363/QĐ-TTg ngày 17/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân”. Theo đó, Bộ GD &ĐT đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục trong cả nước tổ chức triển khai các nhiệm vụ về giáo dục bảo vệ môi trường, đưa nội dung giáo dục môi trường vào trường học. Chỉ thị 02/2005/CT-BGDĐT ngày 31/01/2005 về việc “Tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường”; Chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22/07/2008 về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008-2013. Từ đó, Bộ GD &ĐT hướng dẫn xây dựng chương trình, tài liệu giảng dạy, học tập và tài liệu tham khảo về GDBVMT của các cấp học, trình độ đào tạo làm cơ sở cho việc thực hiện thống nhất mục tiêu, nội dung và phương pháp GDBVMT trong các cơ sở giáo dục, đào tạo; tổ chức tập huấn cho GV cốt cán các cấp học từ mầm non đến THPT về các phương pháp tích hợp/lồng ghép nội dung GDMT vào các môn liên quan trực tiếp đến môi trường như sinh học, địa lý, GDCD... qua đó đã xây dựng được mạng lưới đội ngũ GV cốt cán triển khai nhiệm vụ tập huấn, tuyên truyền về GDBVMT tại cơ sở. Đội ngũ GV cốt cán này đã phát huy hiệu quả vai trò của mình trong việc triển khai nhiệm vụ GDBVMT tại địa phương. Công văn số 7120/BGDĐT-GDTrH ngày 07/08/2008 về việc tích hợp nội dung Giáo dục bảo vệ Môi trường vào các môn học cấp THCS và THPT. Hướng dẫn số 3857/BGDĐT-GDTrH ngày 11/05/2009 của Bộ GD&ĐT Hướng dẫn các Sở GD&ĐT về việc “Tích hợp nội dung GDBVMT các môn học cấp THCS và THPT”. Quyết định số 2262/QĐ-BGDĐT ngày 06/08/2020 của Bộ GD &ĐT về việc phê duyệt danh mục nhiệm vụ giáo dục bảo vệ môi trường của Bộ GD &ĐT để đưa ra tuyển chọn thực hiện từ năm 2021. 1.2.2. Sự cần thiết của việc dạy học tích hợp GDBVMT trong dạy học nói chung và dạy học môn GDCD nói riêng. Những hiểm họa suy thoái môi trường đang ngày càng đe dọa cuộc sống của loài người. Theo các báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia và toàn cầu cho thấy: môi trường nước, không khí, đất đai, môi trường làng nghề, môi trường các khu công nghiệp, bị ô nhiễm nghiêm trọng; các hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu như hiệu ứng nhà kính, thiên tai, bão lũ, hạn hán, diễn ra bất thường và rất nặng nề; các nguồn TNTN bị khai thác quá mức, thiếu quy hoạch, tầng ô zôn bị phá hủy, sa mạc hóa đất đai với mức độ ngày càng gia tăng, suy giảm mạnh đa dạng sinh học, chất thải đang gia tăng nhanh chóng cả về số lượng và mức độ
  12. độc hại. Chính vì vậy, ở nhiều quốc gia trên thế giới, từ những thập niên 70 của thế kỉ trước GDMT đã trở thành một nội dung giáo dục quan trọng được đưa vào trong nhà trường. Nhiều công trình nghiên cứu không chỉ đề cập đến hoạt động GDMT với vị trí như một hoạt động giáo dục độc lập mà còn đề cập đến vấn đề tích hợp lồng ghép nội dung GDMT trong các môn học nhằm tăng cường GDMT cho HS. Nguyên nhân cơ bản gây suy thoái môi trường là do sự thiếu hiểu biết, thiếu ý thức của con người. GDBVMT là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất, kinh tế nhất và có tính bền vững trong các biện pháp để thực hiện mục tiêu BVMT và phát triển bền vững đất nước. Thông qua giáo dục, từng người và cộng đồng được trang bị kiến thức về môi trường, ý thức BVMT, năng lực phát hiện và xử lý các vấn đề môi trường. Trong đó giáo dục ý thức BVMT cho HS là vấn đề quan trọng nhất vì các em đang ngồi trên ghế nhà trường hôm nay sẽ tiếp tục có trách nhiệm BVMT sống cho chính bản thân mình cũng như toàn nhân loại. Trong công tác này, các thầy cô giáo có vai trò vô cùng quan trọng khi triển khai công tác GDBVMT sao cho không chỉ phù hợp với điều kiện của nhà trường và địa phương mà còn phù hợp với trình độ nhận thức của HS. Ở Việt Nam, ngày 17/10/2001 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 1363/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án “Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân”. Hiện nay GDMT đã và đang tiến hành theo hướng tích hợp trong một số môn học như: Sinh học, Địa lí, Công nghệ, GDCD... Chính vì vậy, việc nghiên cứu tích hợp GDMT trong các môn học ở trường THPT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc nâng cao ý thức và hành động BVMT cho HS hiện nay. Trong nhà trường THPT, GDCD là môn học có thể tích hợp nhiều nội dung GDMT. Theo tôi, việc tích hợp GDMT trong dạy học môn GDCD là một việc làm hết sức cần thiết, bởi vì: Một là, tích hợp GDMT trong dạy học môn GDCD sẽ cung cấp cho HS sự hiểu biết về vai trò của môi trường tự nhiên đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người; Tác động đa chiều của con người đến môi trường, ô nhiễm môi trường và những hậu quả của nó; Quan hệ giữa phát triển và môi trường, dân số, sự bùng nổ dân số và sức ép của nó đối với Kinh tế - Xã hội và môi trường. Hai là, tích hợp GDMT trong dạy học môn GDCD sẽ góp phần to lớn trong việc giáo dục các giá trị, hành vi, ứng xử, sự tôn trọng của con người đối với nhau và đối với tự nhiên. Chỉ khi nào con người thực sự tự giác tôn trọng sự sống của các sinh vật khác trên trái đất thì lúc đó con người mới thực sự sống hài hòa với thiên nhiên. Quan hệ đạo đức giữa con người với tự nhiên nói chung
  13. và môi trường nói riêng chỉ có được khi dựa trên nền tảng quan niệm con người và tự nhiên là “cùng loại” và “đồng đẳng”. Ba là, tích hợp GDMT trong dạy học môn GDCD sẽ làm cho mỗi công dân hiểu biết về sự quản lí của Nhà nước đối với các vấn đề môi trường bằng nhiều công cụ khác nhau, trong đó chủ yếu là các công cụ tài chính và pháp luật về môi trường. 2. Cơ sở thực tiễn. 2.1. Khái quát về trường THPT Anh Sơn 2. Trường THPT Anh Sơn 2 đóng trên địa bàn thôn 1, xã Lĩnh Sơn, huyện Anh Sơn. Trải qua hơn 30 năm bền bỉ vượt khó trường đã không ngừng phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu học tập của các thế hệ con em, cung cấp nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần phát triển KT-VH- XH của địa phương và đất nước. Trường THPT Anh Sơn 2 Là mái trường, vượt lên từ khó khăn với tinh thần tiếp tục đổi mới, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, Trường THPT Anh Sơn 2 tiếp tục vươn lên với những bước tiến vượt bậc về mọi mặt: Cơ sở vật chất nhà trường được xây dựng khang trang, từng bước đáp ứng được yêu cầu dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, hiện đại, thân thiện. Trường có khuôn viên rộng, có khu hiệu bộ, các
  14. phòng học, phòng chức năng được bố trí hợp lý, cảnh quan hài hòa, tạo môi trường xanh, sạch, đẹp và thân thiện. Khuôn viên nhà trường luôn xanh, sạch, đẹp Hiện tại trường có 21 lớp với hơn 800 học sinh và 28 phòng học đủ tiêu chuẩn, đảm bảo cho học một ca. Ngoài các phòng học văn hoá, trường có đủ các phòng thực hành-thí nghiệm, sân bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, ... đủ các tiêu chuẩn của trường chuẩn quốc gia. Đội ngũ cán bộ, GV đủ về số lượng, nâng cao về chất lượng. Có nhiều GV đạt thành tích xuất sắc trong các phong trào thi đua như: Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh, chiến sĩ thi đua cơ sở, GV dạy giỏi cấp tỉnh, GV chủ nhiệm giỏi,... Có những GV là nhà giáo mẫu mực cho lớp lớp đồng nghiệp trẻ và HS noi theo. Nhiều GV có thành tích xuất sắc trong công tác nghiên cứu khoa học và đúc rút sáng kiến kinh nghiệm... Chất lượng học tập của HS không ngừng nâng cao và gặt hái được nhiều thành công. Tỷ lệ HS đậu tốt nghiệp hàng năm đạt trên 95%. Số HS đậu vào các trường ĐH - CĐ ngày càng nhiều. Trải qua hơn 30 năm xây dựng và trưởng thành, Trường THPT Anh Sơn 2 nhiều năm liền đạt các danh hiệu Tập thể lao động tiên tiến, Tập thể lao động xuất sắc, Chi bộ trong sạch vững mạnh, vững mạnh tiêu biểu, Công đoàn vững mạnh xuất sắc, Đoàn trường vững mạnh xuất sắc, Đơn vị trường học có thành tích xuất sắc trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học... 2.2. Thuận lợi.
  15. Anh Sơn là miền quê văn hóa, nhiều nét đẹp văn hóa được lưu giữ. Không ngừng nâng cao đời sống tinh thần, giữ gìn và phát huy bản sắc. Sự nghiệp GD&ĐT luôn được xác định là quốc sách hàng đầu, phát triển theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và xã hội hóa, bồi dưỡng nhân tài, phát triển nguồn nhân lực, chất lượng giáo dục ngày càng có nhiều tiến bộ. Cùng với sự phát triển của chất lượng dạy học, công tác giáo dục toàn diện, giáo dục đạo đức lối sống luôn được nhà trường quan tâm đúng mức. Các hoạt động nhân đạo, từ thiện, uống nước nhớ nguồn, ... Các hoạt động GDBVMT, vệ sinh quang cảnh trường lớp, đường làng, ngõ xóm được diễn ra thường xuyên và được coi trọng. Đối với HS, công tác DGBVMT đã và đang được lãnh đạo nhà trường rất quan tâm và đã lồng ghép trong dạy học ở các môn: Lịch sử, Địa lí, Công nghệ, GDCD, NGLL..., các hoạt động như: Thi thiết kế thời trang BVMT, HS tham gia vệ sinh quang cảnh trường lớp, đường làng, ngõ xóm... , trồng và chăm sóc cây xanh, vườn hoa... góp phần giúp các em có ý thức hơn trong việc BVMT. Hàng năm, Đoàn trường THPT Anh Sơn 2 đều tổ chức hội thi Thiết kế thời trang BVMT với chủ đề: “Chung tay bảo vệ môi trường”, bao gồm 2 phần thi trình diễn thời trang và thuyết trình ý tưởng. Với óc sáng tạo và bàn tay khéo léo, học sinh trường THPT Anh Sơn 2 đã biến rác thải, phế liệu và các vật liệu thân thiện với môi trường thành bộ sưu tập thời trang ấn tượng để tuyên truyền BVMT. Các em đã sử dụng các chất liệu như túi nilon, áo mưa, báo cũ, ống hút, bao tải, lá cây dừa để thiết kế các trang phục. Trong hội thi, nhiều người rất bất ngờ với màn trình diễn những bộ thời trang độc đáo như: những bộ váy ngắn hiện đại, những bộ váy dạ tiệc lung linh, những bộ áo dài cách tân điệu đà, duyên dáng. Bên cạnh đó, các em cũng thiết kế được cả những phụ kiện, đồ dùng đi kèm rất đẹp mắt: lẵng hoa, vòng cổ, vòng tay, giày, mũ,…
  16. Hình ảnh thi thiết kế thời trang “Chung tay bảo vệ môi trường” tại trường THPT Anh Sơn 2. Hội thi được tổ chức thành công đã góp phần rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh trường THPT Anh Sơn 2 đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền về bảo về môi trường, nâng cao ý thức trách nhiệm của các em trong vấn đề bảo vệ môi trường.Thông điệp các em muốn gửi gắm qua các bộ trang phục là: Hãy hạn chế sử dụng túi nilon trong sinh hoạt, phân loại rác đúng cách và biết trân trọng, yêu quý thiên nhiên bằng những hành động nhỏ nhất. Từ đó, chúng ta sẽ góp phần xây dựng đất nước, quê hương ngày càng trở nên xanh, sạch đẹp hơn. 2.3. Khó khăn. Trường chúng tôi là trường miền núi, điều kiện KT-XH còn thấp, cho nên việc tiếp cận với những vấn đề của xã hội còn hạn chế dẫn đến trình độ nhận thức của các em về mặt xã hội cũng hạn chế, đặc biệt là kĩ năng sống còn rất kém, biểu hiện là các em đa số còn rụt rè, nhút nhát, chưa dám khẳng định mình. Việc GDBVMT ở trong nhà trường và địa phương nơi các em sinh sống chưa được diễn ra một cách bài bản, khoa học. Chính vì vậy, việc nhận thức và hiểu biết về BVMT của các em chưa cao. Ngoài ra, do việc tiếp thu các môn học của các em hơi yếu, điều này cũng gây khó khăn cho việc tích hợp BVMT. Về phía nhà trường, việc tích hợp các nội dung GDBVMT vào các môn học đã được quan tâm nhưng chưa đúng mức, GV chưa thực sự cố gắng, chưa phân bố được quỹ thời gian dành cho nội dung này trong bài giảng, thiếu sự tìm tòi, khảo nghiệm, chưa tìm được phương thức phù hợp để tích hợp nội dung GDMT vào bài giảng. Hiện nay, việc tích hợp GDMT vào chương trình môn học còn có nhiều hạn chế như: kỹ năng dạy tích hợp của GV còn yếu, chưa tuân thủ đúng nguyên tắc, phương pháp và cách thức của dạy tích hợp, phương pháp tích hợp chưa sáng tạo, GV chưa thực sự cố gắng để tìm tòi, sưu tầm những tư liệu phục vu ̣cho việc dạy tích hợp, GV có tâm lí dạy tích hợp sẽ ảnh hưởng đến nội dung, chương trình môn học. Từ những thuận lợi và khó khăn như đã nêu ở trên, theo tôi, để làm tốt công tác GDMT thông qua các môn học cho HS THPT đòi hỏi sự nỗ lực của nhiều phía: gia đình, nhà trường, địa phương và cả xã hội. Kết quả khảo sát năm học 2020 - 2021 về nhận thức và hiểu biết về BVMT HS khối 11 với 279 em tại trường THPT Anh Sơn 2 đã phần nào phản ánh thực trạng và khó khăn của nhà trường trong việc giáo dục BVMT. STT Câu hỏi Có Không Không trả
  17. lời Trồng cây và bảo vệ cây xanh có phải là góp 1 phần bảo vệ môi trường trong sạch không ? Chất thải từ các nhà máy có gây tác hại cho 2 môi trường sống của con người không ? Đào bới khoáng sản, chặt cây phá rừng làm 3 mất cân bằng sinh thái không ? Diệt muỗi, diệt chuột và các con vật có hại 4 khác có phải là bảo vệ môi trường không ? Sự gia tăng dân số nhanh có ảnh hưởng đến 5 môi trường tự nhiên không ? Bảo vệ môi trường sống có phải là trách 6 nhiệm của học sinh không ? Học sinh có thể làm những việc gây ô nhiễm 7 môi trường không ? Nhà trường có nên tổ chức cho học sinh làm 8 vệ sinh trường lớp thường xuyên không ? Để góp phần bảo vệ môi trường học sinh có 9 cần phải đọc sách báo, xem phim ảnh về vấn đề môi trường không ? Giáo dục môi trường có cần thiết trở thành 10 môn học riêng và có sách giáo khoa không ? Kết quả tổng hợp như sau: TT Kết quả khảo sát Lớp SL Số HS trả Tỉ lệ Số HS Tỉ lệ Số HS (Tỉ lệ Ghi chú lời đúng. (%) trả lời (%) không %) sai. trả lời. 11A1 44 43 97,7% 1 2.3% 0 0% Lớp chọn 11A2 40 38 95.% 2 5% 0 0% Lớp chọn 11A3 39 26 66.7% 11 28% 2 5.1% Lớp CB
  18. 11A4 35 23 65.7% 9 25.7% 3 8.6% Lớp CB 11B 39 35 89.7% 3 7.7% 1 2.6% Lớp chọn 11C 40 38 95% 2 5% 0 0% Lớp chọn 11D 39 38 97.4% 1 2.6% 0 0% Lớp chọn Tổng 279 241 86.4% 29 10.4% 6 2.2% số HS em em em em Từ kết quả khảo sát trên cho thấy việc nhận thức và hiểu biết về BVMT tại trường THPT Anh Sơn 2 của HS nhà trường chưa thực sự cao. Đặc biệt ở các lớp cơ bản. Nhìn vào bảng kết quả ta thấy số HS trả lời sai và số HS không trả lời chủ yếu ở các lớp cơ bản thường. 2.4. Tìm hiểu thực trạng công tác dạy học tích hợp GDBVMT trong dạy học nói chung và dạy học GDCD nói riêng. 2.4.1. Đối tượng tìm hiểu - GV: Tôi đã tiến hành tìm hiểu một số giáo viên đã giảng dạy môn GDCD 11, môn Sinh Học, môn Công Nghệ... tại trường THPT Anh Sơn 2. - HS: Khảo sát 75 học sinh ở hai lớp 11A2 và 11A4 tại trường THPT Anh Sơn 2. 2.4.2. Mục đích tìm hiểu Trả lời cho câu hỏi phỏng vấn sau: - Thực trạng dạy: Ở trường, các em đã được thầy cô GDBVMT bằng những hình thức nào? Phương pháp ra sao? Ai dạy học môn GDCD, môn Sinh học, môn Công nghệ? GV thực hiện chương trình dạy học như thế nào? GV đã tích hợp GDBVMT vào chương trình dạy học hay chưa? Tích hợp ở mức độ nào? Nội dung tích hợp ra sao? Đã sử dụng các phương pháp, phương tiện dạy học như thế nào? Đã phát huy được hiệu quả, đạt được mục tiêu dạy học chưa? - Thực trạng học: Hứng thú học tập của HS đối với môn GDCD, môn Sinh học, môn Công nghệ như thế nào? Hứng thú của HS đối với tích hợp GDBVMT trong các môn học trên như thế nào? Phương pháp học tập của HS ở lớp, ở nhà và kết quả học như thế nào? 2.4.3. Phương pháp tìm hiểu Sử dụng phiếu điều tra (Được tiến hành trước khi thực hiện dạy học tích hợp GDBVMT).
  19. - Phiếu dành cho học sinh (Thể hiện tại Phụ lục 1) 2.4.4. Kết quả điều tra * Số liệu điều tra học sinh (Thể hiện tại Bảng 1, Phụ lục 2). Nhận xét: Qua kết quả điều tra bằng phiếu và bằng nhiều nguồn thông tin khác về tích hợp GDBVMT trong dạy học, tôi nhận thấy: Về học sinh: - Qua điều tra và khảo sát, tôi thấy rằng khoảng trên 80% HS THPT có những hiểu biết về vấn đề BVMT qua học tập các môn học KHXH, sinh hoạt Đoàn, ngoài giờ chính khóa, tiếp nhận từ các phương tiện thông tin đại chúng. - Ở mức độ nhất định, các em đã có nhận thức và hiểu biết về công tác BVMT trong nhà trường và tại địa phương nơi các em sinh sống. - Một số lượng khoảng dưới 20% HS hiểu biết rất hạn chế hoặc chưa hiểu biết gì về công tác BVMT . - Một phần nhỏ không nhiệt tình trong việc tìm hiểu về nhận thức và hiểu biết về công tác BVMT. - Sự hiểu biết về công tác BVMT của HS còn đơn giản, nặng về cảm tính, nên tác động của việc GDBVMT đến suy nghĩ, hành động của các em chưa mạnh mẽ, chưa có hiệu quả cao. - Về mặt nhận thức và hành động, các em khẳng định và trong thực tế đã và đang biết vai trò, ý nghĩa của công tác BVMT, mặc dù vậy các em vẫn chưa hiểu hết và đặc biệt chưa có những việc làm thường xuyên, liên tục, mọi lúc, mọi nơi để BVMT. - HS chưa coi trọng môn GDCD và ít đầu thời gian vào việc học môn này ở trường cũng như ở nhà. Đồng thời các em chưa thực sự quan tâm đến việc BVMT, chưa vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, chưa thấy hết được việc hiểu biết về GDBVMT là cần thiết và quan trọng đối với các em. Về giáo viên: - GV đã có sự đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của HS nhưng chưa đáng kể. Ngoài ra nhận thấy HS không mấy thích thú với bộ môn của mình nên GV chỉ dạy hết nội dung bộ môn mà thôi. - GV đã tích hợp giáo dục BVMT vào môn học nhưng chưa được chú trọng, chủ yếu là ngẫu hứng. Chưa phù hợp với từng đối tượng HS, chưa tạo được sự hứng thú cho HS. - Đa số GV chưa chịu khó, chưa chuyên tâm trong việc tìm tòi, nghiên cứu, về GDBVMT phù hợp với nội dung của từng bài, từng mục, từng ý… để có thể
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2