ÑEÀ TAØI : BIEÄN PHAÙP NAÂNG CAO <br />
<br />
CHAÁT LÖÔÏNG MOÂN CHÍNH TAÛ<br />
CHO HOÏC SINH LỚP 4<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:<br />
<br />
Chữ viết hiện nay của người Việt là chữ viết ghi lại theo phát âm. Do đó việc <br />
viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sử viết đúng. Tuy nhiên do yếu tố <br />
vùng miền, cách phát âm mỗi nơi có khác nhau. Mặc dù những qui tắc, qui ước về <br />
Chính tả đã được thống nhất theo ngữ pháp chung. Nhưng việc “viết đúng Chính <br />
tả” trong học sinh hiện nay nói chung vẫn còn nhiều khó khăn, tồn tại. <br />
<br />
Vấn đề là: Cũng như tất cả các nước dùng hệ thống chữ cái Latin khác trên <br />
thế giới, “ghi giọng nói” là thao tác hiển thị cơ bản của ngôn ngữ viết. Trong khi <br />
trong thực tế ở nước ta, hiện tượng không đồng nhất trong phát âm là khá phổ biến. <br />
Do tình hình kinh tế xã hội chung, hầu như bất kỳ địa phương nào trong cả nước <br />
cũng có sự pha trộn, giao thoa của nhiều vùng miền. Từ giáo viên đến học sinh, “Cô <br />
Bắc trò Nam; Cô Trungtrò Bắc...”. “Nghe và hiểu” được tiếng nói của nhau quả là <br />
không đơn giản. Trong khi “chuẩn chính tả” của Ngữ pháp Việt Nam căn cứ vào <br />
phát âm của khu vực Hà Nội thì với các vùng miền khác việc “nhại giọng nói” theo <br />
phát âm tiêu chuẩn không hề đơn giản. Một số ví dụ tiêu biểu như: Phát âm của <br />
một số vùng Bắc Bộ (Hải Dương) thì “nói và làm” thành ra “lói và nàm”, khu vực <br />
Trung Bộ (khu vực Bình Trị Thiên, Nghệ Tỉnh) hầu như không phân biệt nỗi các <br />
dấu thanh “sắc nặnghỏi ngã” như “nói” lại thành “nọi”; phát âm khu vực các <br />
Tỉnh “xứ Quãng” thì càng gay gắt hơn với những nguyên âm chính như “ ăn” thành <br />
“eng”, “nói” thì nghe thành “núa”, các tỉnh Miền Nam thì “về” thành ra “dề” hay <br />
“lan” và “lang” nghe...như nhau, đặc biệt vùng Đồng bằng Nam bộ còn có phát âm <br />
như ngọng “Con cá rô bỏ vô rổ giãy rột rột” thành “ Con cá gô bỏ vô gổ dảy gột <br />
<br />
<br />
<br />
1<br />
gột”...Gần gũi và đặc trưng hơn như trong phạm vi Xã Hòa Long Long Phước nơi <br />
Trường đóng việc phát âm cũng có vài phương ngữ như: “Ông Nội” thành “Ông <br />
Nậu”, “Con người, số mười” lại nghe thành “con ngừ, số mừ”, “bên ngoài” thành <br />
“bên quài”, “đàng hoàng” thành “đàng quàng”... Nhưng “vùng nào hiểu theo vùng <br />
nấy” nên thật ra trong từng địa phương có kiểu phát âm như vậy đã thành “quen tai” <br />
nên không có gì đáng nói. Có điều là hiện nay, sự sống chung pha trộn trong các <br />
vùng cả nước hiện nay là phổ biến nên khó khăn trong việc “nghe và viết” sao cho <br />
đúng là một vấn đề lớn đối với Chính tả Việt Nam là rất rõ nét.<br />
<br />
Chính vì vậy, học sinh hiện nay mắc lỗi chính tả rất nhiều. Điều này ảnh <br />
hưởng tới kết quả học tập của các em ở môn Tiếng Việt nói chung cũng như các <br />
môn học khác. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy thực tế tôi đã tìm hiểu nguyên <br />
nhân và đưa ra một số biện pháp khắc phục để giúp học sinh học tốt môn <br />
chính tả, một trong những biện pháp tích cực giúp học sinh học tốt môn Tiếng <br />
Việt và các môn học khác trong chương trình. Bởi trên thực tế, nếu người nói <br />
“không chuẩn phát âm” không thể làm người nghe hiểu mình muốn gì thì “viết <br />
không đúng” cũng không thể diễn đạt được ý tưởng của mình cho người khác <br />
hiểu. Đặc biệt là trong chương trình phổ thông, môn Tiếng Việt lại là môn “chủ <br />
lực và trung tâm” để có thể khai thác các môn học khác một cách tốt nhất.<br />
<br />
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:<br />
<br />
1. Một số tồn tại trong thực tế:<br />
<br />
Qua quá trình giảng dạy và theo dõi chất lượng bộ môn, tôi thấy học sinh <br />
thường mắc phải các loại lỗi sau:<br />
<br />
a. Lỗi về dấu thanh:<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
2<br />
Tiếng Việt có 6 thanh (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì nhiều học <br />
sinh không phân biệt được 2 thanh hỏi, ngã. Số lượng tiếng mang 2 thanh này <br />
không ít và rất phổ biến kể cả những người có trình độ văn hoá cao.<br />
<br />
Ví dụ: Sữa xe đạp, hướng dẩn, giử gìn, dổ dành, lẩn lộn,…<br />
<br />
b. Lỗi phụ âm đầu: <br />
<br />
Học sinh viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây:<br />
<br />
+ c/k: Céo co… +ng/qu: ông quại (ngoại), bên quài(ngoài)<br />
<br />
+ g/gh: Con ghà , gê gớm… +h/qu: quảng hốt (hoảng hốt), phá quại (phá hoại)<br />
<br />
+ ng/ngh: Ngỉ ngơi, nge nhạc, nghành nghề…<br />
<br />
+ ch/tr: Cây che, chiến chanh…<br />
<br />
+ s/x: Cây xả , xa mạc…<br />
<br />
c.Lỗi âm cuối, vần: <br />
<br />
Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:<br />
<br />
+ at/ac ăt/ăc ât/âc: mác mẻ, lường gạc, gặc lúa, nổi bậc, lấc phấc…<br />
<br />
+ an/ang ân/âng: cây bàn, bàng bạc, khoai lan, hụt hẫn, tần lầu...<br />
<br />
+âu/ôi : ông Nậu (nội), cái gấu (gối)...<br />
<br />
+ ên/ênh: bấp bên, nhẹ tên, ghập ghền, khấp khển…<br />
<br />
+ư/ươi: con ngừ , hai mư...<br />
<br />
2. Nguyên nhân chủ yếu: <br />
<br />
a/ Lỗi về dấu thanh: <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
3<br />
Thực tế qua ngôn ngữ nói, Nghệ An trở vào không phát âm phân biệt được <br />
những thanh hỏi, ngã. Nói cách khác trong phương ngữ khu vực miền Trung và <br />
miền Nam không có thanh ngã. Trong khi số lượng từ mang 2 thanh này khá lớn. <br />
Do đó đây là lỗi rất phổ biến trong học sinh. <br />
<br />
b/ Lỗi khi viết âm đầu:<br />
<br />
Trong phương ngữ Bắc và Nam có sự lẫn lộn giữa các chữ ghi âm đầu <br />
ch/tr, d/gi, s/x . Mặt khác, trong khi một số vùng miền Bắc thường lẫn lộn các âm <br />
đầu l/n thì người Miền Nam thường lẫn lộn v/d, r/g. Ngoài ra, trong quy ước về <br />
chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng (ví dụ: âm “cờ” ghi bằng 3 chữ <br />
cái c / k /qu , âm “ngờ” ghi bằng ng/ngh, âm “gờ” ghi bằng g/gh…) dù có những <br />
quy định riêng cho mỗi dạng khi ghép chữ, nhưng đối với học sinh tiểu học thì <br />
rất dễ lẫn lộn.<br />
<br />
c/. Lỗi khi viết âm cuối:<br />
<br />
Đối với người Miền Nam, có thể nói việc phát âm hoàn toàn không phân <br />
biệt các vần có âm cuối n/ng và t/c. Mà số từ mang các vần này không nhỏ. Mặt <br />
khác hai bán âm cuối i,u/ lại được ghi bằng 4 con chữ i/y (trong: lai/lây), u/o <br />
(trong: sau/sao), ư/ươi (trong : tư/tươi) do đó lỗi về âm cuối là lỗi khó khắc phục <br />
đối với học sinh các tỉnh phía Nam nói chung và tại địa phương nói riêng<br />
<br />
3.Một số biện pháp khắc phục lỗi:<br />
<br />
a. Tích cực luyện phát âm đúng:<br />
<br />
Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải là người phát âm rõ tiếng, <br />
đúng chuẩn, đồng thời chú ý luyện phát âm cho học sinh để phân biệt các thanh, <br />
các âm đầu, âm cuối. Việc rèn phát âm bắt đầu phải được thực hiện trong tiết <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
4<br />
Tập đọc và được thực hiện thường xuyên, liên tục, lâu dài trong tất cả các tiết <br />
học như Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn…<br />
<br />
b Phân biệt chính tả bằng phân tích, so sánh:<br />
<br />
Song song với việc phát âm, giáo viên có thể áp dụng biện pháp phân tích <br />
cấu tạo tiếng, so sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, phát hiện những điểm khác <br />
nhau để học sinh lưu ý và ghi nhớ.<br />
<br />
Ví dụ: Khi viết tiếng “làng” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “làn”, giáo viên <br />
yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này:<br />
<br />
làng = l + ang + thanh huyền<br />
<br />
làn = l + an + thanh huyền.<br />
<br />
So sánh để thấy sự khác nhau: Tiếng “làng” có âm cuối là “ng”, tiếng “làn” <br />
có âm cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ điều này, khi viết, các em sẽ không viết sai.<br />
<br />
c.Phân biệt bằng nghĩa từ:<br />
<br />
Một biện pháp khác để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giúp học sinh <br />
hiểu nghĩa chính xác của từ. Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết <br />
Tập đọc, Luyện từ và câu…nhưng trong tiết Chính tả cũng là một biện pháp tích <br />
cực, khi học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hoặc phân tích cấu <br />
tạo tiếng.<br />
<br />
Ví dụ: Phân biệt bàn và bàng (trong từ đơn): Bàn= cái bàn – bàng <br />
=cây bàng hoặc phân biệt Bác và bát : bác=anh của ba, Bác Hồ bát = đồ dùng <br />
ăn cơm (bát đũa)<br />
<br />
Với những từ nhiều tiếng, từ nhiều nghĩa giáo viên phải đặt từ đó trong văn <br />
cảnh cụ thể để gợi lại nghĩa từ hoặc giúp học sinh giải nghĩa từ.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
5<br />
d. Ghi nhớ một số mẹo luật chính tả:<br />
<br />
Một số hiện tượng chính tả mang tính quy luật đối với hàng loạt từ có thể <br />
giúp cho học sinh khắc phục lỗi chính tả một cách rất hữu hiệu. Ngay từ lớp 1, <br />
các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: các âm đầu k, gh, ngh <br />
chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê, ie. <br />
<br />
Luật bổng trầm: Qui luật về dấu hỏi, ngã trong các từ láy (mát mẻ, vui <br />
vẽ, sạch sẽ...) Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh (hay dấu) của 2 yếu tố ở cùng <br />
một hệ bổng (ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm (huyền/ngã/nặng). Để nhớ được 2 <br />
nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc nguyên tắc : Ngang sắc = <br />
hỏi/ Huyền nặng = ngã<br />
<br />
Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh <br />
huyền, nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước <br />
mang thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược <br />
lại).<br />
<br />
Ví dụ:<br />
Ngang + hỏi: Nhỏ nhoi, trẻ trung, vui vẻ…<br />
Sắc + hỏi: Mát mẻ, sắc sảo, vắng vẻ…<br />
Hỏi + hỏi: Thỏ thẻ, hổn hển, rủ rỉ…<br />
Huyền + ngã: Mỡ màng, lững lờ, vồn vã<br />
Nặng + ngã: Đẹp đẽ, mạnh mẽ, vật vã…<br />
Ngã + ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo…<br />
<br />
Ngoài ra, giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật <br />
khác như:<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
6<br />
+ Để phân biệt âm đầu tr/ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con <br />
vật đều bắt đầu bằng ch, ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum, <br />
chạn, chõ, chĩnh, chuông, chiêng, choé,… chồn, chí, chuột, chó, chuồn chuồn, <br />
châu chấu, chào mào, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi…<br />
<br />
+ Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt <br />
đầu bằng s: Sả, si, sồi, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, <br />
sặt, sậy, sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa… sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, <br />
sóc, sói, sứa, sáo sậu, săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô…<br />
<br />
+ Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn: <br />
<br />
Đa số từ chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc có vần ênh: Gập ghềnh, <br />
khấp khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh choạng, <br />
lênh khênh, bấp bênh, công kênh…<br />
<br />
Hầu hết các từ tận cùng là ng hoặc nh là từ tượng thanh: oang oang, đùng <br />
đoàng, loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác, <br />
pằng pằng, eng éc, beng beng, chập cheng, leng keng, lẻng kẻng, đùng đùng, <br />
thùng thùng, bình bịch, thình thịch, rập rình, xập xình, huỳnh huỵch…<br />
<br />
Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ tượng hình: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã <br />
khuỵu, khuỵu chân; vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân<br />
<br />
e. Vận dụng củng cố bằng các bài tập chính tả:<br />
<br />
Giáo viên nên cho học sinh thực hiện các dạng bài tập chính tả khác nhau <br />
để giúp học sinh tập vận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng <br />
từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các quy <br />
tắc chính tả để các em ghi nhớ.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
7<br />
Ngoài ra, việc kiểm tra “viết đúng chính tả” của giáo viên đối với học sinh <br />
không chỉ ở môn Chính tả mà cũng cần lưu ý nhắc nhở học sinh trong tất cả <br />
các môn học khác trong chương trình, đặc biệt là môn Tập làm văn. Việc này <br />
phải được tiến hành kiên trì và liên tục để giúp học sinh dần có ý thức rèn kỹ <br />
năng “viết đúng” trong mọi tình huống.<br />
<br />
4. Kiểm nghiệm Tự nhận xét kết quả:<br />
<br />
Trong quá trình giảng dạy, với việc áp dụng các biện pháp trên tôi nhận <br />
thấy học sinh đã có tiến bộ khá rõ rệt. Tuy rằng đây mới chỉ là kết quả hết sức <br />
khiêm tốn và việc “giúp học sinh học tốt môn chính tả” là một quá trình lâu dài <br />
song với những kết quả bước đầu như trên, nếu tiếp tục rèn luyện sang lớp trên <br />
các em sẽ có kỹ năng viết đúng đạt yêu cầu. Cụ thể qua bảng so sánh chất lượng <br />
sau của lớp:<br />
<br />
Đầu năm Giữa HK1 Cuối HK1<br />
<br />
Số học sinh trung bình trở lên: 14/29 18/29 20/29<br />
<br />
Số học sinh yếu: 15/29 11/29 9/29<br />
<br />
Một số học sinh yếu kém vào đầu năm học như: Trần Quốc Hùng, Trần <br />
Thị Hương, Mã Văn Thắng, Nguyễn Hoàng Tú, Thái Bình Phúc, Nguyễn Thành <br />
Tuấn thường sai từ 10 lỗi trở lên trong 1 bài đến cuối HK1 số lỗi đã giảm xuống <br />
còn 25 lỗi/mỗi bài.<br />
<br />
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LƯU Ý KHI VẬN DỤNG SÁNG KIẾN KINH <br />
NGHIỆM:<br />
<br />
Phát hiện lỗi chính tả, đưa ra các biện pháp khắc phục kịp thời là rất cần <br />
thiết, không thể thiếu trong quá trình dạy học. Nhưng không phải chỉ đưa ra các <br />
biện pháp khắc phục là có thể thực hiện một cách có hiệu quả. Sửa chữa, khắc <br />
<br />
<br />
<br />
8<br />
phục lỗi chính tả là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, <br />
bền bĩ. Giáo viên nên hướng dẫn các em thật tỉ mỉ về các quy tắc chính tả, quy <br />
tắc kết hợp từ, quy tắc ghi âm chữ quốc ngữ…Trong quá trình giảng dạy, giáo <br />
viên luôn quan sát, kiểm tra, … từ đó phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc, <br />
hoặc những lỗi mà học sinh hay mắc phải để kịp thời sửa chữa, uốn nắn.<br />
<br />
Giáo viên cần phải không ngừng học hỏi, tự tìm hiểu, nghiên cứu để nâng <br />
cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ. Có nắm chắc kiến thức, giáo viên mới có <br />
thể giúp học sinh học tập một cách có hiệu quả.<br />
<br />
IV. KẾT LUẬN:<br />
<br />
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã nghiên cứu và vận dụng trong <br />
quá trình giảng dạy thực tế của lớp mình. Tuy kết quả bước đầu chưa cao lắm, <br />
nhưng với nhiệt tình và nổ lực theo khả năng, tôi cũng đã tích lũy được một số <br />
bài học thực tiễn. Rất mong được nhận ý kiến đóng góp của Ban giám hiệu cùng <br />
các bạn đồng nghiệp, để việc giảng dạy bộ môn Chính tả trong nhà trường ngày <br />
càng nâng cao chất lượng, giúp học sinh học tốt hơn.<br />
<br />
Tôi xin chân thành cảm ơn! <br />
<br />
(Bài viết có tham khảo tư liệu trong http://giaoan.violet.vn – Chân thành cảm ơn <br />
các tác giả.) <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
9<br />