intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 2

Chia sẻ: Trần Văn An | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:22

93
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Một số biện pháp nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 2" đã đưa ra những biện pháp mới rèn luyện kỹ năng viết chữ cho học sinh trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ, phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, giúp cho các em yêu Tiếng Việt hơn, có ý thức luyện viết cẩn thận hơn, đẹp hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 2

CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM<br /> Độc lập – Tự do – Hạnh phúc<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:<br /> “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHỮ VIẾT <br /> CHO HỌC SINH LỚP 2”<br /> Quảng Bình, tháng 02 năm 2019<br /> <br /> <br /> CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM<br /> Độc lập – Tự do – Hạnh phúc<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:<br />  “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHỮ VIẾT <br /> CHO HỌC SINH LỚP 2”<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Họ và tên:           Nguyễn Thị Thương<br /> Chức vụ:             Giáo viên<br /> Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Phú Thủy<br /> Quảng Bình, tháng 02 năm 2019<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1. Phần mở đầu<br /> 1.1 Lý do chọn đề tài:<br /> Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Chữ viết cũng là một biểu  <br /> hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp  <br /> phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự  trọng đối với mình cũng như  <br /> đối với thầy và bạn đọc bài vở của mình…”.<br /> Những dòng chữ  ngay ngắn, thẳng hàng luôn gây  được cảm tình cho <br /> người đọc, người xem. Ngược lại, nét chữ  xiêu vẹo, nghiêng ngả, chưa được <br /> đẹp … khiến người đọc không hiểu được nội dung văn bản, thì việc chuyển  <br /> tải  thông tin sẽ  gặp nhiều hạn chế.  Ông cha ta đã từng nói " Nét chữ  nết  <br /> người" quả  không sai, chúng ta có thể  đoán được tính cách một người thông <br /> qua nét chữ của người đó. Bởi cái chữ phản ánh rất đúng cái tính cách, bản chất <br /> của người cầm bút viết nên nó. Nhìn nét chữ  ngay ngắn, tròn trĩnh đó là người <br /> có tính cách cẩn thận, chu toàn, gọn gàng, làm việc gì cũng tới nơi tới chốn, còn  <br /> nhìn nét chữ  nghiêng ngã, xiêu vẹo chứng tỏ  người viết có tính cách cẩu thả,  <br /> thiếu cẩn thận.  Nét chữ  là biểu hiện của nết người, là phản ánh ý thức rèn <br /> luyện tư  duy vào óc thẩm mĩ của người viết. Từ  việc rèn chữ  viết đẹp góp  <br /> phần rèn luyện cho chính các em đức tính cẩn thận, tính kỷ  luật và lòng tự <br /> trọng đối với mình, đối với người khác. Vì thế  chữ  viết có vai trò rất quan  <br /> trọng đối với con người. Chữ viết cần phải đúng, đẹp để tạo sự tôn trọng lẫn  <br /> nhau. <br /> Chữ   viết   là   một   công   cụ   dùng   để   giao   tiếp   và   trao   đổi   thông   tin,   là <br /> phương tiện để  ghi chép và tiếp nhận những tri thức văn hóa, khoa học và đời <br /> sống... Do vậy,  ở  trường Tiểu học việc dạy học sinh biết chữ  và từng bước <br /> làm chủ được công cụ chữ viết để phục vụ cho học tập và giao tiếp là yêu cầu <br /> quan trọng của môn Tiếng Việt. Ch ữ  vi ế t đã tr ở  thành m ộ t công c ụ  quan <br /> tr ọ ng trong vi ệ c hình thành, phát tri ể n văn hoá, văn minh c ủ a m ỗ i dân <br /> t ộ c.   Ngoài ra nó còn góp phần rèn luyện những phẩm chất đáng quý như  tính  <br /> cẩn thận, lòng yêu cái đẹp, tinh thần trách nhiệm, ý thức tự trọng và thái độ tôn <br /> trọng người khác thông qua chữ viết. Và thông qua việc rèn luyện chữ viết mà <br /> giáo dục nhân cách con người. Do đó việc rèn chữ viết cho học sinh là điều rất  <br /> cần thiết và không phải đơn giản, đòi hỏi cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo <br /> viên và học sinh. Giờ  đây nhu cầu về  cái đẹp ngày càng cao, viết chữ  đẹp là  <br /> điều đang được mọi người quan tâm và đã gặt hái được nhiều thành công đáng <br /> kể. Đặc biệt phong trào "Vở  sạch, chữ  đẹp" đang được các ban ngành, nhà <br /> trường, phụ huynh và học sinh quan tâm.        <br /> Trẻ em đến trường được học đọc, học viết. Sung sướng biết bao khi các  <br /> bậc làm cha làm mẹ  được nhìn thấy con em mình tròn môi đọc từng tiếng và  <br /> nắn nót viết từng nét chữ thật đẹp. <br /> Nếu như tập đọc giúp trẻ đọc thông, thì tập viết giúp trẻ viết thạo. Đọc <br /> thông mở  đường cho viết thạo, viết thạo sẽ  giúp trẻ  ghi nhanh, ghi rõ ràng <br /> những điều thầy giảng và những điều trẻ  nghĩ. Nhìn trang vở  tập viết với <br /> những dòng chữ  đều tăm tắp, không bị  giây mực, quăn mép, lòng ta dấy lên  <br /> niềm vui, ta như được củng cố thêm niềm tin vào tương lai của con trẻ. Nhưng  <br /> muốn viết thạo, trẻ phải gắng công khổ  luyện dưới sự  chăm sóc tận tình của  <br /> các thầy cô giáo.<br /> Nhưng giờ  đây, chúng ta đang  ở  trong một thời đại mới, thời đại công <br /> nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thời đại thông tin bùng nổ, mọi người  <br /> thường ngồi với chiếc máy vi tính của mình để soạn thảo một văn bản thay vì <br /> cầm bút viết từng nét chữ  trên từng trang giấy. Việc rèn chữ  viết của mọi <br /> người đang dần bị chìm vào quên lãng.<br /> Đối với tôi, là một giáo viên dạy lớp 2 thì việc dạy học sinh viết chữ đẹp <br /> là điều không dễ  dàng và đòi hỏi người giáo viên cần có những kĩ năng và <br /> phương pháp phù hợp bởi đối với học sinh lớp 2 nhất là lúc đầu năm học, mặc <br /> dù các em đã được làm quen với việc viết chữ ở lớp 1 nhưng việc tập trung để <br /> viết chữ đúng và đẹp là rất khó khăn bởi trình độ nhận thức của các em còn hạn <br /> chế, chưa chú ý vào việc tập viết, các em viết nhanh, viết  ẩu và viết sai rất  <br /> nhiều, sai về độ cao, về khoảng cách, về cấu tạo các con chữ... Thế nên cần có <br /> những biện pháp phù hợp giúp các em học sinh lớp 2 rèn viết chữ đúng và đẹp  <br /> hơn góp phần nâng cao chất lượng học tập.<br /> Là một giáo viên dạy lớp 2 tôi luôn trăn trở, tự  hỏi làm thế  nào để  giúp  <br /> cho các em học sinh lớp 2 có thể  viết đúng, viết đẹp. Với những lí do trên mà <br /> tôi chọn đề  tài "Một số  biện pháp nâng cao chất lượng chữ  viết cho học  <br /> sinh lớp 2" giúp các em học sinh lớp 2 có được những kĩ năng và phương pháp <br /> để rèn viết chữ đúng và đẹp.<br /> 1.2. Điểm mới của đề tài<br /> Đề tài "Một số biện pháp nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh  <br /> lớp 2"  đã đưa ra những biện pháp mới rèn luyện kỹ năng viết chữ cho học sinh  <br /> trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ, phù hợp với tình hình thực tế hiện <br /> nay, giúp cho các em yêu Tiếng Việt hơn, có ý thức luyện viết cẩn thận hơn,  <br /> đẹp hơn.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 2. Phần nội dung<br /> 2.1. Thực trạng khi giảng dạy phân môn tập viết cho học sinh lớp 2<br /> “Tập viết” là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt  ở <br /> tiểu học, nhất là đối với các lớp ở đầu cấp. Phân môn tập viết trang bị cho học  <br /> sinh bộ chữ viết Tiếng Việt và những yêu cầu về kĩ thuật để  sử  dụng bộ  chữ <br /> cái này trong học tập và giao tiếp. Với ý nghĩa đó, tập viết không những có quan  <br /> hệ mật thiết tới chất lượng học tập của các môn học khác mà còn góp phần rèn <br /> luyện một trong những kĩ năng hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà <br /> trường đó là kĩ năng viết chữ. Nếu viết đúng, viết đẹp, tốc độ  nhanh thì học <br /> sinh có điều kiện ghi chép bài học tốt, nhờ vậy kết quả học tập sẽ cao hơn. <br /> Rèn luyện chữ viết không chỉ giúp cho học sinh nắm những kiến thức cơ <br /> bản về chữ viết mà còn rèn kĩ thuật viết chữ. Trong các tiết tập viết, học sinh  <br /> nắm bắt được các tri thức cơ bản về cấu tạo các chữ cái Tiếng Việt được thể <br /> hiện trên bảng lớp, bảng con, ở vở tập viết, vở ghi bài các môn học khác. Đồng  <br /> thời, học sinh được giáo viên hướng dẫn các yêu cầu kĩ thuật viết từng nét chữ <br /> để hình thành nên một chữ cái rồi đến tiếng, từ, cụm từ, câu và cả  đoạn văn... <br /> Song song với việc rèn chữ  hoa, học sinh còn được rèn viết văn bản có thể  là  <br /> nhìn một đoạn văn, đoạn thơ  chép lại cho đúng  (tập chép) hoặc nghe cô giáo <br /> đọc mẫu, học sinh viết vào vở (nghe viết). <br /> Ở trường tiểu học, trong những năm gần đây, học sinh viết chữ chưa đẹp <br /> là một tình trạng đáng báo động. Hiện nay, học sinh lựa chọn đủ các loại bút để <br /> viết nên  ảnh hưởng không nhỏ  đến chất lượng chữ  viết. Vẫn còn nhiều học <br /> sinh viết chữ  chưa đúng mẫu, chưa đúng độ  cao các con chữ, kỷ  thuật nối nét  <br /> chưa đúng, thế  chữ  không  ổn định, viết sai các nét khuyết trên và nét khuyết <br /> dưới. Nhiều em viết các chữ  viết hoa chưa đúng độ  cao, độ  rộng, hình dạng <br /> con chữ. Ít có học sinh có ý thức và chăm chỉ luyện viết thêm ở nhà. Mặt khác, <br /> chữ  viết của một số  giáo viên chưa đúng quy định cũng  ảnh hưởng rất nhiều <br /> đến việc rèn chữ  viết của học sinh. Mỗi thầy, cô giáo được xem như  là một <br /> tấm gương phản chiếu để học sinh soi rọi vào đó. Học sinh tiểu học là lứa tuổi <br /> hay “bắt chước” giáo viên viết như  thế nào thì học sinh viết như  thế đó, đặc <br /> biệt là các lớp đầu cấp.<br />       Thực tế qua giảng dạy ở lớp tôi chủ nhiệm, tôi nhận thấy vẫn còn nhiều <br /> học sinh viết chữ  chưa đẹp, chưa đúng mẫu, thế  chữ  không  ổn định, viết sai <br /> chính tả  ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các môn học khác.  <br /> Cụ thể, kết quả khảo sát kỹ năng viết sau 4 tuần học ở lớp tôi giảng dạy như <br /> sau:<br /> HS viết chữ  HS viết chữ  HS viết thế  HS sai kỷ  HS viết chưa <br /> Tổng  đẹp, đúng  chưa đúng mẫu,  chữ không ổn  thuật nối nét đúng các con <br /> số HS mẫu sai lỗi chính tả định chữ viết hoa<br /> SL % SL % SL % SL % SL %<br /> <br /> 34 4 11,8 30 88,2 25 73,5 30 88,2 28 82,4<br /> 2.2 Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 rèn chữ viết đúng, viết đẹp<br /> Chữ viết có tầm quan trọng đặc biệt ở bậc tiểu học, học sinh phải dùng <br /> chữ viết để học tập và là phương tiện giao tiếp. Vì vậy, chữ viết không những <br /> có quan hệ  mật thiết tới chất lượng học tập  ở các môn học khác mà còn góp <br /> phần rèn luyện một trong những kĩ năng hàng đầu của việc học môn Tiếng  <br /> Việt trong trường tiểu học ­ đó là kỹ  năng viết chữ. Nếu học sinh viết đúng, <br /> đẹp, rõ ràng, đảm bảo tốc độ quy định thì học sinh có điều kiện để ghi chép bài  <br /> học tốt, nhờ vậy mà kết quả học tập tốt hơn, ngược lại viết xấu sẽ ảnh hưởng  <br /> không nhỏ đến chất lượng học tập của các em. Chữ  viết mang tính thực hành <br /> cao, ngoài việc học sinh nắm được các kiến thức cơ  bản của việc viết chữ và  <br /> kỹ  thuật viết thì rèn viết chữ  đẹp là một yêu cầu cũng hết sức quan trọng và <br /> cần thiết, vì vậy chúng ta cần chú ý rèn cho học sinh tính cẩn thận, sự sáng tạo <br /> khi viết ngay từ đầu để tạo thành thói quen và kĩ năng cho các em. <br /> Để làm được điều đó, giáo viên phải là người có những kiến thức chuẩn <br /> về những mẫu chữ và những quy tắc cần thiết trong dạy học Tập viết để  đưa <br /> ra những biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh nhằm mang lại hiệu  <br /> quả cao:<br /> 2.2.1. Giáo viên phải nắm rõ kiến thức về những quy định viết chữ<br /> Trong quá trình hình thành chữ viết cho học sinh, giáo viên cần nắm chắc <br /> những quy định về  các nét chữ, các dấu thanh, cấu tạo các con chữ, cách viết <br /> các con chữ... Cụ thể, giáo viên thường gọi các nét cơ bản để mô tả hình dạng,  <br /> cấu tạo và quy trình viết một chữ cái theo các nét viết đã quy định ở bảng mẫu,  <br /> gồm có nét viết và nét cơ  bản. Nét viết là một đường viết liền mạch, không <br /> phải dừng lại để  chuyển hướng ngòi hay nhấc bút. Nét viết có thể  là một hay  <br /> nhiều nét cơ bản tạo thành, ví dụ như nét viết chữ cái o là nét cong kín, nét chữ <br /> e là hai nét cong phải, trái tạo thành. Còn nét cơ bản là nét bộ phận dùng để tạo  <br /> thành nét viết hay hình chữ cái. Nét cơ bản có thể đồng thời là nét viết hoặc nét  <br /> kết hợp hai, ba nét cơ  bản để  tạo thành một nét viết. Ví dụ  nét cong trái là nét <br /> viết chữ c, nét cong phải kết hợp với nét cong trái thì tạo thành chữ e. <br /> Các loại nét cơ bản đó là nét thẳng có 3 dạng: thẳng đứng, thẳng ngang, <br /> thẳng xiên; nét cong có 2 dạng: nét cong kín, nét cong hở (cong hở trái, cong hở <br /> phải); nét móc có 3 dạng: móc xuôi, móc ngược, móc hai đầu; nét khuyết có 2 <br /> dạng: khuyết trên, khuyết dưới  và nét hất.<br /> Giáo viên cần cung cấp cho học sinh những đặc điểm, cấu tạo, độ  cao,  <br /> độ  rộng và cách viết từng con chữ  như  con chữ   a có độ  cao 1 ô li, cấu tạo là <br /> một nét cong kín và một nét móc ngược, con chữ b có độ cao là 2 ô li rưỡi, gồm <br /> có nét khuyết  trên và nét móc ngược, hay con chữ  d có độ  cao là 2 ô li rưỡi,, <br /> gồm có 2 nét: nét cong kín và nét móc ngược phải; con chữ g có độ cao là 2 ô li <br /> rưỡi, gồm nét cong kín và nét khuyết dưới; con chữ  t có độ  cao là 1 ô li rưỡi, <br /> gồm nét hất, nét móc ngược phải, nét ngang,... Bên cạnh đó, giáo viên cần cung  <br /> cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về cách viết các con chữ hoa như con <br /> chữ H cao 5 ô li, gồm có 2 nét: nét 1 là sự kết hợp giữa nét cong trái và nét lượn  <br /> ngang, nét 2: là sự  kết hợp của 3 nét: khuyết   trên, khuyết  dưới  và nét móc <br /> ngược phải, nét 3: nét thẳng đứng.<br /> Ngoài ra giáo viên cần hướng dẫn cho các em biết được điểm đặt bút, <br /> dừng bút đúng cách để hoàn thành viết một con chữ và xác định cách rê bút, lia  <br /> bút. Rê bút là nhắc nhẹ đầu bút nhưng vẫn chạm vào mặt giấy theo đường nét  <br /> viết trước hoặc tạo ra vệt mờ  để  sau đó có nét viết khác đè lên. Từ  rê được <br /> hiểu theo nghĩa di chuyển chậm đều đều, liên tục trên bề  mặt, do đó giữa đầu <br /> bút và mặt giấy không có khoảng cách.<br /> Lia bút là chuyển dịch đầu bút từ  điểm dừng này qua điểm dừng khác,  <br /> không chạm vào mặt giấy. Từ lia xuất phát từ  nghĩa ném hoặc đưa ngang thật <br /> nhanh. Vì vậy khi lia bút ta phải nhắc đầu bút lên để đưa nhanh sang điểm khác,  <br /> tạo một khoảng cách nhất định giữa đầu bút và mặt giấy.<br /> Cần cung cấp cho học sinh  đầy  đủ  về  mẫu chữ  ­ mẫu chữ  cái viết <br /> thường cỡ chữ vừa: Các chữ cái được viết với độ cao 2,5 đơn vị (ô li): b, l, h, k, <br /> g, y.  Các chữ  cái được viết với độ  cao 2 đơn vị  (ô li): d, đ, q, p.  Các chữ  cái <br /> được viết với độ cao 1,5 đơn vị (ô li): t. Các chữ cái được viết với độ  cao 1,25  <br /> đơn vị (ô li): r, s. Các chữ cái còn lại được viết với độ cao 1 đơn vị (ô li): o, ô, <br /> ơ, a, ă, â, u, ư, i, c, e, ê, n, m. Các dấu thanh được viết trong phạm vi 1 ô vuông <br /> có cạnh 0,5 đơn vị (ô li).<br /> Với mẫu chữ cái viết hoa: Các chữ  cái được viết với độ  cao 5 đơn vị (ô <br /> li). Còn mẫu chữ số được viết với độ cao 2 đơn vị (ô li).<br /> Giáo viên cần lưu ý khi dạy viết  ứng dụng các chữ  ghi tiếng có chữ  cái  <br /> viết hoa đứng đầu (tên riêng, chữ viết hoa đầu câu...), cần hướng dẫn học sinh  <br /> cách viết tạo sự liên kết bằng nối nét hoặc để khoảng cách hợp lí giữa chữ cái  <br /> viết hoa và chữ cái viết thường. <br /> Cụ  thể: Có 17 chữ  cái viết hoa  A, Ă, Â, G, H, K, L, M, Q, R, U,  Ư, Y  <br /> (kiểu 1), A, M, N, Q (kiểu 2) có điểm dừng bút hướng tới chữ viết thường kế <br /> tiếp như Hà Nội, Quỳnh Trâm...<br /> Có 17 chữ cái viết hoa B, C, D, Đ, E, Ê, I, N, O, Ô, P, S, T, V, X (kiểu 1), <br /> V (kiểu 2) có điểm dừng bút không hướng tới chữ cái viết thường kế tiếp, do  <br /> đó khi viết cần căn cứ  vào từng trường hợp để  tạo sự  liên kết bằng cách viết  <br /> chạm đầu nét của chữ cái viết thường vào nét chữ cái viết hoa đứng trước hoặc <br /> để khoảng cách ngắn (bằng 1/2 khoảng cách giữa 2 chữ  cái viết thường) giữa  <br /> chữ hoa với chữ thường. Ví dụ như Đà Nẵng, Tây Nguyên, Phan Đình Phùng...<br /> Khi viết chữ cần chú ý cho học sinh nối chữ liền mạch, đảm bảo tốc độ <br /> viết nhanh. Viết liền mạch là viết tất cả các hình cơ bản của chữ cái trong một <br /> chữ ghi tiếng rồi mới đặt dấu phụ và dấu thanh.<br /> Việc đặt dấu thanh cũng hết sức quan trọng, và việc này đã được xử  lí  <br /> thống nhất trong sách giáo khoa của chương trình Tiểu học mới do Nhà Xuất <br /> bản  Giáo dục  ấn hành, cụ  thể: Dấu thanh ( huyền, hỏi, sắc, ngã, nặng) được <br /> đánh ở âm chính: khóa, thùy, ...), khi âm chính là một âm đôi, xuất hiện trong âm <br /> tiết mở  (không có âm tiết cuối) thì dấu thanh được đánh  ở  yếu tố  đầu của <br /> nguyên âm đôi đó:  bìa, bùa...  Khi âm chính là một âm đôi, xuất hiện trong âm <br /> tiết đóng (có âm cuối) thì dấu thanh được đánh  ở  yếu tố  cuối của nguyên âm <br /> đôi đó:  miếng, buồm, vượn,...  Cách đặt dấu thanh trong chữ  viết Tiếng Việt  <br /> cũng cần đảm bảo sự hài hòa, cân đối và mang tính thẩm mĩ, nên các dấu thanh <br /> thường được đặt vào vị trí khoảng giữa (trên, dưới) đối với chữ cái  a, ă, o, ơ, e, <br /> i (y), u, ư như cài, gỡ, hỏi, nặng; riêng đối với các chữ cái â, ê, ô thì dấu huyền, <br /> sắc được đặt ở phía bên phải của dấu mũ: gối, khế, cấy...<br /> 2.2.2. Các bước chuẩn bị,  tiến hành hướng dẫn học sinh luyện viết <br /> a. Chuẩn bị tốt cơ sở vật chất, đồ dùng học tập trước khi lên lớp<br />   Điều kiện cơ  sở  vật chất: Ánh sáng phòng học, bảng lớp, bàn ghế  học  <br /> sinh không thể thiếu đối với việc dạy học nói chung, đối với việc rèn chữ  nói <br /> riêng. Vì vậy, nó phải đảm bảo để học sinh học tập tốt hơn.<br /> Hoạt động chủ  đạo của học sinh trong giờ  học Tập viết là thực hành <br /> luyện tập nhằm mục  đích hình thành kĩ năng viết chữ  thành thạo, dưới sự <br /> hướng dẫn của giáo viên, học sinh được thực hành luyện viết trên 2 hình thức:  <br /> viết trên bảng và viết trong vở Tập viết. Để  thực hành luyện viết đạt kết quả <br /> tốt, học sinh cần có ý thức chuẩn bị  và sử  dụng có hiệu quả  một số  đồ  dùng <br /> học tập thiết yếu sau: <br /> Thứ  nhất: bảng con màu đen (hoặc xanh đậm), bề  mặt có độ  nhám vừa <br /> phải, dòng kẻ ô rõ ràng, đều đặn dễ tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh viết  <br /> phấn. Bảng con là công cụ thực hành tiện lợi và hiệu quả đối với học sinh, có  <br /> tác dụng tích cực trong quá trình dạy tập viết  ở tiểu học. Loại bảng viết bằng  <br /> phấn và loại bảng viết bằng bút dạ có những mặt ưu và một số  hạn chế nhất  <br /> định khi sử dụng, song tác dụng của chúng đối với rèn kĩ năng viết cho học sinh  <br /> là rất quan trọng.<br /> Thứ hai: Phấn trắng có chất lượng tốt sẽ làm nổi rõ hình chữ trên bảng.  <br /> Nếu viết bút dạ  thì bút phải cầm vừa tay, đầu bút nhỏ, ra mực đều mới viết  <br /> được rõ ràng. <br /> Thứ ba: Khăn lau sạch, có độ ẩm vừa phải, dễ cầm tay sẽ giúp cho việc <br /> xóa bảng hợp vệ sinh và không ảnh hưởng đến chữ viết.<br /> Thứ tư: Vở tập viết phải đúng mẫu theo quy định của Bộ Giáo dục. Học  <br /> sinh phải giữ  vở  sạch sẽ, bao bìa kính  ở  ngoài, có ghi tên, lớp rõ ràng. Khi sử <br /> dụng vở tập viết thì học sinh lưu ý không được làm dơ, bẩn, trình bày chữ viết  <br /> sạch sẽ, đẹp, khoa học, không bôi xóa lung tung. <br /> Thứ  năm:  Bút, với bút mực thì phải sử  dụng bút không nhạt quá, cũng <br /> không đậm quá. Với bút máy thì phải chọn bút máy chuẩn, ngòi mềm, đầu bút <br /> thanh, vừa tay cầm và chuẩn bị mỗi bạn một lọ mực, một cái khăn và một cái  <br /> bìa kê tập. Khi viết bút mực giáo viên cần lưu ý cho học sinh viết cẩn thận,  <br /> không để mực dây ra tập, quần áo, không được viết nhanh, viết ẩu, viết ngoáy.<br /> b. Hướng dẫn học sinh tư thế ngồi viết, cách cầm phấn, cầm bút<br /> Quá trình hình thành kĩ năng viết chữ trải qua hai giai đoạn:<br /> Giai đoạn nhận biết, hiểu về chữ viết thông qua hoạt động của các giác <br /> quan mắt, tai và hoạt động của vùng ngôn ngữ trong bộ não.<br /> Giai đoạn  điều khiển vận  động (cơ, xương bàn tay), thường có hiện  <br /> tượng "lan tỏa", dễ   ảnh hưởng tới một số  bộ  phận khác trong cơ  thể  (ví dụ: <br /> miệng méo, vai gù, lệch...). Nhận thức rõ tầm quan tr ọng của giai đoạn này <br /> trong quá trình tập viết, chương trình Tiểu học Pháp từ  năm 1991 đã xác định: <br /> “Tập viết là môn học của bàn tay và cơ  thể, đòi hỏi sự  chính xác của nét bút,  <br /> sự khéo léo trong trình bày, sự nhảy cảm về thẩm mĩ khi viết.”<br /> Bởi vậy trong quá trình viết chữ học sinh cần lưu ý đến tư thế ngồi viết  <br /> cũng như cách cầm bút và phấn.<br /> Tư  thế  ngồi viết: học sinh cần ngồi thẳng lưng, không tì ngực vào bàn, <br /> đầu hơi cúi, mắt cách vở khoảng 25 ­30 cm, nên cầm bút (phấn) bằng tay phải,  <br /> tay trái tì nhẹ lên mép vở (bảng) để trang viết (bảng) không bị xê dịch, hai chân  <br /> để song song, thoải mái.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Tư thế ngồi viết<br /> <br /> <br /> Cách cầm phấn: Cầm bằng 3 ngón tay, đầu ngón cái cách đều viên phấn  <br /> khoảng 1 cm, cầm phấn chắc vừa phải, khi đưa phấn lên cần nhẹ  tay để  tạo  <br /> nét thanh, khi đưa xuống cần miết đầu phấn mạnh hơn chút để  tạo nét đậm. <br /> Nhưng phải từ từ, tránh đột ngột.<br /> Cách cầm bút: Cầm bằng ba ngón tay (ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa) với <br /> độ chắc vừa phải, không chặt quá, không lỏng quá. Khi viết dùng ba ngón tay di  <br /> chuyển bút nhẹ  nhàng từ  trái qua phải (không nhấn mạnh đầu bút xuống mặt <br /> giấy), cán bút nghiêng về  bên phải, cổ  tay, khuỷu tay, cánh tay cử  động mềm  <br /> mại, thoải mái. Khi viết cần tạo nét thanh bằng cách đưa bút lên nhẹ, còn khi  <br /> đưa xuống cần miết ngòi bút xuống để  tạo nét đậm.  Ngoài ra khi viết chữ <br /> đứng, học sinh cần để  vở  ngay ngắn trước mặt, nếu viết chữ nghiêng cần để <br /> vở  hơi nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc  <br /> khoảng 15 độ. Khi viết chữ về bên phải, quá xa lề vở cần xê dịch vở sang bên <br /> sáng để mắt nhìn thẳng nét chữ, tránh nhoài người về bên phải để viết tiếp. <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Cách cầm bút<br /> <br /> <br /> <br /> c. Hướng dẫn học sinh viết đúng, viết đẹp<br />   * Củng cố cho học sinh những kiến thức căn bản của cách viết: <br /> Vào đầu năm học giáo viên đã củng cố  kiến thức cơ  bản về  độ  cao, độ <br /> rộng, khoảng cách các con chữ  và chữ, các quy tắc đặt dấu thanh, cách cầm <br /> phấn, cầm bút, tư  thế  ngồi viết để  học sinh nắm chắc nhằm tạo cho các em <br /> những thói quen tốt trong việc rèn viết chữ.<br /> Giáo viên giúp học sinh xác định lại vị trí đường kẻ trong vở học sinh, tọa <br /> độ của các nét chữ, chữ trong khung chữ mẫu<br /> Về  cơ  bản, hình dạng 29 chữ  cái viết thường cỡ  chữ  vừa có thể  chia  <br /> thành ba nhóm, có cấu tạo các nét cơ  bản gần gũi với nhau. Luyện viết theo  <br /> từng nhóm chữ  giúp cho kĩ năng viết các nét cơ  bản thành thạo, tạo thói quen  <br /> viết đều nét và đẹp chữ. Dựa vào mẫu chữ  viết trong trường Tiểu học, tùy  <br /> điều kiện giáo viên có thể cho học sinh luyện viết theo hai cách: <br /> Ở giai đoạn của việc luyện viết, giáo viên nên chọn loại vở  kẻ ô vuông  <br /> nhỏ (dòng kẻ 4 ô ly), để dễ xác định chiều cao và bề rộng cho đúng tỉ lệ. Biện  <br /> pháp thực hiện chủ yếu là từ dễ đến khó theo từng nhóm chữ:<br /> Nhóm 1: i, u, ư, t, n, , m, v, r: các chữ cái ở nhóm này có chiều cao 1 đơn <br /> vị (ô li), riêng chữ cái r có cao 1, 25 đơn vị (ô li), chữ t cao 1, 5 đơn vị (ô li). Bề <br /> rộng cơ bản của chữ là 3/4 đơn vị (ô li), riêng chữ cái m rộng 1, 5 đơn vị (ô li). <br /> Chữ  cái  ở  nhóm này thường được cấu tạo bởi các nét móc  (móc xuôi, móc <br /> ngược, móc hai đầu). Khi luyện viết chữ hai nét móc xuôi và móc hai đầu cần <br /> chú trọng vì chúng khó viết hơn nét móc ngược, 4 chữ cái  n, m, v, r cần được <br /> luyện tập nhiều lần để nét viết mềm mại, đẹp mắt.<br /> Nhóm 2:  l, b, h, k, y, p: các chữ  cái này có chiều cao 2, 5 đơn vị  (ô li),  <br /> riêng chữ cái p cao 2 đơn vị (ô li), bề rộng cơ bản của chữ là 3/4 đơn vị  (ô li).  <br /> Về  cấu tạo chữ  cái  ở  nhóm này có nét khuyết  (khuyết  trên, khuyết dưới), có <br /> những điểm gần gũi với chữ cái ở nhóm 1 (nửa dưới của chữ  b giống với chữ <br /> v, nửa dưới của chữ  h giống với chữ  n, nửa trên của chữ  y giống với chữ  u). <br /> Khi luyện viết chữ hai nét khuyết trên và khuyết dưới đều cần được chú trọng, <br /> tập trung luyện viết cho đẹp bốn chữ cái l, b, h, n (tạo vòng xoắn ở chữ b và k <br /> vừa phải, hợp lí trong hình chữ). <br /> Nhóm 3: o, ô, ơ, a, ă, â, d, d, q, g, c, x, e, ê, s : các chữ cái ở nhóm 3 có 3 <br /> loại độ cao khác nhau, song chúng đều có độ cao 1 đơn vị (ô li) (10/15 chữ), các <br /> chữ  d, đ, q cao 2 đơn vị (ô li), chữ  g cao 2, 5 đơn vị (ô li), riêng chữ  s cao 1, 25 <br /> đơn vị (ô li). Bề rộng cơ bản của hầu hết các chữ cái là 3/4 đơn vị (riêng chữ   s <br /> rộng 1 đơn vị, chữ x rộng 1, 5 đơn vị). Nhóm chữ này thường được cấu tạo bởi  <br /> các nét cong (cong kín, cong hở), trong đó nét cong kín (chữ  o) có mặt  ở  mười <br /> chữ cái, tạo sự liên hệ gần gũi về hình dạng giữa các chữ. Vì vậy muốn luyện  <br /> viết đẹp các chữ cái ở nhóm 3 cần tập trung luyện viết thật đẹp chữ  o, từ chữ <br /> o, dễ dàng chuyển sang viết các chữ ô, ơ, a, ă, â, d, d, q, g, dễ tạo được các nét <br /> cong kín để viết được các chữ còn lại. <br /> Với chữ hoa gồm có 29 chữ tuy hình dạng khác nhau nhưng nhìn chung có  <br /> thể chia làm 5 nhóm có cấu tạo các nét cơ bản. Hầu hết các chữ viết hoa cao 2,  <br /> 5 đơn vị (ô li), còn chữ G, Y có chiều cao 4 đơn vị (ô li). Do vậy khi luyện viết <br /> các chữ hoa cần tập tung vào việc tạo các đường cong hoặc lượn khi phối hợp <br /> các nét cơ bản cho mềm mại, đẹp mắt và việc thực hiện đó được tiến hành từ <br /> dễ đến khó theo các nhóm chữ:<br /> Nhóm 1: U,  Ư, Y, X, (N, M, V kiểu 2) : khi viết các chữ hoa  ở nhóm này <br /> học sinh cần tập trung luyện kĩ nét móc hai đầu, điều khiển nét bút ở phần cong <br /> sao cho chuẩn, mềm mại, đúng hình dạng.<br /> Nhóm 2: A, Ă, Â, N, M: chủ yếu là rèn luyện nét móc ngược, đưa bút từ <br /> trên dưới lên, độ nghiêng hoặc lượn ở đầu nét móc và phần cong cuối nét móc  <br /> sao cho vừa phải, đúng mẫu.<br /> Nhóm 3: C, G, E, Ê, T: các chữ  cái viết hoa  ở  nhóm này chủ  yếu được <br /> tạo bởi nét cong và sự phối hợp biến điệu của những nét cong. Bởi thế khi viết  <br /> cần luyện cách điều khiển đầu bút để tạo những nét cong đúng mẫu. Trong các <br /> chữ ở nhóm này thì chữ  C và chữ  E tương đối khó viết nên học sinh cần chú ý <br /> quan sát kĩ khi giáo viên viết mẫu và phải luyện viết nhiều để  tạo dáng chữ <br /> mềm mại.<br /> Nhóm 4: P, R, B,D, I, K, H, S, L,V: các chữ này đều có nét cơ bản được <br /> biến điệu hoặc có sự kết hợp hài hòa các nét cơ bản trong một nét viết.<br /> Nhóm 5: O, Ô,  Ơ, Q, ( A, Q kiểu 2): các chữ  hoa  ở  nhóm này được viết <br /> bởi 1 hoặc 2 nét nhưng có nét đòi hỏi viết liền mạch và điều khiển đầu bút theo  <br /> nhiều hướng. <br /> Ngoài ra giáo viên cần cho học sinh hiểu rõ các khái niệm cơ  bản về <br /> dòng, khoảng cách... Dòng (thể hiện chữ viết) được hiểu theo nghĩa là khoảng  <br /> để  viết hoặc xếp chữ  kế  tiếp nhau thành hàng, ví dụ: giấy có kẻ  dòng, chấm  <br /> xuống dòng. Vở  tập viết của học sinh được trình bày theo các ô vuông, có các <br /> dòng kẻ  ngang. Mỗi dòng viết gồm 5 dòng kẻ  ngang, chia thành 4 li (mỗi li  <br /> khoảng cách giữa hai dòng kẻ ­ 0, 25cm). Mẫu chữ viết trong trường Tiểu học  <br /> có độ  cao tính theo đơn vị  (bằng chiều cao chữ cái ghi nguyên âm), tương  ứng  <br /> với li trong vở Tập viết như sau: viết theo cỡ chữ nhỏ thì chiều cao chữ cái ghi <br /> nguyên âm là 1li, chữ  viết theo cỡ  vừa chiều cao chữ cái là 2 li. Từ  đó có thể <br /> hiểu mẫu chữ  cái trong bảng mẫu chữ  do Bộ  Giáo dục và Đào tạo ban hành <br /> được trình bày theo cỡ vừa (chiều cao chữ cái ghi nguyên âm là 2 li ­ 1 đơn vị, <br /> chữ  cái viết thường có chiều cao lớn nhất là 5 li, hầu hết chữ  cái viết hoa có <br /> chiều cao 5 li. <br /> * Hướng dẫn học sinh luyện viết: <br /> Đây là khâu rất quan trọng vì nếu chúng ta hướng dẫn kỹ  sẽ  giúp học  <br /> sinh thực hành nhanh và chính xác hơn. Tôi tiến hành luyện viết cho học sinh <br /> theo các bước như sau:<br /> Bước 1: Viết mẫu: <br /> Để  tạo  được hiệu quả  dạy học, giúp học sinh hình dung ra các chữ <br /> thường cũng như chữ hoa một cách sinh động, rõ ràng thì giáo viên cần chuẩn bị <br /> những mẫu chữ viết sẵn có các dòng kẻ sau đó giáo viên sẽ hướng dẫn lại cách <br /> viết để giúp học sinh khắc sâu hơn. Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát chữ <br /> mẫu: nhận biết về hình dạng, cấu tạo nét, so sánh với chữ cái đã học trước đó.  <br /> Giáo viên hướng dẫn học sinh về  quy trình viết chữ: điểm đặt bút, rê bút, lia  <br /> bút, chuyển dịch đầu bút, điểm dừng bút... Hình thức: chỉ  dẫn trên mẫu chữ,  <br /> viết mẫu trên khung chữ, viết mẫu trên dòng kẻ  (giống vở  Tập viết). Hướng <br /> dẫn học sinh viết trên bảng con: giáo viên theo dõi, kiểm tra, uốn nắn, hướng  <br /> dẫn học sinh rút kinh nghiệm.<br /> Ví dụ: Để  dạy viết chữ  hoa L, câu  ứng dụng Lá lành đùm lá rách. Tôi <br /> chuẩn bị  sẵn 1 bảng mẫu chữ  đã viết sẵn chữ  hoa  L, câu  ứng dụng Lá lành <br /> đùm lá rách có các dòng kẻ sẵn trên nền vàng cho học sinh quan sát trước, sau <br /> đó giáo viên chuẩn bị  thêm một bảng phụ  để  viết mẫu chữ  hoa   L, câu  ứng <br /> dụng Lá lành đùm lá rách lên cho học sinh quan sát các điểm đặt bút, rê bút, <br /> dừng bút và độ  cao các con chữ. Điều này giúp học sinh hình thành kiến thức <br /> trong đầu trước khi các em viết lên bảng con của mình, nhằm tạo hiệu quả cao <br /> trong việc rèn chữ viết.<br /> Việc viết mẫu của giáo viên là một thao tác trực quan trên bảng lớp giúp <br /> học sinh nắm bắt được quy trình viết từng nét của từng chữ  cái. Do vậy, giáo <br /> viên phải viết chậm, đúng theo quy tắc viết chữ vừa giảng giải, vừa phân tích <br /> cho học sinh. <br /> Khi viết mẫu, giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh nhìn thấy tay của <br /> giáo viên viết từng nét chữ. Khi viết, giáo viên vừa kết hợp giảng giải, phân <br /> tích: đưa bút như  thế  nào, thứ  tự  các nét viết ra sao, giáo viên cũng cần chú ý <br /> phân tích cả cách viết dấu phụ và dấu thanh.<br /> Bước 2: Luyện viết bảng con: <br /> Sau khi hướng dẫn viết mẫu trên bảng lớp, giáo viên yêu cầu học sinh <br /> viết bảng con. Quan sát học sinh viết bảng con để sửa cho các em ngay tại lúc  <br /> đó, chỉ  ra chỗ  sai cho các em rút kinh nghiệm. Giới thiệu những em viết đúng, <br /> viết đẹp trước lớp để các em khác rút kinh nghiệm. Đối với những em viết sai,  <br /> giáo viên nhắc nhở  ngay và hướng dẫn các em điều chỉnh lại cho đúng. Khâu <br /> này rất quan trọng vì nếu các em làm đúng ở bảng con thì khi viết vào vở sẽ ít <br /> bị sai. <br /> Bước 3: Hướng dẫn học sinh viết vở: <br /> Đây là bước quan trọng trong một tiết luyện viết, bởi có thể  đánh giá <br /> chất lượng chữ viết của các em sau khi xem bài viết của học sinh: xấu hay đẹp,  <br /> đúng hay sai, hoàn thành tốt, hoàn thành hay chưa hoàn thành. Sau khi cho học <br /> sinh thực hành viết bảng con và giáo viên đã sửa lỗi thì giáo viên cho học sinh  <br /> viết bài vào vở. <br /> Trước khi viết bài giáo viên cho học sinh nhắc lại tư thế ngồi viết, cách  <br /> cầm bút để học sinh ngồi đúng và đẹp trong quá trình viết. Trong khi học sinh  <br /> viết bài, giáo viên phải theo dõi, quan sát, nhắc nhở học sinh viết đúng và viết <br /> đẹp.<br /> Khi dạy từ  ngữ   ứng dụng, ngoài việc hướng dẫn học sinh viết chữ  ghi  <br /> tiếng, giáo viên còn phải quan tâm, nhắc nhở  các em viết đúng khoảng cách <br /> giữa các chữ  đều đặn, hợp lí. Khoảng cách giữa các chữ  thường được  ước <br /> lượng bằng một chữ  cái o viết thường. Giữa các từ   ứng dụng, học sinh viết  <br /> theo điểm đặt bút, dừng bút. <br /> Khi dạy viết câu ứng dụng, giáo viên cần lưu ý về  cách viết và đặt dấu  <br /> câu: dấu chấm, dấu phẩy, dấu hỏi...<br /> Bước 4:  Nhận xét chữa bài:<br /> Việc nhận xét bài của học sinh cũng rất quan trọng, thường căn cứ  vào <br /> mục đích, yêu cầu đặt ra cho từng bài học theo chương trình quy định. Qua việc <br /> nhận xét bài, giáo viên cần giúp cho học sinh tự  nhận thức được  ưu điểm để <br /> phát huy, thấy rõ những thiếu sót để  khắc phục, kịp thời phát hiện, động viên <br /> những cố gắng, nổ lực của học sinh khi viết chữ. Giáo viên cần viết lại những <br /> chữ  học sinh viết sai để  học sinh thấy được cái sai và sửa lại cho đúng và ghi <br /> lời nhận xét ngắn gọn.<br /> Sau mỗi tiết học Tập viết, Chính tả, luyện viết, khi nhận xét bài cho học <br /> sinh, giáo viên cần nhận xét thật tỉ  mỉ  các nét chữ  trong con chữ  mà học sinh <br /> vừa viết và phân tích rõ nguyên nhân học sinh viết chưa đúng, chưa đẹp để lần  <br /> sau học sinh rút kinh nghiệm cho những lần viết sau.<br /> Qua việc nhận xét bài thường xuyên trên lớp, tôi phát hiện một số  học  <br /> sinh viết chữ còn chưa đẹp các nét khuyết của các con chữ  (l, b, g, h, k), nét móc <br /> xuôi của các con chữ  (n, m, p). Tôi tập trung các em thành nhóm theo đối tượng <br /> và hướng dẫn cách viết.  <br /> Tôi thường chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ. Việc <br /> hướng dẫn học sinh luyện tập, thực hành phải tiến hành từ thấp đến cao, từ dễ <br /> đến khó, từ  đơn giản đến phức tạp để  học sinh dễ  tiếp thu. Lúc đầu là việc <br /> viết đúng hình dáng, cấu tạo, kích thước và cỡ chữ, sau đó là viết đúng dòng và <br /> đúng tốc độ  quy định. Việc rèn luyện kĩ năng viết chữ  phải được tiến hành <br /> đồng bộ ở lớp . <br /> Sau một thời gian rèn luyện, tôi thấy số  lượng học sinh viết chữ  chưa  <br /> đẹp ngày càng giảm đi nhiều.  <br /> Song song với việc rèn chữ, giữ vở sạch là vấn đề không kém phần quan  <br /> trọng đối với mỗi học sinh. Vì vậy, tôi luôn giáo dục học sinh ý thức giữ  vở <br /> sạch sẽ: vở sạch là vở  không quăn góc, không xộc xệch, bao bọc cẩn thận, có <br /> nhãn vở, có bao bìa. Bên trong vở, các em trình bày bài rõ ràng, không giây bẩn..<br /> Đối với những em chưa có ý thức giữ  vở, tôi liên hệ  kịp thời với phụ <br /> huynh để  nhắc nhở   việc giữ  vở  sạch và sắp xếp vở  ngăn nắp, gọn gàng. Có <br /> như vậy, khi soạn vở, các em đỡ tốn thời gian và giữ vở được tốt hơn.<br /> Trước đây chúng ta thường nghe nói: “Chữ tốt là do hoa tay, hoa văn hay  <br /> là do trí óc”. Trong thực tế, xưa và nay cho thấy điều đó không hoàn toàn đúng,  <br /> mà quan trọng cả là ở sự “rèn luyện”. <br /> Rèn chữ đẹp, giữ vở sạch cho học sinh là một công việc đòi hỏi tôi kiên <br /> trì nhẫn nại và không nôn nóng. Tôi không những rèn cho các em viết đúng mà <br /> tiến hành đến viết đẹp.<br /> Bước 5: Hướng dẫn học sinh luyện viết ở trường, ở nhà: <br /> + Luyện viết ở trường: <br /> Hiện nay, các trường đều thực hiện dạy hai buổi/ngày nên các em có thời <br /> gian luyện viết vào buổi chiều.  Ở  những tiết luyện viết trước hết tôi hướng  <br /> dẫn cho các em sử  dụng bảng cài để  ôn lại các từ  khó, dễ  lẫn, các từ  các em <br /> hay viết sai.<br /> Sau đó yêu cầu học sinh viết bảng con nhiều lần những từ  cần viết và  <br /> cuối cùng viết vào vở  (Trình tự  như  nêu ở  trên nhưng các bước thực hiện nhẹ <br /> nhàng hơn vì các em đã nắm kỹ cách viết ). <br /> + Luyện viết ở nhà<br /> Ở  trường, thời gian không đủ  để  các em luyện tập, do đó sau mỗi bài  <br /> viết trên lớp tôi thường yêu cầu các em về nhà tự luyện vào vở. Để tránh nhàm <br /> chán cho các em tôi thường cho thêm những bài thơ, bài văn yêu cầu các em viết  <br /> ở nhà.<br /> Ví dụ: Để giúp các em phân biệt và luyện viết chữ  ng – ngh tôi yêu cầu <br /> các em viết: <br /> Dù ai nói ngả nói nghiêng<br /> Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.<br /> Sau mỗi bài luyện viết của học sinh, giáo viên thu tập vở của học sinh và  <br /> nhận xét bằng bút đỏ, ghi các lỗi học sinh mắc phải để  học sinh thấy được <br /> những điểm sai và làm tốt hơn cho những bài viết sau. <br /> 2.2.3 Một số biện pháp hỗ trợ giúp học sinh viết tốt hơn<br /> a. Giáo viên phải là tấm gương cho học sinh học tập về viết chữ đẹp<br /> Để  nâng cao chất lượng viết chữ  đẹp  ở  học sinh lớp 2 thì người giáo  <br /> viên phải là người viết chuẩn, đẹp và thường xuyên rèn luyện chữ  viết. Bởi <br /> trong mắt học sinh thì cô giáo là “thần tượng” là người các em rất xem trọng và <br /> được các em lấy làm mẫu mực nhất. Bởi vậy giáo viên phải là người nắm  <br /> vững kiến thức về  cấu tạo, đặc điểm chữ  viết và các kiểu mẫu chữ  và chữ <br /> viết của giáo viên phải đúng, chuẩn và đẹp. Các em sẽ  nhìn, quan sát và bắt  <br /> chước những nét chữ từ đơn giản đến phức tạp của cô giáo. Nếu giáo viên viết <br /> chữ  đẹp và có ý thức rèn chữ  viết thì chất lượng chữ  viết của lớp đó sẽ  cao.  <br /> Qua quan sát tôi thấy rằng nét chữ  của các lớp khác nhau nhưng trong một lớp <br /> thì lại tương đối giống nhau và rất giống chữ của giáo viên, bởi học sinh lớp 2  <br /> rất dễ  bắt chước. Do đó giáo viên cần phải thường xuyên rèn luyện chữ  viết <br /> để nâng cao chất lượng chữ viết của mình. Điều mà giáo viên phải làm và làm <br /> thường xuyên đó là thể hiện nét chữ  của mình trên bảng lớp mỗi ngày sao cho  <br /> khoa học, đẹp, đúng mẫu để  học sinh học hỏi. Giáo viên cần viết đúng chính <br /> tả, đúng mẫu, rõ ràng và ngay ngắn, cách trình bày lề bảng, dòng chữ ghi ngày  <br /> tháng năm, tên môn, tên bài học cần được viết rất mẫu mực không  qua loa và  <br /> tuyệt đối là không được sai chính tả. Vậy nên đòi hỏi giáo viên phải viết hằng <br /> ngày, phải luyện tập thường xuyên để  viết đúng mẫu chữ  quy định và các bài <br /> viết luyện chữ đẹp và sáng tạo.<br /> b. Kết hợp với các môn học khác<br /> Để giúp học sinh hình thành thói quen luyện viết. Trong các tiết học khác <br /> tôi cũng yêu cầu học sinh luyện viết:<br /> Với phân môn chính tả, sau khi học sinh đọc các từ, các tiếng khó, hay <br /> sai, giáo viên cho học sinh rèn luyện viết chữ trên bảng con. <br /> Ví dụ  bài “Trên chiếc bè” thì sau khi đọc bài, giáo viên hướng dẫn cho <br /> học sinh viết vào bảng con các từ  khó Dế  Trũi, ngao du, say ngắm, trong vắt,  <br /> dưới đáy… trước khi các em viết vào vở  để  cho các em hình thành kiến thức  <br /> trong đầu và viết cho quen tay, rèn cho các em tính cẩn thận, tỉ mỉ và rèn kĩ năng  <br /> viết của mình.<br /> Với môn Toán thì sau khi giới thiệu bài, dạy cho học sinh những kiến <br /> thức cơ  bản, giáo viên hướng dẫn cho học sinh viết lời giải, các chữ  số, các <br /> dấu >, 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
18=>0