SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc <br />
trường Tiểu học Dray Sáp<br />
<br />
I. Phần mở đầu<br />
1. Lý do chọn đề tài<br />
Trong bức thư cuối cùng của Bác Hồ gửi ngành Giáo dục và Đào tạo, <br />
ngày 15101968, một lần nữa, Bác nêu rõ: "Giáo dục nhằm đào tạo những <br />
người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Ðảng và nhân dân ta, do đó các <br />
ngành, các cấp đảng và chính quyền địa phương phải thật sự quan tâm hơn nữa <br />
đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo <br />
dục của ta lên những bước phát triển mới". Trong Di chúc, Bác nhấn mạnh <br />
trách nhiệm của Ðảng đối với việc chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ: " Ðảng cần <br />
phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những <br />
người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa "hồng" vừa "chuyên". Bồi dưỡng <br />
thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.<br />
Nhiệm vụ của ngành Giáo dục và Đào tạo trong thời kì CNH HĐH và <br />
hội nhập quốc tế vô cùng quan trọng đó là: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực <br />
và bồi dưỡng nhân tài”. Vì vậy học sinh được xác định là đối tượng đặc biệt <br />
quan trọng trong hoạt động dạy học của nhà trường. Vấn đề duy trì sĩ số học <br />
sinh trong nhà trường, đặc biệt là học sinh dân tộc là vấn đề quan trọng được <br />
đặt ra không chỉ đối với nhà trường, với ngành giáo dục mà là vấn đề cần được <br />
sự quan tâm của toàn xã hội. <br />
Từ khi được bổ nhiệm làm công tác quản lí tại Trường tiểu học Dray <br />
Sáp, cùng với tập thể sư phạm nhà trường, tôi luôn trăn trở, suy nghĩ: Phải làm <br />
thế nào để duy trì sĩ số học sinh? Có duy trì được sĩ số học sinh dân tộc thì mới <br />
nâng cao được hiệu quả giáo dục. Những học sinh thất học là mối nguy hiểm <br />
lớn cho xã hội, các em dễ dàng dính vào các tệ nạn xã hội, dễ dàng bị kẻ xấu lôi <br />
kéo, dụ dỗ…Các em sau này lớn lên nếu không học hành đầy đủ liệu có tìm <br />
được một công việc ổn định, ít nhất cũng tự nuôi sống bản thân mà không phải <br />
phụ thuộc vào người khác.<br />
Người dạy “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và <br />
học tốt”. Trường Tiểu học Dray Sáp mà tôi đang công tác là nơi mà học sinh chủ <br />
yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, chiếm gần 60% số học sinh của toàn trường , <br />
các em còn nhút nhát, rụt rè, ngại giao tiếp. Bên cạnh đó vốn tiếng Việt của các <br />
em hạn chế, Các em chỉ nói tiếng Việt khi ở trường còn khi về với gia đình, các <br />
em giao tiếp với bố mẹ, cộng đồng bằng tiếng mẹ đẻ. Đó chính là nguyên nhân <br />
dẫn đến việc hình thành và phát triển kĩ năng sử dụng tiếng Việt của các em <br />
gặp nhiều khó khăn, không nói thành thạo tiếng Việt là một trong những nguyên <br />
nhân làm cho các em ngại đến trường, đến lớp.<br />
Đa số cha mẹ các em chủ yếu làm nông nên họ ít quan tâm đến việc học <br />
hành, việc giáo dục con cái ở nhà. Thậm chí nhiều phụ huynh khoán trắng việc <br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 1<br />
SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc <br />
trường Tiểu học Dray Sáp<br />
giáo dục cho nhà trường, không quan tâm, gần gũi con cái nên không phát hiện <br />
những biểu hiện tiêu cực trong các em, nhất là các em ham chơi, mê games <br />
thường xuyên trốn học. Bên cạnh đó một số em có hoàn cảnh đặc biệt như: chỉ <br />
có mẹ, không có bố hoặc có bố mà không có mẹ nên thiếu sự quản lý, giáo dục; <br />
một số em lớn tuổi, ngại đến lớp sợ các bạn trêu chọc, chỉ muốn ở nhà chăn bò, <br />
làm thuê kiếm tiền.<br />
Bên cạnh đó, một số bộ phận giáo viên còn thiếu trách nhiệm, sợ khó, sợ <br />
khổ. Giáo viên đến lớp chỉ biết dạy cho xong rồi về không quan tâm đến lí do <br />
vì sao hôm nay học sinh lại nghỉ học, không gần gũi tìm hiểu tâm tư, nguyện <br />
vọng xem các em muốn gì? Cần gì? Các em nghĩ lâu ngày không đến vận động, <br />
cứ như vậy dần dần học sinh sẽ nghỉ học lâu ngày và không muốn đến lớp nữa.<br />
Để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục, một trong những nhiệm vụ quan <br />
trọng ngành đặt ra cho mỗi địa phương, mỗi đơn vị trường học chính là công tác <br />
đảm bảo duy trì sĩ số. Sự phối kết hợp tốt giữa nhà trường, gia đình và xã hội là <br />
tiền đề đảm bảo cho việc duy trì sĩ số học sinh nói chung và học sinh dân tộc <br />
nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng dạy học của nhà trường.<br />
Trong thực tiễn, việc vận dụng nhiều biện pháp nhằm duy trì sĩ số đối <br />
với học sinh dân tộc đã được các cấp triển khai nhưng chưa có tính khả thi, <br />
chưa mang lại hiệu quả thiết thực. Ở một số trường trong địa bàn huyện, học <br />
sinh vẫn nghỉ học nhiều, tỷ lệ chuyên cần chưa cao.<br />
Xuất phát từ thực tế trên, là người quản lý các hoạt động chuyên môn <br />
trong nhà trường. Tôi nhận thấy nhà trường vẫn luôn giữ vai trò chủ đạo trong <br />
việc giúp các em yên tâm học tập, không trốn học, bỏ học cũng như vận động <br />
thuyết phục học sinh bỏ học trở lại trường và xem việc đến trường để học các <br />
môn học là mục tiêu của chính các em. Với ý tưởng đã được trải nghiệm và <br />
thực tiễn kiểm chứng của bản thân, nên tôi chọn đề tài “Một số biện pháp quản <br />
lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc trường tiểu học Dray Sáp”. Từ đó <br />
đề xuất một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc đã <br />
được áp dụng đạt hiệu quả tại đơn vị.<br />
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài<br />
a. Mục tiêu của đề tài<br />
Xác định thực trạng về việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc ở trường Tiểu <br />
học Dray Sáp.<br />
Đưa ra một số biện pháp quản lý chỉ đạo nhằm duy trì sĩ số học sinh dân <br />
tộc của nhà trường.<br />
b. Nhiệm vụ của đề tài<br />
Nghiên cứu thực trạng về việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc tại trường.<br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 2<br />
SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc <br />
trường Tiểu học Dray Sáp<br />
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về biện pháp quản lý chỉ đạo đối <br />
với việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc.<br />
Đề xuất tổ chức thực nghiệm một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc <br />
duy trì sĩ số học sinh dân tộc (phân hiệu buôn Kuôp) trường Tiểu học Dray Sáp, <br />
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.<br />
3. Đối tượng nghiên cứu <br />
Nghiên cứu trong khuôn khổ một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy <br />
trì sĩ số học sinh dân tộc (phân hiệu buôn Kuôp) trường Tiểu học Dray Sáp.<br />
4. Giới hạn của đề tài<br />
Giáo viên, học sinh trường Tiểu học Dray Sáp xã Dray Sáp huyện <br />
Krông Ana tỉnh Đắk Lắk.<br />
Thời gian nghiên cứu: Năm học 2016 2017.<br />
5. Phương pháp nghiên cứu<br />
Phương pháp nghiên cứu lý luận. <br />
Phương pháp trải nghiệm thực tiễn, điều tra, quan sát, phỏng vấn, đàm <br />
thoại, giao tiếp. <br />
Phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp.<br />
II. Phần nội dung <br />
1. Cơ sở lý luận<br />
Làm thế nào để duy trì sĩ số học sinh dân tộc trong nhà trường? Làm thế <br />
nào để thầy cô hằng ngày không phải đến trường rồi lại chạy xe đi tìm học <br />
sinh? Làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục?...Đó là những trăn trở của <br />
tất cả những giáo viên giảng dạy ở vùng có phần đông là học sinh dân tộc nói <br />
chung và trường Tiểu học Dray Sáp nói riêng. Người thầy dạy để học sinh nắm <br />
được kiến thức đã khó, bởi vì vốn tiếng Việt của các em còn rất hạn chế nhưng <br />
việc duy trì sĩ số còn khó khăn hơn gấp nhiều lần.<br />
Theo cô Nguyễn Thị Thắm là một trong những giáo viên có thâm niên <br />
giảng dạy lâu năm nhất tại phân hiệu buôn Kuôp đã khẳng định: “Muốn có học <br />
sinh phải biết học sinh”. Điều đó có nghĩa là, giáo viên phải biết hoàn cảnh, <br />
điều kiện sinh hoạt, học tập của học sinh nếu muốn duy trì sĩ số và đảm bảo tỷ <br />
lệ chuyên cần.<br />
Trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của các cấp nhà trường đã chỉ đạo các bộ <br />
phận xây dựng kế hoạch cụ thể cho mỗi lĩnh vực sát với tình hình thực tế của <br />
đơn vị, triển khai, tổ chức thực hiện nghiêm túc. Nhà trường khi xây dựng kế <br />
hoạch đầu năm học, mục tiêu duy trì sĩ số được nhà trường quan tâm hàng đầu <br />
<br />
Người thực hiện: Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 3<br />
SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc <br />
trường Tiểu học Dray Sáp<br />
vì học sinh có tham gia học tập chuyên cần thì mới nâng được chất lượng dạy <br />
và học.<br />
Trong những năm qua nhà trường nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà <br />
nước, Chính phủ như: Hỗ trợ chế độ chính sách cho học sinh vùng đồng bào dân <br />
tộc; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy và học, tổ <br />
chức tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên…cùng <br />
với đó là sự đổi mới mạnh mẽ trong công tác quản lí chỉ đạo: Tổ chức dạy học <br />
theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và định hướng phát triển năng lực học sinh; điều <br />
chỉnh nội dung dạy học phù hợp đặc điểm tâm sinh lí học sinh tiểu học; tăng <br />
cường giáo dục đạo đức, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh... Đa số giáo viên <br />
tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm; <br />
phù hợp với môn, lớp mình phụ trách tạo ra giờ học sôi nổi, thu hút các em đến <br />
trường.<br />
Bên cạnh những kết quả đạt được, nhà trường vẫn còn nhiều băn khoăn, <br />
trăn trở như: Ở một số lớp còn có một số học sinh đi học chưa chuyên cần, chất <br />
lượng giáo dục thấp, tỷ lệ học sinh chưa hoàn thành các môn học còn cao. <br />
Hằng năm UBND huyện Krông Ana cùng với Phòng giáo dục và Đào tạo <br />
huyện tổ chức mở hội nghị bàn về vấn đề duy trì sĩ số học sinh, nhìn nhận <br />
thẳng thắn trước những nguyên nhân khiến học sinh nghỉ học để từ đó đưa ra <br />
những giải pháp thiết thực với sự vào cuộc của tất cả các ban ngành, đoàn thể, <br />
chính quyền địa phương. Đây là một việc làm hết sức có ý nghĩa trước khi năm <br />
học mới gần kề.<br />
Trong các buổi hội nghị, đã có rất nhiều ý kiến bàn cãi, có nhiều giải pháp <br />
được cho là mang lại hiệu quả được đưa ra n hưng liệu rằng có bao nhiêu đơn vị <br />
đã tổ chức thực hiện tốt công tác duy trì sĩ số HSDT? nói thêm về vấn đề này, <br />
thầy Võ Văn Bình (Tổ khối trưởng khối 4) bày tỏ: “Chúng tôi vẫn thường nói <br />
đùa nhưng rất thật với nhau rằng : “không trò đố thầy làm nên”. Phải chăng ở <br />
những vùng có đông học sinh dân tộc thiểu số nói chung và trường Tiểu học <br />
Dray Sáp nói riêng, nếu học trò không đến trường chuyên cần, tệ hơn là bỏ học <br />
thì đây chính là thất bại của người thầy.<br />
Do đó, để làm tốt công tác duy trì sĩ số học sinh,từng bước nâng cao chất <br />
lượng dạy học, chúng ta không phải là cứ nhồi nhét kiến thức cho học sinh <br />
bằng cách bắt học sinh phải học nhiều, học thêm… mà phải hiểu rằng sự ham <br />
thích học tập ở học sinh chủ yếu hình thành thông qua các hoạt động dạy học và <br />
vui chơi ở trường. Vì vậy để thu hút học sinh đến trường, nhà trường phải luôn <br />
tạo một bầu không khí, một môi trường học tập thật thân thiện để mỗi học sinh <br />
thấy vui thích khi đến trường. <br />
Bên cạnh đó là sự phối kết hợp chặt chẽ, cùng chung tay vào cuộc giữa <br />
nhà trường, cha mẹ học sinh, các ban ngành, đoàn thể chính quyền địa phương.<br />
<br />
Người thực hiện: Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 4<br />
SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc <br />
trường Tiểu học Dray Sáp<br />
Duy trì sĩ số sinh dân tộc tại đơn vị mà tôi đang công tác là một hoạt động <br />
mang tính lâu dài, đòi hỏi người lãnh đạo phải linh hoạt, sáng tạo, nhạy bén, có <br />
niềm tin trong quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện. Xác định nhiệm vụ duy trì sĩ <br />
số học sinh là nhiệm vụ chính trị hàng đầu, do đó tập thể sư phạm nhà trường <br />
luôn nỗ lực hết mình để các em thấy được tấm lòng của thầy cô mà vui vẻ đến <br />
trường, chăm chỉ học tập, để các em xem trường, lớp như ngôi nhà thứ hai của <br />
mình. <br />
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu<br />
Trường tiểu học Dray Sáp có rất nhiều ưu thế để đẩy mạnh công tác duy <br />
trì sĩ số, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đối với học sinh, đặc biệt là <br />
học sinh dân tộc như:<br />
Nhờ sự chỉ đạo sát sao của Phòng giáo dục và Đào tạo, sự quan tâm của <br />
chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp ủy, ban tự quản thôn Anna, buôn Kuôp <br />
và sự vào cuộc mạnh mẽ của Ban đại diện cha mẹ học sinh nhà trường.<br />
Ban giám hiệu năng động, nhạy bén, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách <br />
nhiệm, luôn tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên, nhân viên tham gia các lớp <br />
bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Bên cạnh đó đội ngũ <br />
giáo viên đoàn kết,quan tâm giúp đỡ lẫn nhau trong công việc cũng như trong <br />
cuộc sống hàng ngày.<br />
Đội ngũ GV phần lớn là lực lượng trẻ, năng động, nhiệt tình, tâm huyết, <br />
trình độ chuyên môn được đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn.<br />
Bản thân tôi có kinh nghiệm trong công tác vận động học sinh dân tộc <br />
thiểu số; có hiểu biết về phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc, có vốn kiến <br />
thức cơ bản về tiếng dân tộc.<br />
Một số cha mẹ học sinh quan tâm đến việc học tập của con em. <br />
Cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học cơ bản đảm bảo phục vụ <br />
cho công tác dạy và học. Học sinh dân tộc thiểu số có đầy đủ sách vở, đồ dùng <br />
học tập.<br />
Tỷ lệ bình quân học sinh/lớp thấp so với mặt bằng chung của huyện <br />
(Trung bình 20 HS/ lớp) nên có nhiều thuận lợi trong công tác duy trì sĩ số, nâng <br />
cao hiệu quả và chất lượng giáo dục.<br />
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì công tác duy trì sĩ số học sinh dân <br />
tộc tại trường Tiểu học Dray Sáp còn gặp không ít khó khăn:<br />
Trường đóng trên địa bàn xã khó khăn, điểm lẻ cách điểm chính gần 10 <br />
cây số. Địa bàn dân cư rộng, đường sá đi lại mặc dù đang được cải tạo, nâng <br />
cấp nhưng việc đi lại vẫn còn nhiều khó khăn.<br />
<br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 5<br />
SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc <br />
trường Tiểu học Dray Sáp<br />
Trình độ giáo viên không đồng đều, một số giáo viên chậm đổi mới, còn <br />
hạn chế về kiến thức, kỹ năng sư phạm, kỹ năng xử lý tình huống; thiếu nhạy <br />
bén trong việc sử dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học...khả năng diễn <br />
thuyết khi đi vận động, tuyên truyền tới CMHS chưa thực sự thuyết phục.<br />
Trình độ công nghệ thông tin của một số giáo viên (giáo viên lớn tuổi) còn <br />
nhiều hạn chế, gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận phần mềm hệ thống <br />
quản lý thông tin trường học VnEdu.<br />
Một số giáo viên được phân công giảng dạy tại phân hiệu buôn Kuôp <br />
chưa sử dụng thành thạo tiếng của đồng bào dân tộc nơi đây (Dân tộc M’nông; <br />
Êđê) nên ảnh hưởng nhiều tới quan hệ, giao tiếp.<br />
Học sinh đồng bào dân tộc tại chỗ chiếm gần 60%, đa số các em còn nhút <br />
nhát, rụt rè, ngại giao tiếp; việc tiếp thu bài còn nhiều hạn chế, học trước, quên <br />
sau; một số học sinh kỹ năng đọc còn chậm, còn có học sinh viết được nhưng <br />
đọc còn phải đánh vần (một số học sinh lớp 2, lớp 3).<br />
Ngôn ngữ bất đồng, vốn tiếng Việt của các em còn hạn chế, hàng ngày <br />
các em giao tiếp với bố mẹ, cộng đồng bằng tiếng mẹ đẻ. Đó chính là nguyên <br />
nhân chính dẫn đến việc hình thành và phát triển kĩ năng sử dụng Tiếng Việt <br />
của các em gặp nhiều khó khăn.<br />
Trình độ dân trí thấp, đa số cha mẹ các em đều làm nông, điều kiện kinh <br />
tế còn nhiều khó khăn nên chưa thật sự quan tâm, chăm lo, nhắc nhở các em đến <br />
trường, thường bắt con em ở nhà chăn bò, lên nương, làm rẫy, trông em, nhất là <br />
vào mùa vụ.<br />
Công tác tuyên truyền , vận động học sinh, CMHS; sự phối kết hợp với <br />
các tổ chức chính quyền, đoàn thể ở thôn, buôn chưa hiệu quả. Họ còn phó mặc <br />
cho nhà trường, coi đó là trách nhiệm của nhà trường phải làm.<br />
Trang thiết bị, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, chưa đáp ứng yêu cầu dạy <br />
học hai buổi/ngày.<br />
Việc tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, giao lưu, tuyên <br />
truyền... nhằm thu hút trẻ đến trường còn tổ chức hời hợt mang tính hình thức, <br />
chưa chú trọng đến hiệu quả, chưa được quan tâm đúng mức.<br />
Các thực trạng nói trên bắt nguồn từ các nguyên nhân sau:<br />
*Nguyên nhân chủ quan: <br />
Đội ngũ giáo viên còn nhiều hạn chế trong việc sử dụng ngôn ngữ ở địa <br />
phương (đồng bào dân tộc M’nông, Êđê). Phong tục tập quán, lối sống, thói <br />
quen sinh hoạt đã hình thành từ lâu đời, muốn thay đổi được những vấn đề trên <br />
là một việc không dễ dàng. Do đó học sinh không thích đến trường học tập, <br />
ngại giao tiếp với giáo viên một phần bắt nguồn từ nguyên nhân trên.<br />
<br />
Người thực hiện: Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 6<br />
SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc <br />
trường Tiểu học Dray Sáp<br />
Một số giáo viên không có chí tiến thủ, chậm đổi mới phương pháp dạy <br />
học, chỉ đến lớp dạy hết tiết, hết buổi rồi về, chưa thật sự phát huy hết vai trò, <br />
trách nhiệm của một người giáo viên, chưa gần gũi nắm bắt tâm lí xem các em <br />
cần gì? Mong muốn điều gì? nên chưa có được hiệu quả tốt nhất trong việc <br />
nâng cao chất lượng dạy học, từ đó học sinh không hứng thú học tập, dẫn đến <br />
chán học, bỏ học.<br />
Việc luân chuyển giáo viên giảng dạy giữa hai điểm trường theo định kì <br />
hai năm (cứ hai năm dạy ở phân hiệu buôn Kuôp thì lại chuyển ra ngoài điểm <br />
chính dạy). Đây là một biện pháp tích cực, đảm bảo sự công bằng cho giáo <br />
viên.Tuy nhiên việc tổ chức luân chuyển giáo viên còn mang tính cứng nhắc, <br />
chưa có tính kế thừa. Nhà trường chưa chú trọng trong phân công chuyên môn <br />
phải giữ lại một số giáo viên có tiếng nói, uy tín tốt giảng dạy lâu năm ở một <br />
điểm trường để cùng phối hợp tuyên truyền, vận động các ban ngành, đoàn thể <br />
cùng chung tay với nhà trường trong việc duy trì sĩ số học sinh.<br />
Một bộ phận giáo viên chủ nhiệm lớp, giáo viên dạy thay kể cả một số <br />
giáo viên bộ môn chưa thực sự có tinh thần trách nhiệm. Họ thường có tâm lí sợ <br />
phải vào dạy ở điểm trường buôn Kuôp, chưa xác định rõ vai trò nhiệm vụ của <br />
bản thân trong công tác duy trì sĩ số học sinh, thiếu nhạy bén, chưa có biện pháp <br />
phù hợp để ngăn chặn các vấn đề phát sinh xảy ra trong quá trình giảng dạy.<br />
Cơ sở vật chất tại phân hiệu buôn Kuôp còn thiếu phòng học (thiếu 03 <br />
phòng học) nên chưa đủ điều kiện về cơ sở vật chất để đảm bảo tổ chức dạy <br />
học hai buổi/). Hệ thống tường rào hư hỏng, công trình vệ sinh xuống cấp, <br />
thiếu nguồn nước sạch phục vụ nhu cầu thiết yếu cho giáo viên, học sinh. Một <br />
số hộ chăn nuôi làm chuồng dê, chuồng gà sát ngay trường học, mùi hôi thối của <br />
phân gia súc, gia cầm bốc lên gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. <br />
Bản thân một số em không ý thức được tầm quan trọng của việc học. Các <br />
em coi việc đi học như là một nhiệm vụ bắt buộc phải đi, thích thì các em lên <br />
lớp, không thích thì các em ở nhà đi chơi, có khi vẫn lên trường nhưng không <br />
vào lớp học, thấy thầy cô ra là chạy trốn, đi lang thang ở bên ngoài hoặc vào khu <br />
du lịch Thác Dray Nu để đi xin tiền khách du lịch, lượm vỏ lon bia bán lấy tiền <br />
tiêu xài. <br />
Vai trò lãnh, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương chưa đủ <br />
mạnh, quyết tâm chưa cao, sự phối hợp với nhà trường chưa thường xuyên, <br />
chưa có những biện pháp triệt để nhằm ngăn chặn tình trạng học sinh không <br />
đến trường, đi học chưa chuyên cần.<br />
Các tổ chức đoàn thể chưa thực sự vào cuộc, thiếu sự hợp tác nên việc <br />
tuyên truyền vận động nhân dân chưa kịp thời, chưa thật sự hiệu quả. Một số <br />
gia đình học sinh khi đến vận động thì hứa mai sẽ cho con em đi học nhưng rồi <br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 7<br />
SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc <br />
trường Tiểu học Dray Sáp<br />
đâu lại vào đấy, học sinh nghỉ vẫn cứ nghỉ, hiện tượng này xảy ra thường xuyên <br />
như cơm bữa nhưng chưa có biện pháp xử lý triệt để.<br />
Trong các cuộc họp hội đồng, các buổi sinh hoạt chuyên môn vấn đề duy <br />
trì sĩ số học sinh mặc dù được đề cập nhiều nhưng một số biện pháp chỉ đạo <br />
chưa cụ thể, chưa xử lý thật hiệu quả sau kiểm tra.<br />
*Về nguyên nhân khách quan<br />
Trường TH Dray Sáp nằm địa bàn vô cùng khó khăn, phức tạp. Trường có <br />
hai điểm trường (điểm chính đặt tại thôn An Na, điểm lẻ đặt tại buôn Kuôp). <br />
Cách xa nhau gần 10 km nhưng chỉ một điểm lẻ được hưởng chế độ ưu đãi theo <br />
Nghị định116/NĐ – CP; đường sá đi lại mặc dù đã được nhà nước đầu tư nâng <br />
cấp nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Vào mùa nắng bụi bặm, vào mùa mưa thì <br />
đường trơn trượt, lầy lội. <br />
Học sinh đồng bào dân tộc chiếm gần 60%, các em còn nhút nhát, rụt rè, <br />
ngại giao tiếp. Ngôn ngữ bất đồng, vốn tiếng Việt của các em còn hạn chế, <br />
hàng ngày các em giao tiếp với bố mẹ, cộng đồng bằng tiếng mẹ đẻ nên việc <br />
tiếp thu bài còn chậm , học trước, quên sau; một số học sinh kỹ năng đọc còn <br />
chậm, còn có học sinh viết được nhưng đọc còn yếu, còn phải đánh vần từng <br />
chữ, tiếp thu kiến thức còn chậm dẫn đến chán học rồi bỏ học. <br />
Một số gia đình phụ huynh có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, lại đông <br />
con, đất sản xuất ít, không màu mỡ do không có tiền đầu tư. Cuối năm mất <br />
mùa, nợ nần họ nên việc học hành đối với con không được quan tâm nhiều. Một <br />
số CMHS bắt con ở nhà chăn bò, làm rẫy phụ giúp gia đình đặc biệt là vào mùa <br />
vụ. <br />
Những năm gần đây tình trạng học sinh bỏ học không còn diễn ra nhiều <br />
như những năm học trước, nhưng hiện tượng nghỉ học cách nhật, đặc biệt là <br />
vào mùa vụ hay các dịp lễ tết vẫn luôn xảy ra. Là người làm công tác quản lý, <br />
tôi hiểu rõ vấn đề cấp bách của công tác duy trì sĩ số. Học sinh bỏ học, bỏ tiết <br />
sẽ không lĩnh hội được kiến thức một cách đầy đủ, do đó ảnh hưởng rất lớn <br />
đến việc nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.<br />
Trước thực trạng đó, người quản lý phải hiểu rõ và phải xác định cho <br />
mình một trách nhiệm lớn lao nặng nề và phải biết vận dụng sáng tạo, linh <br />
hoạt các biện pháp trong quản lý giáo dục; người quản lý còn phải thật sự tâm <br />
huyết, phải nêu cao tinh thần, ý thức trách nhiệm, gương mẫu đi đầu trong mọi <br />
hoạt động chuyên môn của nhà trường mà chú trọng là công tác quản lý chỉ đạo <br />
việc duy trì sĩ số học sinh để nâng cao chất lượng dạy học, hoàn thành xuất <br />
sắc mọi nhiệm vụ được giao.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 8<br />
SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc <br />
trường Tiểu học Dray Sáp<br />
3. Nội dung và hình thức của giải pháp<br />
a. Mục tiêu của giải pháp<br />
Trong khuôn khổ đề tài này, bản thân đặt ra những mục tiêu như sau:<br />
Thực hiện công tác tuyển sinh vào lớp 1; duy trì sĩ số học sinh dân tộc.<br />
Chú trọng tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc.<br />
Xây dựng một đội ngũ nhà giáo thực sự có tinh thần yêu nghề, tận tụy <br />
với công việc. <br />
Giáo viên làm công tác phổ cập thường xuyên trao đổi và nắm bắt thông <br />
tin từ Ban cán sự của các lớp và giáo viên chủ nhiệm.<br />
Sự phối hợp, liên lạc thường xuyên giữa Giáo viên chủ nhiệm với <br />
CMHS để nắm tình hình đối với từng học sinh để có hướng xử lý kịp thời.<br />
Sự phối hợp tốt giữa Tổng phụ trách Đội Giáo viên chủ nhiệm BGH <br />
nhà trường trong việc xây dựng các hoạt động NGLL để thu hút học sinh đến <br />
trường.<br />
Phối hợp với cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, đoàn thể thôn <br />
buôn.<br />
Thực hiện nghiêm túc việc bàn giao chất lượng.<br />
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp<br />
Thứ nhất : Chỉ đạo công tác tuyển sinh vào lớp 1, duy trì sĩ số học sinh dân <br />
tộc:<br />
Ngay từ trong hè, giáo viên làm công tác phổ cập phải liên hệ với <br />
trường mẫu giáo trong địa bàn để nắm danh sách trẻ 5 tuổi sẽ vào lớp 1 <br />
trong năm học mới để kịp thời huy động tất cả các em đến trường. Nhà <br />
trường lập danh sách Hội đồng tuyển sinh gửi PGD ra quyết định, xây dựng kế <br />
hoạch tuyển sinh của trường và trình Phòng GD&ĐT phê duyệt. <br />
Báo cáo với UBND xã Dray Sáp để phối hợp với ban tự quản thôn An Na, <br />
buôn Kuôp và các đoàn thể trên điạ bàn cùng thực hiện.<br />
Tổ chức điều tra, thống kê số liệu học sinh đầu năm, nắm danh sách <br />
học sinh học tại địa bàn và học sinh có hộ khẩu trong xã đến học tại các <br />
trường bạn. Nhà trường tuyệt đối không tuyển học sinh nhập học trái <br />
tuyến nếu không có ý kiến chỉ đạo của Phòng giáo dục.<br />
Ngay từ đầu năm học mới, tôi cũng chỉ đạo giáo viên được phân công <br />
làm công tác phổ cập của trường phối hợp chặt chẽ với giáo viên chủ <br />
nhiệm các lớp để nắm tình hình các em có nguy cơ bỏ học ở các năm học <br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 9<br />
SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc <br />
trường Tiểu học Dray Sáp<br />
trước, lập danh sách các đối tượng lười học, vắng học thường xuyên, có <br />
nguy cơ bỏ học xác định nguyên nhân, nắm bắt hoàn cảnh để theo dõi, có <br />
các giải pháp xử lý kịp thời.<br />
Ví dụ: Lớp 3C do thầy Nguyễn Hoài Nam chủ nhiệm có 02 em thường <br />
xuyên nghỉ học trong năm học trước là em: Y’Nisa Niê; Y Viết Êban. Qua nắm <br />
bắt tình hình do giáo viên báo lại, tôi đã phân công cho cô Nguyễn Thị Kim Anh <br />
là giáo viên phụ trách công tác phổ cập của trường phối hợp với thầy Nam đến <br />
nhà học sinh tìm hiểu nguyên nhân, có biện pháp hỗ trợ kịp thời để vận động <br />
các em đến lớp.<br />
Nhà trường xây dựng kế hoạch chi tiết, cụ thể chỉ đạo giáo viên, các bộ <br />
phận trong nhà trường từng bước khắc phục khó khăn để vận động học sinh đi <br />
học chuyên cần.<br />
Nhà trường làm tương đối tốt công tác xã hội hoá giáo dục cải tạo cơ sở <br />
vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học cơ bản đảm bảo phục vụ cho công tác <br />
dạy và học. Tham mưu đầu tư cải tạo cơ sở vật chất, cảnh quang xây dựng <br />
môi trường học tập thân thiện, thu hút các em đến trường.<br />
Thứ hai: Chỉ đạo tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc:<br />
Có thể thấy, không như học sinh người Kinh, trước khi đến trường đa số <br />
học sinh người dân tộc thiểu số chưa thể sử dụng được tiếng Việt. Một số học <br />
sinh khi vào học ở các lớp mẫu giáo mới có được vốn kiến thức ban đầu về <br />
tiếng Việt, qua giao tiếp các em biết sử dụng được những mẫu hội thoại ngắn, <br />
những kỹ năng cơ bản như nghe, nói, đọc…nhưng vì nhiều lý do những kỹ năng <br />
cơ bản đó dần dần mai một và đã không theo các em bước vào lớp 1.<br />
Trong sinh hoạt gia đình, cộng đồng các em học sinh chỉ sử dụng tiếng <br />
mẹ đẻ nên khi bước ra thế giới bên ngoài, vào môi trường giáo dục phổ thông, <br />
tiếng Việt trở thành ngôn ngữ thứ hai của các em. Đến trường, đến lớp là các <br />
em bước đến môi trường sinh hoạt hoàn toàn xa lạ, tâm lý rụt rè, e sợ luôn <br />
thường trực đã làm giảm tốc độ tiếp thu và hứng thú học tập. Đây là nguyên <br />
nhân chính dẫn đến việc học sinh không muốn đến trường hoặc ngại giao tiếp <br />
khi đến lớp, từ đó các em dễ tự ti trước bạn bè và thầy cô...Việc cung cấp kĩ <br />
năng sử dụng tiếng Việt nhằm giúp các em tự tin hơn vào bản thân để từng <br />
bước chiếm lĩnh kiến thức bằng chính khả năng của mình, khi các em có đủ tự <br />
tin trong giao tiếp và học tập thì các em sẽ tự giác đến trường, thích đến trường. <br />
Để thực hiện tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc đạt hiệu quả, <br />
nhà trường đã thực hiện chỉ đạo một số nội dung như:<br />
Nhà trường xây dựng kế hoạch, triển khai, chỉ đạo, hướng dẫn giáo viên <br />
thực hiện việc dạy tăng cường tiếng Việt cho HSDT ngay từ đầu năm học, thể <br />
hiện ở giáo án và trong từng tiết dạy của giáo viên.<br />
<br />
Người thực hiện: Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 10<br />
SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc <br />
trường Tiểu học Dray Sáp<br />
Ví dụ: Chỉ đạo việc chuẩn bị Tiếng Việt cho trẻ trước khi vào lớp 1 (sau <br />
khi tuyển sinh); tăng thời lượng môn Tiếng Việt lớp 1 ở phân hiệu buôn Kuôp <br />
từ 350 tiết lên 500 tiết theo cách tổ chức dạy học 2 buổi/ngày; điều chỉnh thời <br />
lượng dạy học các môn học khác để tập trung ưu tiên dạy hai môn Tiếng <br />
Việt,Toán. Mặc dù còn thiếu 03phòng học nhưng nhà trường đã linh động sắp <br />
xếp phân công chuyên môn để ưu tiên tăng buổi đối với khối lớp 1 và khối lớp 5 <br />
ở buôn Kuôp lên 8 buổi/ tuần.<br />
Thành lập tổ tư vấn về tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc.<br />
Chỉ đạo chú trọng tăng cường tiếng Việt cho học sinh thông qua các môn <br />
học, bài học, các tiết sinh hoạt tập thể, hoạt động NGLL, tăng cường luyện <br />
nói ;chú trọng phần luyện viết cho học sinh; tổ chức giao lưu tiếng Việt, các trò <br />
chơi, múa hát, tiểu phẩm đơn giản với các tình huống phù hợp với thực tế trong <br />
cuộc sống hàng ngày. Tổ chức phương pháp học theo nhóm, đóng vai trong phân <br />
môn tập đọc, kể chuyện, tập làm văn....tạo cơ hội cho các em bày tỏ ý kiến của <br />
mình, giúp các em mạnh dạn, tự tin trước tập thể. Khuyến khích học sinh ở <br />
trường cũng như về nhà giao tiếp bằng tiếng Việt.<br />
Ví dụ: Trong tiết kể chuyện, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh đóng <br />
vai các nhân vật trong câu chuyện để các em thêm mạnh dạn, tự tin. Tiết sinh <br />
hoạt tập thể sau khi đánh giá hoạt động tuần qua của lớp, triển khai kế hoạch <br />
tuần tới, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh chơi một số trò chơi hoặc tổ <br />
chức thi múa hát cá nhân, tập thể, diễn kịch...học sinh cùng nhau giao lưu để <br />
tăng cường tiếng Việt cho các em.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Học sinh tham gia giao lưu văn nghệ<br />
<br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 11<br />
SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc <br />
trường Tiểu học Dray Sáp<br />
Tham gia sinh hoạt cụm chuyên môn để học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm. <br />
Sinh hoạt chuyên môn trong nhà trường chú trọng tổ chức các chuyên đề mang <br />
tính chuyên sâu như: Tăng cường tiếng Việt cho dân tộc thiểu số; Giúp học sinh <br />
học tốt môn tiếng Việt... sự góp ý trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm của giáo viên <br />
đã giúp nhà trường từng bước tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình dạy <br />
học, nâng cao chất lượng giáo dục cho HSDT. <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Sinh hoạt chuyên môn dự giờ thăm lớp<br />
Chỉ đạo giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với đối <br />
tượng học sinh từng lớp; chú trọng dạy học theo phân hóa đối tượng học sinh; <br />
tận dụng tối đa kênh hình và đồ dùng tự làm, sẵn có để sử dụng trong giảng <br />
dạy. Tạo ra giờ học sôi nổi, thân thiện thu hút các em đến trường và tự giác <br />
tham gia vào các hoạt động, để các em cảm thấy “Mỗi ngày đến trường là một <br />
ngày vui”.<br />
Thứ ba: Xây dựng một đội ngũ nhà giáo thực sự có tinh thần yêu <br />
nghề, tận tụy với công việc:<br />
Là một Phó hiệu trưởng được phân công phụ trách các hoạt động chuyên <br />
môn trong nhà trường, tôi luôn mong muốn tất cả cán bộ giáo viên trong nhà <br />
trường phải cùng có ý thức hợp tác, phối hợp đồng bộ trong các hoạt động bằng <br />
tất cả lòng yêu nghề, yêu công việc và tinh thần trách nhiệm, tận tâm, tận lực <br />
với nghề và hết lòng với học sinh. Trong đó vai trò của người giáo viên chủ <br />
nhiệm là quan trọng nhất vì:“Giáo viên chủ nhiệm chính là những người cha, <br />
người mẹ thứ hai của học sinh”, phải luôn quan tâm sâu sát, biết rõ hoàn cảnh <br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 12<br />
SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc <br />
trường Tiểu học Dray Sáp<br />
từng em để kịp thời động viên, giúp đỡ. Tại trường Tiểu học Dray Sáp, nhiều <br />
năm qua công tác chủ nhiệm đã phát huy tối đa hiệu quả.<br />
Đầu năm học, sau khi phân công giáo viên chủ nhiệm. Tôi chỉ đạo tất cả <br />
các giáo viên tiến hành phân loại học sinh theo từng nhóm đối tượng để có sự <br />
quan tâm đúng mức, công bằng. Trong đó, phải đặc biệt quan tâm đến những em <br />
có hoàn cảnh kém may mắn như mồ côi, tàn tật bởi với các em, sự gần gũi của <br />
thầy cô giáo chính là niềm an ủi lớn, giúp các em có động lực đến trường để <br />
học tập.<br />
Ví dụ: Trường hợp em Y Ngọc Êban học lớp 2B, gia đình có hai anh em <br />
đều bị mù, kinh tế rất khó khăn; em H’Un Niê học lớp 3B bị não úng thủy, em <br />
còn bị câm điếc bẩm sinh. Dưới sự quan tâm, động viên ân cần của giáo viên <br />
chủ nhiệm là cô Lê Thị Thu giáo viên chủ nhiệm lớp 2B; cô Trần Thị Thùy <br />
Linh giáo viên chủ nhiệm lớp 3B, một người là cô giáo có thâm niên giảng dạy <br />
lâu năm ở phân hiệu buôn Kuôp, một người là giáo viên trẻ mới ra trường nhưng <br />
rất tâm huyết và tình yêu thương học sinh, các cô đã tiếp thêm động lực cho các <br />
em đến trường. <br />
Khi học sinh bị đau hay vắng học không có lý do, tôi chỉ đạo thầy cô sắp <br />
xếp đến nhà thăm nom, hỏi han và động viên các em kịp thời, vận động để học <br />
sinh đến trường tham gia học tập trong thời gian sớm nhất. Cô Hiền là giáo viên <br />
chủ nhiệm lớp 5C đã bày tỏ: “Tôi nghĩ, chỉ cần giáo viên chủ nhiệm coi mỗi học <br />
trò như là một người thân trong gia đình thì chắc chắn sẽ làm tốt vai trò của <br />
mình”.<br />
Ví dụ: Em Y Do Niê học sinh lớp 4B, bị tai nạn gãy xương đùi, nhà em rất <br />
nghèo, cơm không đủ ăn. Sau khi nắm bắt được tình hình, tôi đã chỉ đạo Tổng <br />
phụ trách đội huy động học sinh đóng góp được 10 kilôgam gạo để hỗ trợ cho <br />
gia đình em. Cô Lộc Thị Xoan là giáo viên chủ nhiệm cũng trích từ quỹ lớp ra số <br />
tiền 100.000 đồng để đến nhà thăm hỏi, động viên em. Món quà tuy nhỏ nhưng <br />
qua đó thấy được sự quan tâm, hỗ trợ kịp thời của giáo viên sẽ là nguồn động <br />
lực cho em vượt qua khó khăn để tiếp tục đến trường.<br />
Một vấn đề mà giáo viên cần phải lưu ý: Học sinh của chúng ta đang ở <br />
lứa tuổi rất nhạy cảm cho nên người giáo viên phải hết sức thương yêu, tôn <br />
trọng, gần gũi, ân cần, bao dung với thái độ nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc <br />
trong việc giáo dục các em. Nhiều giáo viên của chúng ta bây giờ vẫn còn dùng <br />
những lời lẽ nặng lời, thậm chí xúc phạm học sinh khi các em mắc lỗi. Trong <br />
công tác vận động, tôi đã tiếp xúc với một số học sinh bỏ học chỉ vì giáo viên <br />
nặng lời phê phán, chê trách các em, dẫn đến các em tự ái không muốn đến lớp <br />
nữa. Khi nắm bắt được thông tin trên, tôi đã nhắc nhở những giáo viên vi phạm <br />
và chấn chỉnh kịp thời. <br />
<br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 13<br />
SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc <br />
trường Tiểu học Dray Sáp<br />
Tôi chỉ đạo giáo viên cần phải quan tâm đặc biệt đến những học sinh có <br />
biểu hiện lơ là, sa sút trong học tập, kết hợp cùng gia đình tìm nguyên nhân và <br />
kịp thời bồi dưỡng kiến thức. Chỉ đạo tất cả giáo viên chú trọng đổi mới <br />
phương pháp dạy học với mục đích là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, <br />
góp phần giảm tỷ lệ học sinh chưa hoàn thành, giải quyết triệt để tình trạng <br />
học sinh “ngồi nhầm lớp” từ đó sẽ giảm nguy cơ học sinh bỏ học. <br />
Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm phối hợp chặt chẽ với các giáo viên dạy <br />
thay, giáo viên dạy các môn chuyên trong việc duy trì sĩ số đối với lớp mà mình <br />
tham gia giảng dạy. <br />
Ví dụ: Trường hợp em Y Kơ Niê, học sinh lớp 5B do thầy Dương Quang <br />
Hùng chủ nhiệm. Y Kơ là một học sinh lớn tuổi, lại cao to nhất trong lớp, các <br />
bạn trường xuyên trêu chọc nên em cảm thấy ngại mỗi khi đến lớp, thường <br />
xuyên nghỉ học. Đối với trường hợp học sinh này, tôi đã chỉ đạo giáo viên chủ <br />
nhiệm cùng phối hợp với thầy Đỗ Ngọc Trìu là giáo viên dạy thay; thầy Thành, <br />
cô Quyên, cô Ngân…là giáo viên dạy các môn chuyên cùng xuống nhà vận động <br />
Y Kơ vượt qua mặc cảm đi học chuyên cần.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Ban giám hiệu cùng với giáo viên đến nhà vận động học sinh đi học<br />
Ngoài ra còn chỉ đạo sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm với <br />
các tổ chức đoàn thể trong nhà trường: Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Đội thiếu <br />
niên cùng chung tay vào cuộc vận động học sinh nghỉ học ra lớp.<br />
Thực hiện kí cam kết giữa các giáo viên trong nhà trường với Hiệu trưởng <br />
về việc duy trì sĩ số học sinh.<br />
<br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 14<br />
SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc <br />
trường Tiểu học Dray Sáp<br />
Vào cuối năm học nhà trường luôn khuyến khích, khen thưởng những giáo <br />
viên duy trì tốt sĩ số học sinh, đồng thời cũng thẳng thắn đấu tranh, góp ý, nhắc <br />
nhở nếu có giáo viên có thái độ chủ quan, không có tinh thần trách nhiệm trong <br />
công tác duy trì sĩ số và một số công tác khác.<br />
Thứ tư: Chỉ đạo giáo viên phụ trách công tác phổ cập thường xuyên trao <br />
đổi và nắm bắt thông tin từ Ban cán sự của các lớp và giáo viên chủ nhiệm:<br />
Ban cán sự lớp chính là một tổ chức trực tiếp theo dõi và lãnh đạo lớp <br />
được giáo viên chủ nhiệm cùng cả lớp tín nhiệm đề cử. Do đó giáo viên làm <br />
công tác phổ cập của trường phải thường xuyên trao đổi, phối kết hợp với Ban <br />
cán sự của các lớp và giáo viên chủ nhiệm để theo dõi tình hình của từng lớp, <br />
kịp thời nắm bắt những thông tin của các lớp để đề ra biện pháp và xử lý kịp <br />
thời khi có vấn đề xảy ra.<br />
Ví dụ: Bạn H’Linh Hlong học lớp 1C, hôm nay không đến lớp học mà ở <br />
nhà đi chơi. Ban cán sự lớp nắm bắt tình hình, sau đó báo cáo với GVCN hoặc <br />
giáo viên dạy thay, các giáo viên dạy môn chuyên (nếu buổi học đó có tiết môn <br />
chuyên), để các giáo viên nắm bắt kịp thời, phối hợp với giáo viên làm công tác <br />
phổ cập xuống nhà học sinh tìm hiểu nguyên nhân và vận động học sinh đến <br />
lớp. <br />
Thứ năm: Chỉ đạo Giáo viên chủ nhiệm phải phối hợp, liên lạc thường <br />
xuyên với CMHS để nắm tình hình học sinh đối với từng học sinh để có hướng <br />
xử lý kịp thời:<br />
Sự buông lỏng giáo dục của gia đình là nguyên nhân chủ yếu làm cho học <br />
sinh lơ là học tập. Sự lơ là, lười biếng học tập kéo dài sẽ làm học sinh bị mất <br />
căn bản do lỗ hổng kiến thức lâu ngày dẫn kết quả học tập nhanh chóng giảm <br />
sút, các em chán nản bỏ học. Chính vì thế, vai trò của gia đình là vô cùng quan <br />
trọng trong việc quản lý, giáo dục con em. Nhưng vẫn còn nhiều gia đình mãi lo <br />
làm ăn kiếm tiền, không quan tâm đến việc học tập của con em, họ phó mặc <br />
hết cho nhà trường. Một số CMHS quan niệm: “Thích thì đi học, còn không <br />
thích thì ở nhà phụ giúp gia đình”.<br />
Ví dụ: Trường hợp các học sinh: H’Zina Hlong (Lớp 2B), H’Ninh <br />
Hlong (lớp 5B); Y Sáo Hlong (lớp 5C), là ba anh em trong một gia đình. Gia <br />
đình em có tất cả 10 anh chị em, Cả ba thế hệ sống trong một ngôi nhà chật <br />
hẹp. Gia đình đông con nên bố mẹ chỉ lo làm rẫy để các em có bữa cơm trắng <br />
với cá khô là may lắm rồi. Bản thân tôi trực tiếp đi vận động cùng với giáo viên <br />
chủ nhiệm, chứng kiến những gì diễn ra trước mắt bản thân tôi cảm thấy xót <br />
xa. Có em học lớp 6 đã nghỉ học lấy chồng một nách hai con nhỏ; còn H’Zina <br />
Hlong (Lớp 2B), H’Ninh Hlong (lớp 5B), các em thường trốn học vào thác Dray <br />
Nur khu du lịch gần đó để xin tiền, xin đồ ăn của khách du lịch hay nhặt vỏ lon <br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 15<br />
SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc <br />
trường Tiểu học Dray Sáp<br />
bia về bán kiếm tiền. Nhìn những khuôn mặt ngây thơ, lem luốc mà lòng tôi <br />
quặn thắt.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Học sinh trốn học ở nhà chơi hoặc vào Thác nhặt lon bia<br />
Với bậc CMHS này, chúng ta phải thật khéo léo cải thiện dần tư tưởng <br />
để họ thấy được sự quan trọng của việc học và có trách nhiệm hơn trong việc <br />
cùng nhà trường quản lí, giáo dục con em mình học tập tốt. Giáo viên chủ <br />
nhiệm lớp phải trực tiếp liên lạc với CMHS để trao đổi thông tin, nắm bắt tình <br />
hình; thông báo mời CMHS dự họp đầy đủ các cuộc họp để phối hợp tuyên <br />
truyền, vận động.<br />
Muốn vận động được CMHS, muốn CMHS cùng chung tay với nhà <br />
trường thì hơn ai hết yêu cầu giáo viên phải am hiểu phong tục, tập quán và đặc <br />
điểm tâm lí của đồng bào dân tộc. Cần tìm hiểu kĩ và vận động những cá nhân <br />
có uy tín trong cộng đồng chung tay với nhà trường nhất là những trường hợp <br />
các em học sinh cá biệt, thường xuyên trốn học để phối hợp giáo dục.<br />
Thứ sáu: Chỉ đạo phối hợp tốt giữa Tổng phụ trách Đội Giáo viên chủ <br />
nhiệm Nhà trường trong việc xây dựng các hoạt động NGLL để thu hút học <br />
sinh đến trường:<br />
Chỉ đạo Tổng phụ trách Đội tham mưu với nhà trường xây dựng kế <br />
hoạch phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, xây dựng kế hoạch hoạt động ngoài <br />
giờ lên lớp. Thông qua các tiết Sinh hoạt tập thể nội dung các hoạt động chủ <br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 16<br />
SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc <br />
trường Tiểu học Dray Sáp<br />
yếu tập trung vào việc tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi dân gian, trò chơi <br />
tập thể, văn nghệ, sinh hoạt Sao...Qua đó lồng ghép tuyên truyền,vận động học <br />
sinh đi học chuyên cần; giáo dục các chuẩn mực đạo đức, kĩ năng sống, nhận <br />
thức xã hội cho học sinh.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Chuẩn bị chào cờ đầu tuần (Phân hiệu buôn Kuôp)<br />
Các hoạt động trên phải được tổ chức đan xen trong quá trình dạy học, <br />
trong các tiết học một cách hợp lý sao cho phong phú, sinh động và hấp dẫn để <br />
giảm bớt mệt mỏi, căng thẳng cho học sinh sau những giờ học tập căng thẳng. <br />
Bên cạnh đó còn thực hiện một số phong trào như: phong trào giúp bạn <br />
vượt khó, phong trào cùng nhau đi học, phong trào đôi bạn cùng tiến…vận động <br />
học sinh tích cực tham gia để giúp học sinh có ý thức và thái độ tốt hơn trong <br />
học tập.<br />
Ví dụ: Tổng phụ trách Đội đã huy động học sinh ở điểm trường chính <br />
quyên góp áo trắng tặng cho các bạn học sinh dân tộc ở phân hiệu buôn Kuôp; <br />
hỗ trợ gạo cho một số học sinh có hoàn cảnh khó khăn; thành lập câu lạc bộ <br />
cùng nhau đến lớp mỗi ngày; trích một phần nhỏ kinh phí từ nguồn quỹ đội để <br />
động viên khen thưởng cho một số học sinh vượt khó vươn lên trong học tập.<br />
<br />
Người thực hiện: Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 17<br />
SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc <br />
trường Tiểu học Dray Sáp<br />
Ban Giám hiệu nhà trường luôn làm tốt công tác phối hợp, kết nghĩa với <br />
các trường vùng thuận lợi; các đơn vị doanh nghiệp đóng chân trên địa bàn để <br />
học sinh nhận được sự hỗ trợ tối đa. Số học sinh được tặng xe đạp, dụng cụ <br />
học tập, quần áo để đến trường ngày càng nhiều và có chất lượng.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Huyện đoàn tặng xe đạp cho học sinh nghèo vượt khó vươn lên trong học tập<br />
Ví dụ: Tổ chức giao lưu học sinh dân tộc thiểu số tại điểm trường buôn <br />
Kuôp; vận động các đơn vị đóng trên địa bàn thôn buôn như: Công ty du lịch <br />
Đặng Lê; khu du lịch thác Dray Nur, Công ty Mõ hóa chất...tặng quà cho học <br />
sinh co hoàn cảnh khó khăn vào các ngày lễ tết như: ngày Quốc tế thiếu nhi <br />
(1/6); Rằm trung thu, Tết Nguyên đán. Phối hợp với Đoàn thanh niên buôn Kuôp <br />
tổ chức cắt tóc cho học sinh, tổ chức các buổi lao động vệ sinh khuôn viên sạch <br />
sẽ.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Trần Thị Nguyệt – Trường TH Dray Sáp Trang 18<br />
SKKN: Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc <br />
trường Tiểu học Dray Sáp<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Phối hợp với Đoàn thanh niên buôn Kuôp tổ chức cắt tóc cho học sinh<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Lao động vệ sinh khuôn viên trường<br />
Thứ bảy: Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy Đảng, chính quyền địa phư