intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi

Chia sẻ: Trần Thị Tan | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:19

56
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài này thể hiện sự quan tâm thiết thực đến việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ. Từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi ở trường mầm non, giúp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong mọi hoạt động và mọi hoàn cảnh của trẻ, nhằm cung cấp cho trẻ những kỹ năng sống cơ bản thông qua các hoạt động hằng ngày góp phần nâng cao hiệu quả trong giáo dục mầm non.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi

  1. 1. PHẦN MỞ ĐẦU          1.1. Lý do chọn đề tài.           Như chúng ta đã biết trẻ em là niềm tự hào lớn của mỗi gia đình, là chủ  nhân tương lai của đất nước, là nền tảng vững chắc cho xã hội Việt Nam   “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Để đạt được điều đó thì việc chăm sóc  giáo dục trẻ phải có sự chung tay góp sức của nhà trường, gia đình và xã hội.   Nhưng trước sự phát triển mạnh mẽ  không ngừng của nền kinh tế  hiện nay   thì rất nhiều các bậc phụ  huynh có rất ít thời gian để  quan tâm đến con cái.  Điều này làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển nhận thức, tình cảm và   sự  phát triển toàn diện của trẻ, đặc biệt là hầu hết trẻ  có rất ít vốn kỹ  năng  sống. Vì vậy, việc giáo dục kỹ  năng sống cho trẻ  là điều rất cần thiết để  giúp trẻ khám phá thế giới tâm hồn mình một cách có định hướng, khiến trẻ  biết quý trọng bản thân, nuôi dưỡng những giá trị  sống nền tảng và hình  thành những kỹ  năng sống tích cực, giúp trẻ  hòa nhập với thế  giới xung  quanh.  Là một giáo viên, tôi nhận thức được rằng việc giáo dục kỹ năng sống   là giúp trẻ  nâng cao năng lực để  tự  lựa chọn những giải pháp khác nhau mà   quyết định phải xuất phát từ  trẻ, vì thế  việc học phải hết sức gần gũi với  cuộc sống, nội dung phải xuất phát từ chính nhu cầu và kinh nghiệm của trẻ,   trẻ  cần có điều kiện để  cọ  sát, trao đổi kinh nghiệm, thực hành trải nghiệm  và tự  giải quyết vấn đề  một cách tự  lập. Đó chính là tiền đề  gieo mầm hạt  giống nhằm hình thành kỹ  năng sống cho trẻ. Song tôi thấy thực tế  thì việc   giáo dục kỹ  năng sống cho trẻ  chưa được chú trọng. Là một giáo viên trực   tiếp  đứng lớp  4­5  tuổi, tôi luôn trăn trở  suy nghĩ làm thế  nào để  có  một  phương pháp truyền đạt đến trẻ  những kỹ năng sống tốt nhất? và dạy dưới   hình thức nào? Qua một thời gian tìm tòi nghiên cứu, nhận thức được vai trò quan trọng  của các kỹ  năng sống đối với sự  phát triển của trẻ,   tôi đã mạnh dạn chọn  nghiên cứu đề  tài: “Một số  giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ  4 – 5   tuổi”
  2. 1.2. Điểm mới của đề tài:          Đề  tài này thể  hiện sự  quan tâm thiết thực đến việc giáo dục kĩ năng  sống cho trẻ. Từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm giáo dục kĩ năng sống  cho trẻ  4­5  tuổi  ở  trường mầm non, giúp  phát huy tính tích cực,  chủ  động,  sáng tạo trong mọi hoạt động và mọi hoàn cảnh của trẻ, nhằm cung cấp cho  trẻ những kỹ năng sống cơ bản thông qua các hoạt động  hằng ngày góp phần  nâng cao hiệu quả trong giáo dục mầm non. Nhận thức được tầm quan trọng của  vấn đề, tôi đã nghiên cứu để tìm ra  “Một số giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi”. 1.3. Phạm vi áp dụng đề tài. Với điều kiện và khả năng của bản thân, đề tài này chỉ đề cập đến một  số vấn đề trong việc vận dụng những kiến thức và những biện pháp để  giáo  dục kĩ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi ở chính đơn vị trường tôi đang công tác.  2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Thực trạng  Năm học 2018 ­ 2019 được sự phân công của Ban giám hiệu nhà trường  tôi giảng dạy lớp 4­ 5 tuổi , với tổng số trẻ: 39 cháu; có 19 nữ, 20 nam. Trong  quá trình giảng dạy nhằm thực hiện nội dung nâng cao chất lượng chăm sóc –   giáo dục trẻ. Bản thân tôi đã gặp một số thuận lợi, khó khăn như sau:       * Thuận lợi:  ­ Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao, tích cực, động  viên góp ý cho giáo viên một cách tận tình, chu đáo. ­ Bản thân là một giáo viên có trình độ chuẩn, được đào tạo chính quy, có  tâm huyết với nghề, luôn yêu thương, tôn trọng trẻ. Luôn tìm tòi học hỏi  đồng nghiệp để nâng cao trình độ chuyện môn nghiệp vụ của mình. ­ Đội ngũ giáo viên trẻ, năng động, nhiệt tình trong công việc, yêu nghề  và có trình độ  chuẩn trở  lên, luôn giúp đỡ  lẫn nhau tạo điều kiện cho việc  học hỏi kinh nghiệm. ­ Phòng học rộng rãi thuận lợi cho việc trang trí lớp và tổ  chức cho trẻ  hoạt động. * Khó khăn:        ­ Số trẻ trong lớp đông chưa đồng đều về chất lượng, số ít còn nhút nhát  trong khi thể hiện ý tưởng, khả năng của mình.           ­  Đa số trẻ ở với ông bà vì ba mẹ đi làm ăn xa nên nhận thức của một số  phụ  huynh còn chưa quan tâm đến việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ  dẫn  
  3. đến công tác phối hợp giữa giáo viên với gia đình chưa phát huy được hiệu  quả.        Từ nhưng thuân l ̃ ̣ ợi va kho khăn trong qua trinh th ̀ ́ ́ ̀ ực hiên, tôi đa suy nghi, ̣ ̃ ̃  nghiên cưu tai liêu đê tìm ra các gi ́ ̀ ̣ ̉ ải pháp giáo dục ky năng sông cho tr ̃ ́ ẻ. Trước khi thực hiện đề tài tôi đã khảo sát mức độ  các kĩ năng sống của  trẻ. Kết quả khảo sát ban đầu như sau: Bảng khảo sát mức độ thực tế về vốn kỹ năng sống của trẻ (Tổng số trẻ là 39) Số trẻ / Tổng   Nội dung khảo sát Tỷ lệ đạt số trẻ % 1. Kỹ năng giao tiếp, chào hỏi 22/39 56,4% 2. Kỹ năng tự lập, tự phục vụ  20/39 51,2% 3.  Kỹ   năng   hợp   tác,   hoạt   động   cùng  20/39 51,2% nhóm 4. Khả năng mạnh dạn tự tin 21/39 53,8% 5. Kỹ năng nhận thức  22/39 56,4% 6. Kỹ năng vận động 22/39 56,4% 7. Kỹ năng thích nghi 21/39 53,8% 8. Kỹ năng vệ sinh 23/39 58,9% Đứng trước thực trạng trên của lớp tôi đã suy nghĩ, nghiên cứu để  tìm  ra:“Một số giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi” 2.2. Các giải pháp.
  4. 2.2.1: Lập kế  hoạch cho trẻ luyện tập thường xuyên để  phát triển   các kỹ năng sống.            Tổ  chức các hoạt động cho trẻ  luyện tập thường xuyên đóng vai trò  chủ đạo trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Ở lứa tuổi mẫu giáo 4­ 5  tuổi, khả năng tập trung chú ý và ghi nhớ có chủ định rất kém. Trẻ nhanh nhớ  nhưng cũng nhanh quên. Nếu các kỹ năng chúng ta dạy trẻ không được củng  cố  bằng cách luyện tập thường xuyên thì chúng sẽ  dần mất đi. Ngược lại  nếu ta có kế  hoạch cho trẻ  luyện tập thường xuyên thì các kỹ  năng đó sẽ  thành kỹ  xảo, phát triển bền vững và không bị  lãng quên. Việc tổ  chức cho   trẻ  luyện tập phải có kế  hoạch cụ  thể, được tiến hành thường xuyên và   không ngừng sáng tạo, có như vậy mới gây được hứng thú cho trẻ.   Ví dụ: Hàng tuần vào sáng thứ 2, tôi thường tổ chức hoạt động trò chuyện  cùng trẻ khoảng 15 phút với tên mục là “Chuyện của bé” nhằm phát triển kỹ  năng giao tiếp cho trẻ. Qua hoạt động này trẻ  biết tự  giới thiệu mình, biết   lắng nghe, biết dùng ngôn ngữ của mình để kể về những chuyện trong 2 ngày   nghỉ   ở  nhà của bé hay trao đổi cùng cô về  chủ  đề  đang học. Cuối chương  trình cho trẻ  nhận xét câu chuyện nào hay nhất sẽ  đựơc nhận phần thưởng   của cô.( Phần thưởng có thể là một bông hoa cài, một bức tranh vẽ ngôi nhà  hay một hạt giống cây nảy mầm….Các phần thưởng được thay đổi theo từng  chủ  đề). Kết quả, trẻ  lớp tôi rất hứng thú khi tham gia buổi trò chuyện đầu  tuần. Trẻ đã có thói quen trước khi nói biết thưa cô, chào bạn và đặc biệt rất   mạnh dạn tự tin khi kể “chuyện của mình” cho bạn nghe.   Trong giờ  hoạt động chiều của mỗi ngày, sau khi cho trẻ  ôn bài cũ   hoặc làm quen với bài mới, tôi luôn dành thời gian khoảng 15 phút để tổ chức   cho trẻ luyện tập thực hành các kỹ năng dưới dạng trò chơi. Cụ thể:  Chiều thứ  2, tôi thường tổ  chức cho trẻ  thực hành các kỹ  năng chăm  sóc   bản   thân   như   rửa   tay,   lấy   nước   uống,   mặc   quần   áo,   cho   đồ   vào   ba  lô….Mỗi hoạt động tôi chọn một trò chơi khác nhau.  Ví dụ: Khi dạy trẻ cách mặc áo, tôi cho trẻ chơi trò chơi “Ai nhanh hơn, khéo  hơn”, cách chơi như  sau: Cho 2 trẻ  lên thi mặc áo, đầu tiên tôi gợi mở, giới   thiệu với trẻ  các thao tác mặc áo sau đó tổ  chức cho trẻ  chơi. Cả  lớp đếm   ngược cùng cô từ 10 đến 1, khi nghe hết giờ phải dừng tay, cô và các bé kiểm   tra kết quả và tặng quà. Việc xác định nội dung cho trẻ thực hành, tôi dựa trên  nguyên tắc cho trẻ làm quen từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Chẳng  hạn, cũng dạy trẻ  cách mặc áo nhưng tuần đầu tôi dạy trẻ  cách mặc áo có  khuy bấm, tuần tiếp theo tôi dạy trẻ cách mặc áo có khuy cài và những tuần   sau là áo có khoá kéo. Lúc đầu trẻ thực hiện rất vụng về lúng túng nhưng do  
  5. luyện tập thường xuyên và có kế  hoạch nên các thao tác của trẻ  dần chính  xác hơn. với cách tổ chức có hệ thống và linh hoạt như vậy trẻ lớp tôi đã có   kỹ năng chăm sóc bản thân tương đối tốt.  Chiều thứ  4, tôi tổ  chức cho trẻ xem băng đĩa hoặc tranh  ảnh có kèm   những câu chuyện về  các hành vi  ứng xử  đúng sai giữa con người với con   người, giữa con người với môi trường xung quanh trong chủ đề. Qua đó giáo  dục trẻ kỹ năng ứng xử phù hợp với xung quanh.   Ví dụ  : Cho trẻ  xem đoạn phim về  câu chuyện “Mèo hoa đi học”. Tôi trò   chuyện cùng trẻ:    ­ Mèo hoa đã nói gì với mèo mẹ để không đi học?( Mèo hoa nói dối cái  đuôi bị ốm) ­ Bác Cừu đã nghĩ ra cách gì?( Bác cừu đưa kéo dọa cắt đuôi mèo hoa) ­ Thái độ của mèo hoa lúc đó như thế nào?(Mèo hoa hoảng sợ) ­ Thế là từ đó bạn mèo hoa như thế nào các con? (Mèo hoa đi học cùng   các bạn) ­ Qua câu chuyện này các con học được điều gì?   (Câu chuyện là một bài học quý về tính trung thực, chúng ta không nên  nói dối sẽ làm bố mẹ buồn lòng. Và các con biết không mỗi ngày đến trường   là một niềm vui, các con sẽ có thêm nhiều bạn mới và những bài học thú vị) Mỗi một tình huống, mỗi một câu chuyện tôi dựa vào nội dung để giáo  dục trẻ cách ứng xử phù hợp. Qua việc thảo luận các tình huống như vậy trẻ  luôn có ý thức ứng xử phù hợp với con người và môi trường xung quanh. Chiều thứ 5, tôi tổ chức các hoạt động nhằm dạy trẻ kỹ năng tuân thủ  quy tắc xã hội.  Ví dụ: Dạy trẻ  biết xếp ghế  đúng nơi quy định như  xếp nhẹ  nhàng, không  gây ồn, khi xếp ghế ngồi học phải xếp thẳng hàng theo đúng tổ của mình, khi  ngồi ăn ghế phải xếp sát bàn, khi ra về phải xếp ghế vào góc lớp. Hoặc khi   xếp dép phải xếp kẹp đôi, tổ chim non xếp ngăn trên của giá dép, tổ hoa hồng   xếp ngăn giữa, tổ  hoa mai con xếp ngăn dưới… Nhờ  được tham ra và nhắc  nhở thường xuyên nên ý thức của trẻ trong việc chấp hành các quy tắc cô đưa  ra rất tốt. Chiều thứ 6, tôi tổ chức cho trẻ sắp xếp lại đồ dùng đồ chơi ở các góc  nhằm phát triền kỹ  năng hợp tác và rèn thói quen sống gọn gàng ngăn nắp.  Những tuần đầu, tôi cho trẻ quan sát cô và nghe cô giải thích vì sao phải làm  như  vậy? Cách sắp xếp như thế  nào cho đẹp? Những tuần tiếp theo tôi chia   tổ, yêu cầu mỗi tổ tự xếp mỗi góc chơi, thi xem đội nào xếp đúng, xếp đẹp   và nhanh nhất. Rõ ràng khi tham gia hoạt động này, các kỹ  năng hợp tác của  trẻ được phát triển. Trẻ biết giúp đỡ nhau và nhắc nhở nhau cùng hoàn thành   nhiệm vụ một cách nhanh chóng. Từ việc tổ chức thường xuyên như vậy, các 
  6. mối quan hệ  cũng như  kỹ  năng làm việc nhóm của trẻ  được củng cố, bên  cạnh đó đồ  dùng đồ  chơi của lớp tôi luôn được xếp gọn gàng, ngăn nắp và   rất khoa học.Với biện pháp này, các kỹ  năng cần có luôn được củng cố  và  hoàn thiện một cách chính xác. 2.2.2: Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ thông qua hình thức giao tiếp   hằng ngày        Cách giao tiếp không chỉ quan trọng trong những năm trẻ đi học mà còn   rất quan trọng đối với cuộc sống sau này của trẻ. Kỹ năng giao tiếp là một kỹ  năng nền tảng để giúp trẻ nhận biết giá trị sống và hình thành kỹ năng sống.  * Kỹ năng giao tiếp với bạn bè:         Lớp học chính là một thế giới thu nhỏ của xã hội chúng ta ngày nay, là   nơi đa văn hóa, đa tính cách và cũng đa sở thích.  Để giúp trẻ phát triển kỹ năng chơi với các trẻ khác tôi tạo môi trường  cho trẻ giao tiếp với nhau và tạo tình huống cho trẻ tự giải quyết. Và tôi đưa  ra “tiêu chí” không tranh giành đồ  chơi với bạn. Trong tiêu chí này tôi lên kế  hoạch rèn cả lớp nói chung, cứ vào các buổi chiều bình bầu và nhận xét buổi   chơi, tôi cho cả  lớp nhận xét xem trong giờ chơi bạn nào còn tranh giành đồ  chơi thì bạn đó sẽ  không được cắm cờ, cuối tuần bạn nào có nhiều cờ  sẽ  được bé ngoan, ngoài ra trong các giờ  chơi, giờ  đón trả  trẻ, trẻ  nào có biểu  hiện hành vi sai trái là tôi giải thích và sửa ngay cho trẻ, việc làm đó rất tốt   đối với trẻ vì trẻ biết được điều gì nên làm và điều gì không nên làm và nhân  cách sống của trẻ sẽ được phát triển toàn diện hơn.  Ngoài ra tôi còn sưu tầm một số  câu chuyện, bài thơ  mang tính giáo   dục. Giúp trẻ  thấy các nhân vật trong câu truyện , bài thơ  khi giao tiếp với   nhau như thế nào? Bài thơ: “ Biết cảm ơn xin lỗi” Cảm ơn xin lỗi                      Dù với ai cũng phải Ai giúp cho cái gì                 Xin lỗi cho đàng hoàng Nhớ cảm ơn ngay đi             Muốn trở thành bé ngoan Lỡ làm điều sai trái              Phải biết làm như vậy. Tính cách mỗi trẻ  mỗi khác, có những trẻ  hoạt bát, hiếu động nhưng  cũng có những trẻ chậm chạp, thụ động hay quá nóng nảy… Vì thế giáo viên  cần phải biết rõ tính cách của từng trẻ để  có thể cho các trẻ  chơi với những   người bạn thích hợp với cá tính nhằm tránh  xảy ra những va chạm về  tính  cách.           Ngoài ra tôi còn dạy trẻ “Giao tiếp” bằng mắt và nở một nụ cười thân   thiện, tự nhiên. Dạy trẻ phải luôn luôn giữ lời hứa khiến cho buổi nói chuyện 
  7. trở nên thật thoải mái thật chân thành khi tham gia những hoạt động vui chơi  ở lớp. * Kỹ năng chào hỏi khi giao tiếp với người lớn tuổi         Đối với trẻ, người lớn cần tập cho trẻ những lời nói lễ phép và tự nhiên,   không quá màu mè và hình thức, cũng không được phép cộc lốc và suồng sã.  Điều này trẻ sẽ học được một cách hiệu quả thông qua cách giao tiếp và ứng   xử của bố, mẹ, người thân trong gia đình, cô giáo và người khác.  Chúng ta sẽ không thể kiểm soát được khi người lớn trong gia đình nói   năng thô lỗ và không có hành vi lịch sự tối thiểu.  Tôi quyết định đưa kỹ năng  chào hỏi và kỹ năng giao tiếp vào những giờ đón, trả trẻ:  Ví dụ: Thời gian đầu nhiều trẻ chưa có kỹ năng chào hỏi và giao tiếp   với cô cùng bạn bè, tôi chủ động chào trẻ trước “Cô chào bạn Quang Hoàng”  thì lúc đó trẻ  sẽ  biết đáp lại câu “Con chào cô  ạ’ và tôi nhắc trẻ  “Con chào  bố, mẹ  đi để  vào lớp với cô nào”. Hoặc khi trẻ  đang chơi mà có khách đến  lớp tôi nhắc trẻ “Các con chào bác, cô… đi nào” cứ như vậy dần dần trẻ có  thói quen chào cô, chào bố mẹ và chào khách, khi đến lớp, khi ra về. Còn với  trẻ chưa có kỹ năng giao tiếp nhiều với cô, với bạn tôi thường xuyên gần gũi   trẻ hơn, trò chuyện với trẻ nhiều hơn về những người thân của trẻ,  về  thế  giới xung quanh từ đó trẻ sẽ mạnh dạn hơn khi tiếp xúc và giao tiếp với cô,   với bạn bè và người khác.         Ngoài ra tôi còn sưu tầm những bài thơ, câu truyện, bài hát có nội dung   giáo dục về  lễ  giáo với nội dung cụ  thể  như:   Bài thơ" Che mưa cho bạn,   Phải là hai tay, Cảm ơn xin lỗi" và giúp trẻ học thuộc các bài thơ đó. Qua đó   giúp trẻ có những hành vi và kỹ năng tốt qua các bài thơ, câu chuyện .        Ngoài ra tôi còn cho trẻ tham gia trò chơi đóng vai để trải nghiệm những   kỹ năng chào hỏi và giao tiếp.Tạo tình huống cụ thể để giúp trẻ giải quyết và  chọn cách giao tiếp với người lớn cho phù hợp. 2.2.3: Lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua  các hoạt động hàng ngày. *Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động học: ­ Thông qua hoạt động làm quen văn học: Với tiết kể chuyện “Gấu  con bị  sâu răng” Tôi kể  cho trẻ nghe, đặt câu hỏi đàm thoại để  trẻ  trả  lời.  Cho trẻ  nhập vào vai các nhân vật trong câu  chuyện,  giáo dục trẻ  làm việc  theo nhóm, biết lắng nghe ý kiến của người khác, tôn trọng hợp tác với bạn  bè, với những người xung quanh.
  8.  ­ Thông qua hoạt động tạo hình, âm nhạc: Như nhảy múa, ca hát, vẽ  tranh…Tôi sẽ kích thích trẻ bộc lộ những suy nghĩ, bộc lộ tình cảm, khả năng  tưởng tượng và sáng tạo của mình.    Ví dụ: Trong tiết vận động múa minh họa cho bài hát “Cô giáo miền xuôi ” + Trẻ nói: “Cô ơi con không biết múa” + Cô: “Thế con có yêu quý các cô giáo của mình  không nào? À con yêu  quý cô giáo của mình, vậy chúng mình cùng nhau múa nhé.”  Từ  những lời  động viên khích lệ đó trẻ  sẽ  có hứng thú và tự  tin hơn, mạnh dạn hơn trong  hoạt động để  từ  đó trẻ  sẽ  mạnh dạn, chủ  động, tự  tin trong những giờ  hoạt   động khác… ­ Thông qua hoạt động khám phá xã hội – khám phá khoa học:  Qua bài tìm hiểu động vật sống trong rừng  “Hổ, báo, cừu, khỉ, voi…”   Trẻ  biết đặc điểm riêng của từng con vật từ  những câu hỏi cô đưa ra như:   Các con có biết con voi có mấy chân và con voi sống ở đâu? Con voi thích ăn  gì các con nhỉ?... Trẻ trả lời “Thưa cô con voi thích ăn cỏ ạ” cứ như vậy trong  một tiết học với hàng loạt câu hỏi cô đưa ra thì trẻ  nào cũng được tham gia,   với trẻ ít nói cô gọi nhiều và thường xuyên hơn. ­  Thông qua hoạt động phát triển thể  chất:  Tôi cùng các giáo viên  khác tổ chức cho trẻ các vận động như: Bò qua chướng ngại vật, đi trên ghế  thể dục , chuyền bóng, bật qua vật cản, ném trúng đích thẳng đứng…qua đó  rèn cho trẻ  các kỹ năng nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự  tin, khéo léo khi tham gia   vận động. biết bảo vệ sức khỏe.  ­  Thông qua hoạt động “Làm quen với toán”: với  đề  tài “ Sắp xếp  theo quy tắc” tôi sử  dụng trò chơi gắn các dụng cụ  của nghề  sắp xếp theo  quy tắc, đội nào gắn đúng nhanh đội đó sẽ  chiến thắng. Như  vậy buộc trẻ  phải thảo luận với nhau,  hợp tác mới hoàn thành bài tập và trong giờ học nào   tôi cũng sưu tầm những đồ dùng sáng tạo.  * Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động góc: ­ Như  chúng ta đã biết  ở  trẻ  mẫu giáo hoạt động vui chơi giữ  vai trò  chủ  đạo, thông qua hoạt động này bộc lộ  rõ nét những hành vi tốt và không  tốt. Vì vậy tôi luôn uốn nắn và sửa sai ngay cho trẻ  trong khi chơi đặc biệt  qua các trò chơi ở góc phân vai. Ví dụ: Qua góc chơi “bán hàng” thông qua trò chơi này ngoài việc trẻ  hiểu được công việc của người bán hàng và mua hàng trẻ còn phải biết thưa  gửi lễ  phép. Giai đoạn đầu trẻ  còn chưa mạnh dạn trong khi chơi, tôi nhập  vai làm người bán hàng khi cháu mua hàng tôi chủ động hỏi trẻ “ Bác  ơi bác  mua thứ gì nào? Trẻ nói mua rau – trả tiền nè” Tôi phải sửa ngay cho trẻ. Khi  
  9. mua hàng con phải hỏi “Bác ơi bao nhiêu tiền một bó rau, bán cho tôi một bó   ạ” nếu trẻ đã biết thưa gửi lễ phép tôi sẽ gắn cho trẻ một bông hoa vào áo và   cuối ngày nhận xét trước lớp. Với hình thức này các cháu rất thích. ­ Thông qua hoạt động vui chơi, tôi dạy  ky năng sông h ̃ ́ ợp tác cho trẻ:   Ở  độ  tuổi này trẻ  bắt đầu quan tâm đến bạn trong nhóm. Tình bạn  ổn định  bắt đầu nảy sinh. Chúng sẵn sàng chia sẻ  với bạn và tình bạn trở  nên quan   trọng với trẻ. Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng  làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ  đối với trẻ  lứa tuổi này.   Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn. Ở  kỹ năng này tôi sử dụng trò chơi để dạy trẻ:  Ví dụ: Trong góc chơi học tập. Mỗi trẻ sẽ được phân công theo nhóm  để nhận nhiệm vụ:  bạn nào xếp hoa bằng hột hạt, bạn nào học thẻ số, thẻ  chữ….Từ  đó trẻ  sẽ  học và làm việc cùng nhau theo nhóm và biết tuân thủ  theo mệnh lệnh của nhóm trưởng. Với hoạt động này tôi thường  xuyên tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi  như: Cô giáo, bác sỹ, xây dựng  doanh trại, xây dựng ngã tư đường phố…Các   trò chơi đóng kịch.Thông qua đó để giáo dục những kỹ năng sống cho trẻ, bởi  trong các trò chơi xã hội này trẻ  sẽ  được hình thành và phát triển trí tưởng  tượng, sáng tạo. * Thông qua hoạt động ngoài trời: Tôi đưa ky năng s ̃ ống tự tin: Một  trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin,   lòng tự  trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ  cảm nhận được mình là ai, cả  về  cá  nhân cũng như  trong mối quan hệ  với những người khác. Kỹ  năng sống này  giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.  Ví dụ:  Cô tổ  chức cho 2 đội chơi trò chơi  “Kéo co”,  ở  trò chơi này  cháu thực hiện đúng luật chơi. Mỗi đội luôn tự tin mình sẽ chiến thắng và tìm  mọi cách động viên khích lệ trong nhóm cố gắng có ý chí vươn lên * Thông qua hoạt động chiều:  Hoạt động chiều chính là khoảng thời  gian trẻ  được hướng dẫn các kĩ năng sống một cách cụ  thể  nhất. Tôi đã lựa  chọn đưa vào một số kĩ năng sống để giáo dục trẻ như: kĩ năng gấp quần áo,   kĩ   năng   tự   mặc   và   cởi   quần   áo,   kĩ   năng   tự   mang   giày   dép,   kĩ   năng   gấp  chăn...Trẻ  sẽ  có nhiều thời gian để  được thực hành và sửa sai, điều này góp   phần khắc sâu cho trẻ những gì đã học được. * Hướng dẫn dạy trẻ kỹ năng sống thông qua các hoạt động khác     ­ Trong giờ đón trả trẻ: Tôi cùng các giáo viên khác trò chuyện với trẻ,   giáo dục trẻ  kỹ  năng giao tiếp, kỹ  năng tự  cất giầy dép, ba lô đúng nơi quy 
  10. định, ngoài ra tôi còn dạy trẻ biết chào hỏi, biết nói lời xin lỗi, biết nói cảm  ơn, không nói leo khi người khác nói, không tự tiện lấy đồ và sử dụng đồ của  người khác…  Ví dụ: Khi phụ huynh đưa trẻ đến lớp, tôi đến chào phụ huynh, chào trẻ và  yêu cầu trẻ cất đồ  dùng cá nhân của mình như: Con hãy cất mũ và áo vào ba  lô của mình nào, Con hãy tự  cất cặp của mình vào tủ  nhé. Khi trả  trẻ  cũng  vậy, tôi yêu cầu trẻ tự mặc áo khoác trước khi về. Trong quá trình trẻ mặc áo  tôi hướng dẫn cho trẻ cách mặc và cài áo. Như  vậy đó là cơ  hội để  tôi giáo  dục kĩ năng tự phục vụ cho trẻ.      ­ Trong giờ  thể  dục sáng:  Khi cho trẻ  đi từ  trên tầng về  dưới sân  trường tôi kết hợp kỹ năng đi lên, xuống cầu thang cho trẻ đi đúng  theo hàng  lối, không chen lấn xô đẩy bạn…                          ­ Trong giờ  vệ sinh: Tôi dạy trẻ  các kỹ  năng tự  phục vụ  như: Kĩ năng  rửa tay bằng xà phòng  dưới vòi nước sạch, lau mặt bằng khăn sạch , cách  chải tóc, đánh răng và đi vệ sinh đúng nơi quy định…       ­ Trong giờ  ăn tôi dạy trẻ  những kỹ  năng tự  lao động phục vụ: trẻ  tự  dọn bàn ghế để  ăn, tự  đi lấy bát thìa theo số  lượng của tổ mình, khi ăn, biết   ăn uống lịch sự, không nói chuyện trong khi ăn, biết ăn hết suất, không làm  rơi vãi khi ăn, khi ăn nhai nhỏ  nhẹ  không gây tiếng  ồn, biết mời trước khi   ăn,biết giúp người lớn dọn dẹp...      ­ Trong giờ  ngủ, tôi cũng linh hoạt rèn luyện cho các cháu một số  kĩ  năng tự phục vụ như trải chiếu đúng vị trí, ngăn nắp, gọn gàng. Các cháu còn  tự  lấy gối và chăn để  đắp vào trời lạnh. Sau khi ngủ  dậy, các cháu cũng tự  học cách xếp chăn gối của mình và cất ngay ngắn vào đúng vị trí. Các cháu sẽ  cùng nhau thu dọn, xếp chiếu để cất, đó cũng là cơ hội để rèn cho trẻ kĩ năng  hợp tác, làm việc cùng nhóm bạn. Ngoài ra trong lúc trẻ  ngủ, trẻ  cũng học   được cách giữ im lặng tránh làm ảnh hưởng đến giấc ngủ của người khác.        ­ Nêu gương cũng là một hoạt động đặc biệt để  giáo dục các kĩ năng  sống cho trẻ. Thông qua hoạt động nêu gương, trẻ biết được những việc làm  tốt và những việc làm chưa đúng từ đó có sự điều chỉnh hành vi của mình sao   cho phù hợp. Trẻ học cách sửa chữa những hành vi lệch lạc, không đúng với   các chuẩn mực điều này giúp trẻ  thích nghi tốt hơn khi lớn lên cùng với xã   hội.      2.2. 4: Trang trí môi trường lớp học để  giáo dục kĩ năng sống cho  trẻ Môi trường trong lớp học được phân chia thành các góc phù hợp với  nhu cầu học và chơi của trẻ. Các góc được bố trí, sắp xếp hợp lý,  thuận tiện  
  11. và linh hoạt thay đổi: các góc cần hoạt động yên tĩnh bố trí xa các góc ồn ào.   Đồ  dùng, đồ  chơi và các nguyên vật liệu thỏa sức cho trẻ  sáng tạo và khám  phá như lá cây, hột hạt, vỏ ốc... các hình ảnh,  trang trí trong lớp đều rất gần  gũi với thế giới của trẻ nên trẻ dễ dàng tiếp cận. Ví dụ:  Ở  góc học tập  tôi đã trang bị, đóng các kệ  sách  trang trí đẹp  với nhiều tên gọi khác nhau theo chủ  đề  : “Thư  viện trường mầm non”; “tủ  sách gia đình”;  “những con vật đáng yêu”; thiết kế  phân chia nhiều ngăn để  sách, truyện nhiều kích cở, vừa tầm trẻ.Khi trẻ  về  góc chơi trẻ  xem sách  hoặc kể chuyện sáng tạo qua các hình vẽ trong tranh..  Ngoài ra các sản phẩm của cô và trẻ được trưng bày trong không gian   lớp khích lệ tinh thần ham học hỏi và cố gắng của trẻ. Ngoài việc bố trí các  góc thì tôi cũng chú ý đến khu vực nhà vệ sinh, đây sẽ là nơi rèn luyện cho trẻ  các kĩ năng vệ  sinh cá nhân như  đánh răng, rửa mặt, rửa tay, tự đi vệ  sinh...   Giáo viên luôn thông thoáng nhà vệ  sinh, trên tường có trang trí các hình  ảnh  gần gũi, các cách làm vệ sinh cá nhân cho trẻ quan sát. Mỗi bệ rửa tay có giá   đựng xà phòng, bàn chải đánh răng được gắn kĩ hiệu rõ ràng cho từng trẻ theo  tổ dựa vào màu sắc...giá khăn cũng được đánh dấu kĩ hiệu cá nhân cho trẻ dễ  quan sát và sử dụng. Khu vực nhà kho là nơi trẻ cất đồ dùng cá nhân của mình. Tôi đã bố trí  tủ  cá nhân trẻ  sao cho trẻ  dễ  lấy, dễ  cất các vật dụng cá nhân như  mũ, áo,  cặp, chăn, gối... Mỗi tủ đều có tên và kí hiệu của trẻ.  Với cách làm như trên,  số  trẻ trong lớp đã dần dần học được các kĩ năng tự  phục vụ  mà không cần  đến sự giúp đỡ của giáo viên. Nhiều bậc cha mẹ  rất e ngại khi tham gia vào quá trình giáo dục trẻ,  hơn nữa phần lớn cha mẹ thường lúng túng khi lựa chọn hình thức thực hiện.  Ngoài cửa lớp tôi đã trang bị các bảng thông tin dành cho phụ huynh , các bậc   cha mẹ  có thể  đọc, quan sát theo dõi dễ  dàng giúp nhà trường tuyên truyền   đến cha mẹ  của trẻ  những kết quả  giáo dục  ở  con mình, tạo điều kiện cho  giáo viên trao đổi hai chiều với các bậc cha mẹ  những vấn đề  có liên quan   đến trẻ, các thông tin của lớp, thông tin sức khỏe, ngược lại các bậc cha mẹ  có thể ghi chép những yêu cầu, đề nghị, thông tin cần trao đổi với giáo viên.. 2.2.5. Tuyên truyền, phối kết hợp với các bậc phụ huynh cùng giáo  dục kỹ năng sống cho trẻ.  Hiểu rõ được vai trò của các bậc phụ huynh cũng góp phần không nhỏ  trong việc giáo dục các kỹ  năng sống cho trẻ. Vì vậy ngay từ  đầu năm khi  mới nhận lớp tôi cũng đã trao đổi với các bậc phụ huynh về việc giáo dục kỹ  năng sống cho trẻ. Và thống nhất với các phụ huynh về những biện pháp giáo 
  12. dục ở nhà cho trẻ để cùng uốn nắn trẻ ngay và kịp thời. Đặc biệt những phụ  huynh ít quan tâm đến con cái, tôi tìm cách để  gặp và trao đổi về  thành tích   học tập của cháu ở lớp và đồng thời hỏi thăm về nề nếp sinh hoạt, sở thích… của cháu ở  nhà Hay đối với những phụ huynh nuông chiều con cái, làm giúp  con tất cả mọi việc tôi cũng trao đổi với phụ huynh rằng . Phụ huynh nên để  trẻ tự làm những công việc đơn giản phục vụ bản thân như tự xúc cơm ăn, tự  mặc quần áo, mặc dép...Như  vậy trẻ  sẽ  tự  tin, mạnh dạn khi tham gia hoạt   động với bạn. Với việc làm kiên trì đó tôi đã tác động việc học của cháu  ở  lớp cũng như việc rèn nề nếp ở nhà, vì tôi thấy rằng một số trẻ có khó khăn   trong việc kết bạn hoặc chia sẻ với bạn trong nhóm lớp lại có thể hình thành  mối liên kết thân thiết mới trong môi trường gia đình của trẻ. Chính vì vậy  cha mẹ có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc bằng cách tạo các mối liên  kết bạn bè tại gia đình. Một số kỹ năng có thể  phối hợp cùng cô giáo để dạy  trẻ  như: kỹ năng cất dép, kỹ năng cất quần áo, vệ sinh cá nhân...Cha mẹ cần  có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo viên và năng khiếu bẩm sinh của trẻ  bên cạnh đó cha mẹ  cần dạy trẻ  từ  từ  để  trẻ  hiểu và cha mẹ  chính là tấm  gương sáng để trẻ noi theo. Trong gia đinh, vi ̀ ệc dạy trẻ những nghi thức văn  hóa trong ăn uống rât cân thiêt. Đ ́ ̀ ́ ể  trẻ  có được những kỹ  xảo, thói quen sử  dụng đồ dùng một cách chính xác và thuần thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi   trẻ phải thường xuyên luyện tập, mà còn phải đáp ứng được những nhu cầu  của trẻ, đó là cung cấp cho trẻ  những mâu hành vi văn hóa, nh ̃ ững hành vi   đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung quanh trẻ. Trước  hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với   trẻ và đảm bảo an toànn cho trẻ. Tao điêu kiên tôt nhât cho tre vui ch ̣ ̀ ̣ ́ ́ ̉ ơi và học   tập.    * Hiệu quả sau khi áp dụng đề tài    Như vậy, qua một thời gian tiến hành đề tài“Một số giải pháp giáo dục  kỹ năng sống cho trẻ 4­5 tuổi” tôi đã tìm ra những giải pháp tích cực phù hợp  để  nâng việc giáo dục kỹ  năng sống cho trẻ  và điều đó đã cho được những  kết quả sau: Đầu năm Cuối năm học Nội dung  Số trẻ /  Số trẻ/ Tỉ   lệ  Tỷ lệ  khảo sát Tổng  Tổng  đạt  đạt số trẻ số %     % 1. Kỹ năng giao tiếp, chào hỏi 22/39 56,4% 37/39 94,8% 2. Kỹ năng tự lập, tự phục vụ. 20/39 51,2% 36/39 92,3%
  13. 3.Kỹ   năng   hợp   tác,   hoạt   động   theo  20/39 51,2% 35/39 89,7% nhóm 4. Trẻ mạnh dạn tự tin 21/39 53,8% 36/39 92,3% 5. Kỹ năng nhận thức 22/39 56,4% 36/39 92,3% 6. Kỹ năng vận động 22/39 56,4% 37/39 94,8% 7. Kỹ năng thích nghi 21/39 53,8% 35/39 89,7% 8. Kỹ năng vệ sinh  23/39 58,9% 37/39 94,8% 3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của đề tài Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là quá trình giáo dục lâu dài, ở  mọi lúc mọi nơi và rất quan trọng  vì  giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên   trong hệ thống giáo dục quốc dân tạo những tiền đề cho việc hình thành nhân  cách con người mới. Việc giáo dục kỹ năng sống  cho trẻ   4­ 5 tuổi thông qua  mọi hoạt động trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày ở trường mầm non và ở  gia đình trẻ.Như  vậy, qua một thời gian thực hiện đề  tài: “Một số  giải pháp  giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 4­5 tuổi”, đề tài đã mang lại những ý nghĩa nhất  định. Đề tài đã chỉ ra được những biện pháp cụ thể để giúp giáo dục những kĩ   năng sống cần thiết cho trẻ  4  ­5  tuổi. Đó là những kĩ năng về  giao tiếp, kĩ  năng tự phục vụ, kĩ năng nhận thức, kĩ năng hợp tác, kĩ năng thích nghi...Tất   cả  sẽ  là vốn kinh nghiệm sống cho trẻ, để  trẻ  có thể  hòa nhập tốt vào cuộc  sống xã hội mà không bị bỡ ngỡ, lo sợ. Đề  tài còn là cơ  hội để  tuyên truyền đến các bậc phụ  huynh về  tầm   quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ, tạo ra sợi dây liên kết giữa   gia đình và nhà trường nhằm hướng đến mục tiêu chăm sóc, giáo dục trẻ tốt   nhất. Với đề  tài này, đây sẽ  là nguồn tư  liệu cho tất cả  các giáo viên đang   thực hiện trách nhiệm chăm sóc, giáo dục trẻ. Các giáo viên có thể vận dụng   các biện pháp đã chỉ ra trong đề tài để áp dụng vào nhiệm vụ giáo dục kĩ năng   sống cho trẻ   ở nhóm lớp mình phụ  trách. Tất cả  sẽ  góp phần nâng cao chất  lượng chăm sóc giáo dục trẻ, đặc biệt là tiến tới trang bị  cho trẻ  những kĩ  năng sống cần thiết để bước vào đời.    3.2. Đề xuất – kiến nghị      Từ  những việc làm cụ  thể  và kết quả  đạt được như  vậy để  nâng cao   chất lượng dạy kỹ  năng sống cho trẻ   ở  các trường mầm non nói chung và  trường mầm non nơi tôi giảng dạy nói riêng. Tôi xin mạnh dạn đề  xuất một   số ý kiến sau.
  14. * Đối với phòng giáo dục đào tạo: + Thường xuyên xây dựng kiến tập,  dự  giờ  chuyên đề  kỹ  năng sống  (kỹ năng tự phục vụ) để tạo điều kiện cho giáo viên học tập và nâng cao trình  độ chuyên môn hơn nữa. *  Đối với nhà trường: + Nhà trường cần tăng cường cơ sở vật chất, thu hút trẻ và phụ huynh,  trang bị  đồ  dùng, đồ  chơi phục vụ  cho hoạt động giảng dạy trong năm học  mới tốt hơn.    Trên đây là một số kinh nghiệm dạy trẻ kỷ năng sống mà tôi đã rút ra  được trong quá trình giảng dạy nhằm giúp trẻ  phát triển   mọi mặt  về  đạo  đức, nhân cách, phẩm chất, thẩm mỹ, trí tuệ và ngôn ngữ. Với khuôn khổ một  bài viết nhỏ, vấn đề chỉ dừng lại ở một phạm vi hạn chế, chưa thể bao quát  hết được tất cả. Đồng thời trong quá trình viết vẫn còn những thiếu sót nhất  định, tôi rất mong được sự  góp ý xây dựng của  nhà trường, phòng Giáo dục  và đào tạo giúp tôi ngày càng có nhiều sáng kiến kinh nghiệm hay trong giảng dạy. Tôi xin chân thành cảm ơn !
  15. XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG .................................................................................................................. .............................. ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………............................................................................ ............................................................................................................................ ............................................................................................................................ ............................................................................................................................ ............................................................................................................................ ............................................................................................................................ ............................................................................................................................ ..............................
  16. XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GIÁO DỤC ………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………….................................. …………………………………………………………..
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2