Mục lục<br />
<br />
Phát triển<br />
<br />
Kinh tế - Xã hội<br />
Đà Nẵng<br />
Số 84/2016<br />
ISSN 1859 - 3437<br />
<br />
KINH TẾ - XÃ HỘI ĐÀ NẴNG<br />
2. Đà Nẵng dấu ấn 20 năm<br />
Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng<br />
<br />
Tổng biên tập<br />
TRẦN ĐỨC ANH SƠN<br />
<br />
10. Phát huy vai trò đầu tàu của Đà Nẵng trong liên kết phát triển công nghiệp<br />
vùng kinh tế trọng điểm miền Trung<br />
Dương Đình Giám - Đặng Đình Đức<br />
<br />
Phó Tổng biên tập kiêm Thư ký Tòa soạn<br />
VÕ VĂN HOÀNG<br />
<br />
18. Vai trò động lực của kinh tế tư nhân trong sự phát triển của thành phố<br />
Đà Nẵng<br />
Nguyễn Phú Thái - Nguyễn Việt Quốc - Hà Mai Linh Phùng<br />
<br />
HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP<br />
<br />
23. Xây dựng và phát triển văn hóa, văn minh đô thị Đà Nẵng giai đoạn<br />
2016 - 2020<br />
<br />
TS. Huỳnh Huy Hòa<br />
<br />
Bùi Văn Tiếng<br />
<br />
TS. Nguyễn Văn Hùng<br />
TS. Võ Duy Khương<br />
TS. Hồ Kỳ Minh<br />
TS. Trần Đức Anh Sơn<br />
ThS. Nguyễn Quang Trung Tiến<br />
ThS. Bùi Văn Tiếng<br />
<br />
MIỀN TRUNG - TÂY NGUYÊN<br />
28. Liên kết nội vùng trong việc liên kết đào tạo và phát triển nguồn nhân lực<br />
ở Tây Nguyên<br />
Lê Văn Đính<br />
<br />
TS. Nguyễn Phú Thái<br />
ThS. Nguyễn Hữu Thông<br />
<br />
35. Giải pháp phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở huyện Phú Vang,<br />
tỉnh Thừa Thiên Huế<br />
<br />
Bìa và trình bày<br />
HOÀI AN<br />
<br />
Nguyễn Hữu Lợi<br />
Nghiên cứu - trao đổi<br />
40. Địa danh học - Câu chuyện lịch sử<br />
<br />
Tòa soạn<br />
Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội<br />
Đà Nẵng<br />
Tầng 28, Trung tâm Hành chính<br />
TP. Đà Nẵng, 24 Trần Phú, Đà Nẵng<br />
ĐT: 0511 3 840 019<br />
E-mail: tcktxhdanang@yahoo.com;<br />
tcktxhdanang@gmail.com<br />
Website: www.dised.danang.gov.vn<br />
<br />
Phát hành và quảng cáo<br />
<br />
Cao Chư<br />
49. Bàn thêm về văn bản và cách hiểu hai thi phẩm của Tả tướng Nguyễn<br />
Nghiễm (ở miếu Quan Thánh - Hội An)<br />
Võ Vinh Quang<br />
56. Ý thức chủ quyền biển đảo của cư dân Thừa Thiên Huế qua văn học<br />
dân gian<br />
Trần Nguyễn Khánh Phong<br />
<br />
ĐT: 0511 3 840 019<br />
<br />
Giấy phép xuất bản<br />
Số 371/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền<br />
thông cấp ngày 07/8/2015. In tại Trung tâm In<br />
Thông tấn Đà Nẵng<br />
Cơ quan TTXVN khu vực MT-TN. Kích thước<br />
20.5 x 28.5 cm. 72 trang. Mỗi tháng 01 số.<br />
<br />
Giá: 20.000 đồng<br />
<br />
VĂN BẢN MỚI<br />
TIN TỨC - SỰ KIỆN<br />
TỔNG MỤC LỤC TẠP CHÍ NĂM 2016<br />
Ảnh bìa 1: NSNA. Hà Quốc Tấn<br />
<br />
Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng<br />
<br />
ĐÀ NẴNG DẤU ẤN 20 NĂM<br />
<br />
N<br />
<br />
? Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng<br />
<br />
gày 1.1.1997 trở thành một ngày<br />
trọng đại khi thành phố Đà Nẵng<br />
được tách từ tỉnh Quảng Nam - Đà<br />
Nẵng thành một đơn vị hành chính<br />
trực thuộc Trung ương theo Nghị quyết Kỳ họp thứ<br />
10 ngày 6.1.1996 của Quốc hội khóa IX. Sự kiện hành<br />
chính này mở đầu một giai đoạn phát triển đặc biệt,<br />
đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng: Đà Nẵng từ<br />
một thành phố loại 2 thuộc tỉnh trở thành thành phố<br />
trực thuộc Trung ương (1997) và đã nhanh chóng<br />
vươn mình thành đô thị loại I cấp quốc gia (theo<br />
Quyết định số 145/2003/QĐ/TTg ngày 15.7.2003 của<br />
Thủ tướng Chính phủ). Nghị quyết số 33/NQ-TW của<br />
Bộ Chính trị đã ban hành ngày 16.10.2003 về “Xây<br />
dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ<br />
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, qua đó, xác<br />
định phương hướng, nhiệm vụ: “Xây dựng thành phố<br />
Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của<br />
cả nước; là trung tâm kinh tế - xã hội lớn của miền<br />
Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương<br />
mại, du lịch và dịch vụ; là thành phố cảng biển, đầu<br />
mối giao thông quan trọng về trung chuyển vận tải<br />
trong nước và quốc tế; trung tâm bưu chính - viễn<br />
thông, tài chính - ngân hàng; một trong những trung<br />
tâm văn hóa - thể thao, giáo dục - đào tạo và khoa<br />
học - công nghệ của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí<br />
chiến lược quan trọng về quốc phòng - an ninh của<br />
khu vực miền Trung và cả nước”.<br />
20 năm không phải là một chặng đường dài, đặc<br />
biệt là khi đặt nó trong tiến trình lịch sử phát triển<br />
của mảnh đất này… Thế nhưng đối với thành phố<br />
Đà Nẵng, nó thực sự là 20 năm “lột xác” ngoạn mục<br />
để ghi những dấu ấn hoàn toàn mới, diện mạo mới,<br />
thành tựu mới trên nhiều lĩnh vực để tạo nên một<br />
“thành phố mới”, đưa Đà Nẵng từ một đô thị hạng hai<br />
trở thành một trong năm đô thị lớn nhất của cả nước<br />
và là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của<br />
<br />
2<br />
<br />
Phaùt trieån<br />
<br />
Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
<br />
vùng miền Trung - Tây Nguyên; làm nên thương hiệu<br />
“Đà Nẵng - Thành phố đáng sống”.<br />
1. Những dấu ấn về kinh tế<br />
Với chiến lược phát triển một nền kinh tế bền<br />
vững, ngay từ những năm đầu sau chia tách, Đà Nẵng<br />
đã xác định hướng đi cho mình trên nền tảng của các<br />
ngành dịch vụ, nhất là du lịch, thương mại, đồng thời<br />
tập trung thu hút đầu tư vào công nghiệp công nghệ<br />
cao, công nghệ thông tin và nguồn nhân lực chất<br />
lượng cao.<br />
<br />
Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng<br />
<br />
Trên cơ sở đó, nhìn lại chặng đường mà Đà Nẵng<br />
đã đi trong suốt 20 năm qua, có thể nói đây là hướng<br />
đi đúng, tạo nên những đột phá đầy ấn tượng cho<br />
thành phố. Các số liệu cho thấy, từ năm 1997 đến nay,<br />
kinh tế Đà Nẵng luôn duy trì được mức tăng trưởng<br />
khá cao so với mặt bằng chung của cả nước. Cùng với<br />
các chính sách hướng đến hoàn thiện môi trường đầu<br />
tư và nâng cao năng lực cạnh tranh trong giai đoạn<br />
hội nhập kinh tế quốc tế, tổng sản phẩm trên địa bàn<br />
(GRDP, giá so sánh 2010) giai đoạn 1997 - 2015 tăng<br />
bình quân 10,47%/năm, với giá trị năm 2015 ước đạt<br />
49.416 tỷ đồng, gấp gần 6 lần so với năm 1997. Tốc độ<br />
tăng bình quân như vậy là cao hơn so với con số bình<br />
quân cả nước (khoảng 7%/năm). Đối với giai đoạn kể<br />
từ khi chia tách tỉnh năm 1997 đến 2003, GRDP tăng<br />
bình quân 10,92%/năm. Giai đoạn này bị ảnh hưởng<br />
bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới<br />
đã làm suy giảm đầu tư nước ngoài kéo theo sự sụt<br />
giảm của GRDP. Giai đoạn 2004 - 2010, Đà Nẵng trở<br />
thành đô thị loại I năm 2003 đã góp phần kéo theo<br />
sau đó sự tăng trưởng tốt nhất của GRDP thành phố,<br />
bình quân đạt 11,11%/năm. Đặc biệt, năm 2005, tốc<br />
độ tăng trưởng GRDP đạt đến 14,21%, cao nhất trong<br />
cả giai đoạn. Tuy nhiên, do ảnh hưởng trực tiếp của<br />
hai siêu bão Chan Chu và Xangsane, tốc độ tăng<br />
GRDP năm 2006 thấp, chỉ đạt 8,66%. Giai đoạn 2011<br />
- 2015, Đà Nẵng tiếp tục xây dựng, phát triển thành<br />
phố, thay đổi tích cực diện mạo đô thị. Tuy nhiên, tốc<br />
độ tăng GRDP có phần giảm đi, ước tăng bình quân<br />
7,77%/năm. Năm 2012, tốc độ tăng trưởng của GRDP<br />
là thấp nhất, chỉ đạt 6,17%.<br />
<br />
năm. Số liệu thống kê cho thấy tốc độ tăng trưởng<br />
vốn đầu tư bình quân giai đoạn 1997 - 2003 là 26,51%.<br />
Giai đoạn tiếp theo 2004 - 2010, tốc độ tăng trưởng<br />
bình quân của vốn đầu tư là cao nhất, đạt 30,62%.<br />
Giai đoạn 2011 - 2015 cho thấy tốc độ tăng trưởng<br />
vốn đầu tư thấp, chỉ đạt 7,25%. Tỷ trọng vốn đầu tư<br />
phát triển so với GRDP (giá hiện hành) là khá cao ở<br />
thành phố Đà Nẵng, bình quân giai đoạn 1997 - 2015<br />
là 57,24%. Giai đoạn 1997 - 2003, tỷ trọng này ở mức<br />
thấp, bình quân giai đoạn đạt 36,24%. Giai đoạn 2004<br />
- 2010, mức đầu tư hàng năm đều vượt trên mức 60%<br />
GRDP, bình quân giai đoạn là 67,93%. Giai đoạn 2011<br />
- 2015, tỷ lệ này có giảm đi, bình quân đạt 60,22%.<br />
Tính đến ngày 31.7.2016, Đà Nẵng đã thu hút<br />
được 417 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với<br />
tổng vốn đầu tư đăng ký trên 3,674 tỷ USD, vốn thực<br />
hiện gần 2 tỷ USD. Lũy kế, đến ngày 31.7.2016, thành<br />
phố có 17.589 doanh nghiệp đang hoạt động, tổng<br />
số vốn đăng ký đạt 73.851 tỷ đồng.; có 252 dự án đầu<br />
tư trong nước, tổng vốn điều lệ đăng ký trên 81 nghìn<br />
tỷ đồng.<br />
Hình 2: Quy mô và tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư<br />
phát triển trên địa bàn thành phố Đà Nẵng<br />
<br />
Hình 1: Quy mô và tốc độ tăng trưởng GRDP<br />
thành phố Đà Nẵng<br />
Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Đà Nẵng các<br />
năm 2000, 2004, 2008, 2009, 2015. Viện Nghiên cứu<br />
Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng tổng hợp<br />
<br />
Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Đà Nẵng các<br />
năm 2000, 2004, 2008, 2009, 2015. Viện Nghiên cứu<br />
Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng tổng hợp<br />
Vốn đầu tư phát triển của thành phố trong gần<br />
20 năm qua tăng mạnh, trung bình khoảng 22,76%/<br />
<br />
Trong bức tranh kinh tế đầy khởi sắc của Đà Nẵng,<br />
cơ cấu kinh tế của thành phố luôn chuyển mạnh theo<br />
hướng tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ. Đặc biệt, các<br />
ngành dịch vụ phát triển mạnh về quy mô, đa dạng<br />
về loại hình và giá trị sản xuất luôn đạt tốc độ tăng<br />
trưởng trên 12%/năm, riêng năm 2015 tăng gấp 1,5<br />
lần so với năm 2010. Những năm gần đây, Đà Nẵng có<br />
bước phát triển đột phá về du lịch, từng bước khẳng<br />
định đây là ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố.<br />
Tốc độ tăng trưởng về khách du lịch bình quân hàng<br />
năm 20,14%, tổng thu du lịch tăng bình quân 30,7%.<br />
<br />
Phaùt trieån<br />
<br />
Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
<br />
3<br />
<br />
Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng<br />
<br />
Trong đó năm 2015, tổng lượt khách du lịch tại Đà<br />
Nẵng ước đạt 4,43 triệu lượt, tăng 16,6% so với năm<br />
2014, gấp 1,86 lần so với năm 2011 (khách quốc tế<br />
tăng bình quân 25,46%, khách nội địa tăng bình quân<br />
18,56%); tổng thu du lịch ước đạt 11,8 nghìn tỷ đồng,<br />
tăng gấp 2,56 lần so với năm 2011.<br />
Cơ sở hạ tầng du lịch được đầu tư phát triển<br />
mạnh, các sản phẩm du lịch tăng cả về chất lượng,<br />
số lượng và đa dạng về loại hình. Năm 1997 chỉ có<br />
một thương hiệu quốc tế là Furama Resort Đà Nẵng,<br />
đến nay thành phố đã có hầu hết các thương hiệu lớn<br />
như: Inter Continental, Pullman, Mercure, Novotel,<br />
Hyatt Regency, Fusion Maia, Vinpearl Luxury... Các sản<br />
phẩm du lịch ngày càng đa dạng hóa và có sức hấp<br />
dẫn, trở thành điểm đến thu hút khách như: Cuộc thi<br />
trình diễn pháo hoa quốc tế (DIFC), Khu du lịch Bà Nà<br />
Hills, Công viên Châu Á, các khu vui chơi, giải trí, mua<br />
sắm, các khu nghỉ dưỡng biển... cùng với một số sự<br />
kiện đã trở thành những sản phẩm du lịch có giá trị<br />
nổi bật và thực sự hấp dẫn du khách trong nước và<br />
quốc tế.<br />
Cùng với sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế, cơ cấu<br />
vốn đầu tư phát triển cũng thể hiện sự chuyển dịch<br />
theo hướng dịch vụ, công nghiệp và nông, lâm, thủy<br />
sản. Vốn đầu tư cho ngành nông, lâm, thủy sản chiếm<br />
tỷ trọng rất nhỏ và có xu hướng giảm, đến năm 2014<br />
tỷ trọng vốn đầu tư cho nông, lâm, thủy sản chỉ chiếm<br />
0,35%. Vốn đầu tư cho ngành công nghiệp - xây dựng<br />
chiếm tỷ trọng đáng kể, năm 1997 tỷ trọng vốn đầu<br />
tư cho công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng cao<br />
nhất với 57,16%, nhưng trong giai đoạn 1997 - 2003<br />
tỷ trọng vốn đầu tư cho lĩnh vực này giảm và đạt mức<br />
thấp nhất 23,23% năm 2003. Tuy nhiên, trong giai<br />
đoạn 2004 đến nay, tỷ trọng vốn đầu tư cho công<br />
nghiệp - xây dựng đã tăng trở lại và đạt mức 50,21%<br />
năm 2014. Trong khi đó, giai đoạn 1997 - 2003, tỷ<br />
trọng vốn đầu tư cho dịch vụ tăng cao từ 41,64% năm<br />
1997 lên đến 75% năm 2003. Sau đó tỷ trọng này<br />
có xu hướng giảm trong các giai đoạn tiếp theo và<br />
đạt 49,44% vào năm 2014. Đơn cử như, tính đến nay<br />
thành phố có 76 dự án đầu tư vào lĩnh vực du lịch<br />
với tổng số vốn đầu tư hơn 12 tỷ USD, trong đó có<br />
17 dự án đầu tư nước ngoài và 59 dự án đầu tư trong<br />
nước. Nguồn doanh thu dịch vụ du lịch (khách sạn và<br />
lữ hành) tăng dần qua các năm, năm 1997 chỉ có 129<br />
tỷ đồng, năm 2000 là 214 tỷ đồng, năm 2010 là 1.095<br />
tỷ đồng và đến năm 2015 đạt 5.212 tỷ đồng, 9 tháng<br />
đầu năm 2016 đạt 4.811 tỷ đồng. Số lượt khách lưu<br />
<br />
4<br />
<br />
Phaùt trieån<br />
<br />
Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
<br />
trú khách sạn tăng mạnh qua từng năm, năm 1997<br />
với 159.000 lượt, năm 2010 với 1.358.000 lượt, năm<br />
2015 là 3.336.000 lượt và trong 10 tháng đầu năm<br />
2016 gần 4.000.000 lượt.<br />
Với quy mô dân số năm 2015 là 1.124.615 người,<br />
trong đó số người trong độ tuổi lao động chiếm<br />
khoảng trên 66,14%, cho thấy nguồn nhân lực là<br />
một trong những lợi thế phát triển quan trọng của<br />
thành phố Đà Nẵng những năm qua. Bắt nguồn từ<br />
sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động đã<br />
chuyển dịch mạnh, lao động nông nghiệp chuyển<br />
đáng kể sang các ngành khác đã làm cho lao động<br />
trong nông nghiệp giảm mạnh xuống còn 8% trong<br />
tổng số lao động có việc làm trong năm 2015 so với<br />
mức 33,48% năm 1997, lao động trong nhóm ngành<br />
công nghiệp - xây dựng hầu như không thay đổi (mặc<br />
dù tăng cao trong giai đoạn 1997 - 2003 từ 30,23%<br />
năm 1997 lên 42,35% năm 2003, nhưng sau đó lao<br />
động trong lĩnh vực này giảm xuống còn 32,40% năm<br />
2015), trong khi đó lao động trong nhóm ngành dịch<br />
vụ tăng mạnh nhất từ 37,75% năm 1997 lên 59,6%<br />
năm 2015. Lực lượng lao động trên địa bàn thành<br />
phố Đà Nẵng tăng liên tục, từ 299.574 người vào năm<br />
1997 lên 547.007 người vào năm 2015, tăng 1,83 lần.<br />
Tốc độ tăng lao động bình quân của cả thời kỳ 1997<br />
- 2015 rất thấp, chỉ đạt 3,43%/năm. Trong đó, tốc độ<br />
tăng trưởng bình quân của giai đoạn 1997 - 2003 là<br />
2,91%/năm, giai đoạn 2004 - 2010 là 3,59%/năm, giai<br />
đoạn 2011 - 2015 là 3,83%/năm.<br />
Hình 3: Năng suất lao động và tốc độ tăng năng<br />
suất lao động của thành phố Đà Nẵng giai đoạn<br />
1997 - 2015 (tính theo giá hiện hành)<br />
<br />
Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Đà Nẵng các<br />
năm 2000, 2004, 2008, 2009, 2015. Viện Nghiên cứu<br />
Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng tổng hợp<br />
2. Những dấu ấn đô thị<br />
Từ một đô thị nhỏ bé với những khiếm khuyết,<br />
không gian đô thị chỉ gói gọn trong phạm vi các<br />
<br />
Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng<br />
<br />
quận Hải Châu, Thanh Khê và một phần các quận Sơn<br />
Trà, Ngũ Hành Sơn, tương ứng với diện tích khoảng<br />
5.600 ha với điều kiện hạ tầng kỹ thuật yếu kém, Đà<br />
Nẵng thực sự đã có một cuộc “lột xác” đầy ngoạn mục<br />
sau 20 năm xây dựng và phát triển để trở thành một<br />
thành phố trẻ trung năng động, có cơ sở hạ tầng hiện<br />
đại bậc nhất miền Trung - Tây Nguyên và là một trong<br />
năm thành phố lớn nhất của cả nước, được ví như<br />
một “Singapore thu nhỏ” bên bờ biển Đông…<br />
Hai mươi năm qua, thành phố đã tập trung nguồn<br />
lực để phát triển không gian đô thị, nhất là hạ tầng đô<br />
thị. Giai đoạn 1997 - 2016 ghi dấu nhiều công trình có<br />
quy mô lớn, làm thay đổi bộ mặt thành phố Đà Nẵng<br />
văn minh hiện đại. Nhiều công trình trọng điểm có<br />
kỹ thuật hiện đại và quy mô lớn đã được đầu tư xây<br />
dựng, đưa vào sử dụng, đáp ứng yêu cầu phát triển<br />
kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới, góp phần phát<br />
triển du lịch và cải thiện chất lượng cuộc sống của<br />
người dân như: cầu Sông Hàn, cầu Thuận Phước, cầu<br />
Tuyên Sơn, cầu Trần Thị Lý, cầu Rồng, Nhà ga hành<br />
khách sân bay quốc tế Đà Nẵng, Cảng Đà Nẵng…<br />
Đầu tư phát triển hạ tầng đã kết nối khu vực nội<br />
thành với các địa phương vùng ven để những khoảng<br />
cách về địa lý không còn là lực cản đối với sự phát<br />
triển chung của thành phố. Do tốc độ phát triển đô<br />
thị, phát triển kinh tế - xã hội nhanh, dẫn đến nhu cầu<br />
sử dụng đất cho các mục đích phi nông nghiệp gia<br />
tăng, đặc biệt là đất ở và đất sản xuất kinh doanh phi<br />
<br />
nông nghiệp. Bộ mặt đô thị đã được cải thiện: nhiều<br />
khu đô thị mới ra đời, các khu du lịch tập trung cũng<br />
như khu công nghiệp lớn đã và đang hình thành tạo<br />
thế đi lên cho thành phố. Ranh giới đô thị đã lên tới<br />
gần 20.000 ha, gấp hơn ba lần ranh giới cũ, hệ thống<br />
hạ tầng được nâng cấp và phát triển khá đồng bộ.<br />
Các khu dân cư mới được quy hoạch khang trang,<br />
hiện đại, các khu phố cũ được cải tạo nâng cấp, các cơ<br />
sở kinh tế lớn được định hình rõ rệt, các cơ sở kinh tế<br />
gây ô nhiễm môi trường được đưa dần ra khỏi trung<br />
tâm; khả năng cung cấp hạ tầng điện, nước và các<br />
dịch vụ đô thị ở mức đảm bảo. Bộ mặt kiến trúc đô thị<br />
có tổ chức, theo xu hướng hiện đại, tiện dụng. Điều<br />
kiện vệ sinh môi trường được cải thiện rõ rệt.<br />
Một hệ thống giao thông đô thị bền vững liên kết<br />
giữa các khu đô thị mới và cũ của thành phố cũng đã<br />
được hình thành, mật độ giao thông về cơ bản đáp<br />
ứng được yêu cầu, chưa có tình trạng ùn ứ nghiêm<br />
trọng. Hệ thống giao thông ở Đà Nẵng đã có sự bứt<br />
phá đi lên cả về giao thông đối ngoại lẫn giao thông<br />
đối nội; cùng với việc đầu tư nâng cấp, xây dựng mới<br />
các tuyến đường giao thông huyết mạch nối với các<br />
vùng lân cận, hạ tầng giao thông đô thị cũng được<br />
xây dựng đồng bộ, hiện đại theo quy hoạch với hệ<br />
thống điều khiển, kiểm soát, giám sát giao thông<br />
thông minh và các công trình đường dây, đường ống<br />
trên nhiều tuyến đường được ngầm hóa. Tính đến<br />
tháng 9.2006 trên địa bàn thành phố có 2.021 tuyến<br />
<br />
Phaùt trieån<br />
<br />
Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
<br />
5<br />
<br />