Thái độ thực chất của Cao Bá Nhạ đối với Cao Bá Quát qua "Tự tình khúc" và "Trần tình văn"
lượt xem 8
download
Thật ra, tấn bi kịch to lớn vô bờ bến của cha con Cao Bá Đạt lại là ở chỗ, các ông tuy chưa được chiếu sáng bởi một luồng tư tưởng tự do dân chủ theo mô hình của xã hội công dân tư sản, hay xã hội dân chủ pháp quyền, nhưng trước cái án quá tàn bạo đối với họ mình, các ông bỗng nhận ra rằng đó là một luật lệ vô nhân đạo bậc nhất, vi phạm quyền sống con người bậc nhất. ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thái độ thực chất của Cao Bá Nhạ đối với Cao Bá Quát qua "Tự tình khúc" và "Trần tình văn"
- Thái độ thực chất của Cao Bá Nhạ đối với Cao Bá Quát qua "Tự tình khúc" và "Trần tình văn"
- Thật ra, tấn bi kịch to lớn vô bờ bến của cha con Cao Bá Đạt lại là ở chỗ, các ông tuy chưa được chiếu sáng bởi một luồng tư tưởng tự do dân chủ theo mô hình của xã hội công dân tư sản, hay xã hội dân chủ pháp quyền, nhưng trước cái án quá tàn bạo đối với họ mình, các ông bỗng nhận ra rằng đó là một luật lệ vô nhân đạo bậc nhất, vi phạm quyền sống con người bậc nhất. Cha con ông muốn vùng vẫy thoát ra khỏi cái luật vô lý đó bởi tư tưởng nhân văn của thời đại đã ngấm sâu vào các ông, mách bảo các ông hãy sống cho mình, thương người và biết thương thân: “Những là sợ gió e sương/ Thương thân chua xót, nghĩ đường xa xôi”. Vì thế, tha thiết yêu cuộc sống, yêu bản thân, Cao Bá Nhạ một mặt tìm mọi cách chứng minh sự trong sạch của mình, bày tỏ niềm khao khát được sống: “Tôi nghĩ rằng: kìa như con hạt dán tuy yếu ớt, còn được dung thân trong hang hốc, con trâu non tuy bé nhỏ, còn không bị ruồng bỏ, vẫn có thể dùng để tế thần sơn xuyên, huống hồ con cháu liêm lại(9) lẽ nào chẳng được đoái hoài, và cảnh ngộ nhà nho dù gặp biến cố mặc lòng, cũng không có tội tình gì đáng chết, vì thế một mặt thì gìn giữ tính hạnh, khỏi thẹn với lòng đọc sách, kể đã hàng tháng hàng năm rồi”; mặt khác ông cũngrất dũng cảm, thẳng thắn đề xuất quan điểm về một nền giáo hóa có nghiêm có khoan: “Tôi mong rằng giáo hóa vừa răn vừa dạy, theo lý nên xét cả tình. Hình phạt có nghĩa, có nhân, trong họa mở ra đường phúc” (Trần tình văn )(10). Trong lá đơn xin ân xá mà một kẻ tử tù dám viết những lời như vậy thì sao có thể quy kết là “mất hết khí tiết nhà nho”? Cần nói thêm, giữa thảm họa khủng khiếp của đại gia đình họ Cao, có lẽ, Cao Bá Nhạ là người chịu đựng cái bi kịch tinh thần giai giẳng hơn cả bố và chú: ông không thể hành động giống người cha của mình - tuân thủ quy tắc ứng xử của kinh sách thánh hiền là: “anh hùng khi gấp” thì quyết “sát thân thành nhân”. Dù bị đày đọa muôn phần, dù cái chết đã lơ lửng trên đầu, ông vẫn ý thức về bản thân, hy vọng được sống, được trở về đoàn tụ với gia đình và với mảnh vườn nhỏ năm xưa: Nỗi ly hận nói năng sao xiết, Tình tương tư nào biết bao nhiêu. Tính xem ly biệt ít nhiều,
- Thương cho mai cúc nặng điều tương tư. Nhờ trận gió gửi thư thăm hỏi, Mượn bóng giăng giãi mối ân cần. Giá đành phong nguyệt chủ nhân, Nỡ nào đầy đọa phong trần xót thương. Xin hoa chứa phong quang như cũ, Chủ nhân còn đoàn tụ có khi. Rồi càng bị “Đọa đầy một đóa hoa mai / Phẩm tiên lưu lạc trần ai lạ lùng”, càng nhớ lại hình ảnh vợ con trong giây phút biệt ly hãi hùng: Tiểu đồng thổn thức xung quanh, Thê, nhi lăn lóc bên mình khóc than. Phút nửa khắc muôn nghìn thê thảm, Trong một mình bảy tám biệt ly. nhà thơ càng thương vợ nhớ con, càng xót xa đau đớn bởi cái mặc cảm chính vì mình mà gia đình liên luỵ: Chút đau đớn khuê phòng gối lẻ, Bỗng vì đâu chia rẽ mối tơ. Liễu bồ đôi chút cành thơ, Bao giờ bìu ríu, bao giờ bồng mang? Đã cay đắng nhiều đường rộn rã, Lại nhục nhằn đến cả vợ con, Mấy năm chút nghĩa ôn tồn, Gieo đào, trả mận lòng còn bâng khuâng. Càng thương nhớ, càng nghĩ ngợi, dằn vặt, ông càng khổ tâm muôn phần. Ông tưởng tượng cảnh mình chết cũng không nhắm được mắt: “Mắt kia thác cũng còn giương/ Hồn kia
- muốn dứt còn vương nỗi này”. Có lúc ông đã định quyên sinh như cha mình: “Băng hồ rơi xuống lầm than/Thà cho một chén tân toan đi đời”, song lại tự nhủ chết đi tuy nhẹ thân, nhưng không tội gì phải chịu chết, nếu chết sau này người đời sẽ nghi ngờ là sợ có tội mà phải tự sát, và đối với ông - sống sót còn là một trách nhiệm: Ví liều quyết chẳng tiếc mình, Sạch mình đã vậy, thế tình còn nghi. Rõ ràng, chính vì ý thức rất rõ về sự trong sạch của bản thân, và về sự sống của mình còn quý giá hơn việc liều thân vô nghĩa, nhà thơ lại càng quyết phải sống, để chứng tỏ thân tâm trong sáng và nỗi oan khiên của ông cũng như của gia tộc họ Cao: “Phù sinh một sợi tơ mành / Giữ gìn di thể như hình thiên kim”. Do đó, tiếng kêu phải sống, phải trở về với đời vang lên da diết trong thơ ông. Hết ngày này đến ngày khác ông trông chờ “một bức xá thư” mà không hề tuyệt vọng. Bị bắt, bị đem ra xét xử và kết trọng tội rồi bị tống vào ngục, nhưng ông cố chứng minh sự vô tội của mình. Ông đâu biết rằng, chỉ có dưới ánh sáng của thể chế dân chủ mới thực có luật pháp công bằng, còn với bất cứ một chế độ xã hội nào mà chuyên chế và bạo lực cầm quyền (kể cả bạo lực tinh thần) thì tiếng kêu cứu của dân lành chỉ là gió thoảng thinh không. Cao Bá Nhạ từng giây từng phút quyết không cam bị biến thành sinh vật nuôi nhốt, thuần dưỡng trong cái cũi nhà tù, quyết không chịu đánh mất cá tính bởi vì ông đang sống trong bầu không khí nhân văn của một thời đại đang trên đà khẳng định con người cá nhân - mầm mống tư tưởng mới nảy sinh trong xã hội cổ truyền Việt Nam từ thế kỷ XVII, XVIII - con người khao khát sống, tin yêu cuộc sống đến hồn nhiên và không chút hồ nghi về lẽ phải: Xin hoa chứa phong quang như cũ, Chủ nhân còn đoàn tụ có khi. Trả cho sạch nợ lưu ly, Tân toan rửa hết đến kỳ cam lai. * Thế đấy, Tự tình khúc và Trần tình văn trước hết cấp cho ta hình ảnh một Cao Bá Nhạ con người văn nhân nghèo hèn nhưng lại biết thiết tha yêu cuộc sống và chỉ có một cầu mong
- nhỏ nhoi là được giải oan, trở về với đời từ trong tù ngục. Song về một phương diện khác, đấy lại cũng là một con người không chịu đánh mất bản chất trung thực bất luận hoàn cảnh bi thảm đến thế nào, một người quyết bảo vệ mình và tận trong sâu kín, vẫn khéo léo giữ gìn, không vi phạm đến hào quang của người chú mà cả dòng họ Cao cũng như biết bao người đương thời ngưỡng mộ. Khác với chú ông, tư tưởng nhân văn của Cao Bá Nhạ không bộc lộ ở bình diện con người anh hùng đối diện với cái chết-là điều thơ văn xưa thường có, mà bộc lộ ở bình diện con người đời thường đối diện với sự sống, quý giá sự sống từng giây từng phút. Và một trong những nét độc đáo của thơ văn ông chính là ở đó
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luyện thi Đại học Hóa học: Lý thuyết và bài tập về photpho và hợp chất (Bài tập tự luyện) - Thầy Ngọc
0 p | 553 | 110
-
Giáo án hóa học lớp 10 nâng cao - Bài 47 Bài thực hành số 5 TÍNH CHẤT CỦA OXI, LƯU HUỲNH
5 p | 937 | 64
-
Giáo án lớp 7 môn Âm Nhạc: ÂM NHẠC THƯỜNG THỨC: VÀI NÉT VỀ ÂM NHẠC THIẾU NHI VIỆT NAM
5 p | 689 | 59
-
Tầm quan trọng của giáp xác
5 p | 188 | 23
-
Giáo án Sinh học 10 nâng cao - VẬN CHUYỂN CÁC CHẤT QUA MÀNG SINH CHẤT
7 p | 281 | 22
-
Giáo án Sinh 11 (NC) - CÁC CHẤT ĐIỀU HOÀ SỰ RA HOA Ở THỰC VẬT BẬC CAO
5 p | 195 | 16
-
Giáo án Sinh học 10 nâng cao - ENZIM & VAI TRÒ CỦA ENZIM TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN HOÁ VẬT CHẤT
7 p | 220 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Áp dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy học môn Vật lý lớp 8
20 p | 59 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở trường mầm non Hồng Thái Tây
25 p | 33 | 9
-
Phân tích sức mạnh của tình yêu thương con người thể hiện qua “Vợ nhặt” của Kim Lân và “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài
5 p | 133 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
38 p | 43 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm giáo dục trẻ ý thức bảo vệ môi trường
15 p | 35 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm ở trường THPT Tân Kỳ
38 p | 14 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh tại trường THCS Trần Quang Khải
27 p | 36 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giáo dục phẩm chất cho học sinh lớp 1 thông qua môn Đạo Đức
22 p | 11 | 4
-
SKKN: Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng môn Ngữ văn 6
24 p | 87 | 4
-
SKKN: Một số kinh nghiệm dạy học tích hợp nhằm giáo dục ý thức, thái độ, kĩ năng sống cho học sinh trong bộ môn tin học 6 tại Trường THCS Lương Thế Vinh, huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk
30 p | 47 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn