intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: CÁC YẾU TÔ XÁC ĐỊNH TIẾN BỘ CÔNG NGHỆ TRONG NỀN KINH TẾ

Chia sẻ: Lotus_123 Lotus_123 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:25

100
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Công nghệ: Theo tổ chức phát triển công nghiệp liên hợp quốc UNIDO “công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp, bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và xử lý nó 1 cách có hệ thống và có phương pháp. Theo uỷ ban kinh tế-xã hội châu á-thái bình dương “công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và xử lý thông tin. Nó bao gồm tất cả các kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: CÁC YẾU TÔ XÁC ĐỊNH TIẾN BỘ CÔNG NGHỆ TRONG NỀN KINH TẾ

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT KHOA KINH TẾ ĐỀ TÀI KINH TẾ VĨ MÔ 2 CÁC YẾU TÔ XÁC ĐỊNH TIẾN BỘ CÔNG   NGHỆ TRONG NỀN KINH TẾ Thứ 5, ngày 17 tháng 5 năm 2012
  2. CHƯƠNG 1: TIẾN BỘ CÔNG NGHỆ I. Khái niệm: 1. Công nghệ: - Theo tổ chức phát triển công nghiệp liên hợp quốc UNIDO “công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp, bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và xử lý nó 1 cách có hệ thống và có phương pháp. - Theo uỷ ban kinh tế-xã hội châu á-thái bình dương “công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và xử lý thông tin. Nó bao gồm tất cả các kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong việc tạo ra hàng hoá và cung cáp dịch vụ. - Trong luật khoa học và công nghệ việt nam “công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành các sản phẩm Cuối cùng “Công nghệ là tất cả những gì biến đổi đầu vào thành đầu ra” 2. R&D và tiến bộ công nghệ: - R&D là từ viết tắt của research & development - nghiên cứu và phát triển; một trong những chìa khóa thành công của nhiều tập đoàn, công ty lớn trên thế giới. Nghiên cứu và phát triển bao gồm việc đầu tư, tiến hành và/ hoặc mua bán các nghiên cứu, công nghệ mới phục cụ cho quá trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Công tác nghiên cứu và phát triển cũng nhằm khám phá những tri thức mới về các sản phẩm, quá trình, và dịch vụ, sau đó áp dụng những tri thức đó để tạo ra sản phẩm, quá trình và dịch vụ mới, có tính cải tiến để đáp ứng nhu cầu của khách hàng hoặc của thị trường tốt hơn. - Tiến bộ công nghệ (TBCN) theo định nghĩa đơn giản nhất là những tiến bộ trong kiến thức công nghệ dẫn đến sự dịch chuyển trong hàm sản xuất để với một tập hợp đầu vào đã cho có thể sản xuất nhiều đầu ra hơn. Điều này có nghĩa là sự dịch chuyển hàm sản xuất theo thời gian phản ảnh hiệu quả lớn hơn trong việc kết hợp
  3. các đầu vào. Tuy nhiên nếu chúng ta nghĩ đến sản lượng như một tập hợp những dịch vụ cơ bản đem đến từ những hàng hóa sản xuất ra trong nền kinh tế, thì ta có thể nghĩ đến tiến bộ công nghệ như việc dẫn đến sự gia tăng sản lượng tương ứng với những số lượng vốn và lao động cho trước không đổi. II. Các phương pháp đo lường tiến bộ công nghệ: Theo truyền thống có 2 phương pháp đo lường TBCN ( hay TFP) từ mô hình Solow là: - Phương pháp hạch toán tăng trưởng. - Phương pháp hồi quy tăng trưởng. Tuy nhiên phương pháp này có hạn chế là giả thiết rằng quá trình sản xuất là hoàn toàn hiệu quả do đó TBCN (hay TFP) bằng hiệu giữa tăng trưởng đầu ra và đầu vào. Phương pháp mới đo lường TBCN Giả thiết quá trình sản xuất hiệu quả không hoàn toàn chính xác. Để khắc phục nhược điểm đó, các phương pháp sau được đề xuất: - Phương pháp hàm sản xuất biên ngẫu nhiên. - Phương pháp bao dữ liệu. - Phương pháp quy hoạch với ràng buộc ngẫu nhiên. III. Vai trò của R&D và mức chi tiêu cho R&D: 1. Đối với công nghệ: - Việc nghiên cứu, tìm kiếm công nghệ sản xuất, chế biến tối ưu để cho ra đời sản phẩm (cả cũ lẫn mới) với chất lượng và giá thành tối ưu cũng là một trong những vai trò quan trọng của bộ phận R&D. Ví dụ, công nghệ lên men tự nhiên khác với công nghệ thủy phân bằng a-xít trong sản xuất nước tương, công nghệ sản xuất bia tươi khác với bia “luộc”, công nghệ pha chế hương liệu trong ngành thức uống… - Nghiên cứu - phát triển công nghệ bao gồm cả hoạt động “tình báo công nghệ”, nghiên cứu bí quyết công nghệ của đối thủ để bắt chước hoặc phát triển công nghệ mới cho mình. 2. Đối với doanh nghiệp:
  4. Đối với bên trong doanh nghiệp: Tạo ra sản phẩm mới Cải thiện năng suất Giảm chi phí Đối với bên ngoài: Tăng cường khả năng cạnh tranh của DN Có trách nhiệm với môi trường Đảm bảo an toàn trong tiêu dùng Đáp ứng nhanh chóng trước những thay đổi công nghệ, nguồn lực, chính sách… Hỗ trợ cho quản trị chiến lược 3. Mức chi tiêu cho R&D: - Chi tiêu cho R&D công nghiệp chiếm từ 2 đến 3% GDP tại mỗi nước thuộc 5 nước giàu ( Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Nhật và Anh). - Khoảng 75% trong số xấp xỉ 1 triệu nhà khoa học và nhà nghiên cứu Hoa Kỳ làm việc trong lĩnh vực R&D là do các công ty tuyển dụng. - Chi tiêu R&D của các công ty Hoa Kỳ bằng 20% trong chi tiêu của họ cho đầu tư gộp và hơn 60% trong chi tiêu của họ cho đầu tư ròng. IV. Vai trò của TBCN đối với phát triển kinh tế: - Ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển, mức tăng trưởng dường như phụ thuộc cứng nhắc vào khả năng tiếp thu và sử dụng một cách hiệu quả công nghệ. Tiếp thu công nghệ nước ngoài tạo ra một bước rất quan trọng để cải tiến khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước, cũng như quốc tế. - Hoàn thiện và phát triển công nghệ đã tăng cường khả năng công nghệ của các nước đang phát triển. Các biện pháp hỗ trợ như khuyến khích tài chính là cần thiết để thúc đẩy các doanh nghiệp hoạt động nghiên cứu và phát triển, nâng cao trình độ công nghệ thông qua kiểm tra chất lượng, thử nghiệm và huấn luyện công nghệ. Trong phương diện này, đầu tư đào tạo nhân lực kỹ thuật là quan trọng, đặc
  5. biệt là đầu tư phát triển hệ thống giáo dục khoa học kết hợp với trương trình huấn luyện thực tế một cách hiệu quả và linh hoạt. - Trong giai đoạn phát triển tương đối cao, tới một thời điểm nào đó, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế sẽ phụ thuộc mạnh mẽ vào các tiến bộ khoa học và công nghệ thể hiện qua số các nhà khoa học và kỹ sư, đặc biệt là số các nhà khoa học và kỹ sư trong khu vực sản xuất, cũng như mức chi phí cho nghiên cứu và phát triển có thể đáp ứng được. Ngày nay, các công nghệ mới và ngành mới có hàm lượng khoa học và kỹ thuật cao phát triển theo hướng sau đây: Tạo ra các loại quy trình sản xuất công nghệ mới được tự động hoá, các hệ thống quản lý tự động hoá trên cơ sở kết hợp thành tựu của ngành điện tử, vi điện tử, chế tạo máy tính điện tử, những phân ngành mới của ngành chế tạo máy, gắn liền với kỹ thuật chế tạo người máy và hệ thống sản xuất tự động hoá linh hoạt, kỹ thuật Laser và các phương tiện liên lạc, viễn thông, tin học và vi tin học. Tạo ra vật liệu mới, các vật liệu chuyên dụng, các vật liệu composit hỗn hợp, vật liệu gốm, vật liệu siêu sạch, vật liệu siêu dẫn nhiệt độ cao. Mở rộng và hoàn thiện cơ sở năng lượng của nền sản xuất trên cơ sở phất triển năng lượng nguyên tử, nhiệt hạch, năng lượng sinh học, năng lượng địa nhiệt và năng lượng mặt trời. Trên cơ sở của các thành tựu của kỹ thuật gen, tạo ra các ngành sản xuất, sử dụng kỹ thuật và công nghệ sinh học. Ngày nay công nghệ mới làm thay đổi nhiều đến các chỉ số cơ bản của công nghiệp, ảnh hưởng sâu sắc đến chiến lược chung, thay đổi cơ cấu, mô hình thương mại và đầu tư trong sự phát triển công nghiệp của đất nước. Thực tiễn vai trò của TBCN đối với các nước đang phát triển:
  6. - Giai đoạn 1970 – 1987, một số nước châu Á tham gia thị trường xuất khẩu sản phẩm chế tạo có hàm lượng khoa học – công nghệ cao của các nước đang phát triển sang các nước phát triển tăng liên tục (trừ dược phẩm và thuốc chữa bệnh). Khối lượng mặt hàng này tham gia thị trường tăng 2,6% trong năm 1970 lên 13,1% trong năm 1987. - Trong những năm gần đây, các tiến bộ công nghệ quan trọng nhất đã đạt được trong lĩnh vực vi điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ vũ trụ và công nghệ hạt nhân. Lĩnh vực công nghệ thông tin, bao gồm cả tự động hoá viễn thông máy tính hoá các hệ thống quản lý và tự động hoá thiết bị cũng như sản xuất (CAD/CAM). Ở những nước Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore và Thái Lan thị trường bán dẫn mở rộng rất nhanh. Ấn Độ đã đạt được thành công nổi bật trong lĩnh vực phát triển phần mềm, trong khoảng thời gian ngắn với giá trị xuất khẩu đạt 100 triệu USD và đạt mức tăng hàng năm 40%. Lĩnh vực công nghệ vật liệu mới, bao gồm hợp kim, kim loại phủ chất dẻo, nhựa nhiệt dẻo, thuỷ tinh tấm mỏng, gốm cường hoá bằng sợi. Các vật liệu này đều có ứng dụng trong hầu hết các hoạt động công nghiệp. Ở châu Á, Nhật Bản là nước dẫn đầu về công nghệ nổi bật này với phạm vi thị trường gần 24 tỷ USD vào cuối thế kỷ này. Một loạt các nước Châu Á đã bắt tay vào nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực hợp kim, polime và Composit có những vật liệu xây dựng rẻ tiền, kim loại hiếm và kim loại đất hiếm, vật liệu bán dẫn tổ hợp, chất dẻo và gốm và những vật liệu mà ở đó một số nước châu Á và Thái Bình Dương có những hứa hẹn tốt đẹp. Lĩnh vực công nghệ sinh học, những kết quả mới đã có một loạt ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp và thực phẩm, năng lượng tái sinh và y học điều trị. Các nước như Thái Lan, Malaixia đã sử dụng công nghệ Sinh học để sản xuất những loại cây dầu cọ và dầu dừa mới. Thái Lan đã đạt được những tiến bộ trong công nghệ lên men, đặc biệt trong hóa chất công nghiệp.
  7. Tóm lại công nghệ chiếm vai trò quyết định trong việc đưa các nước chậm phát triển đuổi kịp các nước phát triển. V. Xu hướng quốc tế hóa hoạt động R&D công nghệ: - Đi đôi xu thế toàn cầu hóa kinh tế - Tính đa quốc gia các công ty ngày càng tăng (mở rộng đầu tư). Ưu điểm Chia sẽ tài nguyên (nhân lực, vốn), rủi ro; trong đó có chia sẽ thế mạnh về công nghệ. Tận dụng nguồn lực công nghệ từ các quốc gia đã và đang phát triển (đã phát triển -chuyển giao công nghệ; đang phát triển -nhân lực giá rẻ) Hạn chế: Giảm tính độc lập về công nghệ và kinh tế. VI. Hạn chế R&D công nghệ tại các nước đang phát triển : - Không gắn nghiên cứu với thực tiễn sản xuất. - Thiếu định hướng thương mại. - Các nhà khoa học quan tâm việc công bố công trình hơn là đóng góp nâng cao trình độ công nghệ. - Thiếu biện pháp khuyến khích R&D. - Hệ thống quản lý cồng kềnh, thiếu hiệu quả .
  8. CHỈ SỐ TIẾN BỘ CÔNG NGHỆ Các số chỉ số được sử dụng phổ biến nhất để đo những thay đổi trong các mức của các biến kinh tế khác nhau. Tuy nhiên hiện nay còn vắng bóng một loại chỉ số đo lường sự tiến bộ công nghệ. Chỉ số tiến bộ công nghệ phản ánh những thay đổi trong mức của tiến bộ công nghệ của một quốc gia, của một tỉnh, của một ngành hay của một doanh nghiệp. Định nghĩa: Chỉ số tiến bộ công nghệ của quốc gia tại một thời điểm được định nghĩa là một số thực bằng với trung bình nhân của tiến bộ công nghệ của một quốc gia trong thời kỳ đó và thời kỳ trước. Các phương pháp đo lường tiến bộ công nghệ: Theo truyền thống thường dùng phương pháp hạch toán tăng trưởng từ mô hình Solow để đo lường tiến bộ công nghệ. Hạch toán tăng trưởng kinh tế Mô hình Solow cho ta một khung hạch toán nguồn gốc tăng trưởng. Lấy vi phân hàm sản xuất Y=F(K, AL) = Kα (AL)1-α với 0
  9. Phương trình (21) là phương trình hạch toán tăng trưởng tiêu chuẩn, phương trình này phát biểu rằng tăng trưởng sản lượng là bình quân có trọng số của tăng trưởng các nhập lượng vốn và lao động hiệu dụng. Phương trình (22) là dạng tính theo đầu người, phương trình này phát biểu rằng thu nhập trên đầu người là bình quân có trọng số của tăng trưởng tỷ số vốn-lao động và tỷ lệ tăng trưởng kiến thức ( cải thiện công nghệ). Phương trình (23) không phải là một phương trình hạch toán tăng trưởng; mà nó chỉ đơn giản khẳng định lại rằng trong dài hạn, khi tỷ số vốn-sản lượng không đổi, toàn bộ tăng trưởng thu nhập trên đầu người được qui cho sự tích luỹ kiến thức. Khung hạch toán trong phương trình (21) và phương trình (22) đã được áp dụng cho nhiều quốc gia và nhiều thời đoạn. Chẳng hạn như với Hoa Kỳ, Edward Dennison (1985) đã nhận thấy rằng chỉ khoảng 25 phần trăm tăng trưởng thu nhập trên đầu người ở Hoa Kỳ từ năm 1929 đến 1982 là do gia tăng tỷ số vốn-lao động. Phần còn lại chủ yếu là do "tiến bộ công nghệ". Vì không thể đo lường được những tiến bộ công nghệ nên đóng góp của tiến bộ công nghệ suy ra như một số dư, nghĩa là phần tăng trưởng sản lượng (g) mà không thể giải thích được bằng sự tăng trưởng của các yếu tố vốn và lao động: Vì vế phải của phương trình (24) là tỷ lệ thay đổi của tỷ số giữa sản lượng trên bình quân có trọng số của các nhập lượng lao động và vốn, nên nó thường được gọi là tăng trưởng năng suất của tổng các yếu tố sản xuất (TFPG), một đại lượng nắm bắt toàn bộ sự thay đổi kỹ thuật và tất cả những yếu tố sản xuất khác làm gia tăng năng suất. ► Tuy nhiên phương pháp này có hạn chế là giả thiết rằng quá trình sản xuất là hoàn toàn hiệu quả. Giả thiết này là hoàn toàn không chính xác. Để khắc phục nhược điểm này, ta có các phương pháp sau đây:
  10. • Phương pháp sản xuất biên ngẫu nhiên. Mô hình sản xuất biên ngẫu nhiên được giới thiệu bởi Aigner, Lovell and Schmindt (1977) và Meeusen và Van Den Broeck (1977). Từ đó, nó trở thành 1 lĩnh vực nhỏ phổ biến trong kinh tế lượng; xem Kumbhakar và Lovell (2000) như là một sự giới thiệu. Xem xét bản chất của vấn đề biên ngẫu nhiên. Giả sử rằng 1 nhà sản xuất có 1 hàm sản xuất f (zit , β ). Trong một thế giới không có sai lệch hay không hiệu quả, tại thời điểm t, công ty thứ i sẽ sản xuất qit = f (zit , β ) Một yếu tố cơ bản của phân tích biên ngẫu nhiên là mỗi hàng có khả năng sản xuất ít hơn nó có thể bởi vì mức độ không hiệu quả. Cụ thể qit = f (zit , β )ξit Trong đó ξit là mức độ hiệu quả của hãng i tại thời điểm t, ξit phải nằm trong nửa khoảng (0,1]. Nếu ξit=1, hãng đạt được mức sản lượng tối ưu với công nghệ thể hiện ở hàm sản xuất f (zit , β ). Khi ξit 0), mức độ hiệu quả kỹ thuật giả sử được giới hạn dương (i.e., ξit > 0). Đầu ra được giả định là một biên ngâu nhiên, ngụ ý rằng qit = f (zit , β )ξit exp(vit ) Lấy logarit tự nhiên cả 2 vế ln(qit ) = lnnf (zit , β ))+ ln(ξit ) + vit Giả sử rằng có k đầu vào và hàm sản xuất là tuyến tính với logs, định nghĩa uit = - ln (ξit ). ln(qit ) = β0 + βj ln(zjit ) + vit − uit (1) j =1
  11. uit mang dấu trừ vì từ uit = − ln(ξit ), giới hạn uit ≥ 0 ngụ ý rằng 0 < ξit ≤ 1 như đã chỉ rõ bên trên. Kumbhakar và Lovell (2000) cung cập chi tiết một hàm theo hàm trên, và họ chỉ ra rằng thực hiện 1 phân tích dẫn suất trong hàm đôi chi phí cho phép chúng ta chỉ rõ vấn đề ln(cit ) = β0 + βq ln(qit ) + βj ln(pjit ) + vit − suit (2) j=1 Trong đó qit là đầu ra, zjit là lượng đầu vào, cit là chi phí, pjit là giá đầu vào và s= 1 cho sản xuất s= -1 cho hàm chi phí Bằng trực quan, ảnh hưởng không hiệu quả yêu cầu mức sản lượng thấp hay chi phí tăng, phụ thuộc vào đặc điểm kỹ thuật Phương trình (2) là một biến thể của một panel-data model trong đó vit là một sai số riêng và uit là một ảnh hưởng thay đối theo thời gian. • Phương pháp bao dữ liệu (DEA) – Tiếp cận phi tham số. DEA ( Data Envelopment Analysis ) là một kỹ thuật quy hoạch tuyến tính để đánh giá một đơn vị ra quyết định hoạt động tương đối so với các đơn vị khác trong mẫu như thế nào. DEA cho phép xác định hiệu quả tương đối của các đơn vị hoạt động trong một hệ thống phức tạp. Theo DEA thì một đơn vị hoạt động tốt nhất sẽ có chỉ số là 1, trong khi đó chỉ số của các đơn vị phi hiệu quả được tính bằng việc chiếu các đơn vị phi hiệu quả lên trên biên hiệu quả. Đối với mỗi đơn vị phi hiệu quả, DEA đều đưa ra một tập các điểm chuẩn của các đơn vị khác để giá trị của đơn vị được đánh giá có thể so sánh được, bởi vậy những thông tin thu được qua phân tích DEA rất có ích cho các nhà quản lý trong việc nhận diện được thực tế hoạt động của đơn vị mình như thế nào so với các đơn vị khác.
  12. Các nhân tố tác động đến CRVI: (Những nhân tố làm ảnh hưởng đến CRVI của một quốc gia) +Môi trường pháp lý: sự minh bạch trong cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Môi trường pháp lý càng trong sạch sẽ tạo tiền đề phát triển công nghệ. +Đầu tư vào lĩnh vực khoa học công nghệ của một quốc gia: tiến bộ công nghệ luôn đi kèm với mức đầu tư vào khoa học công nghệ. Do đó muốn tăng chỉ số tiến bộ công nghệ, ta phải tăng cường đầu tư vào lĩnh vực khoa học công nghệ nhằm đạt được những thành tựu thúc đẩy chỉ số tiến bộ công nghệ. + Các phát minh sáng chế, các cải tiến kỹ thuật của một quốc gia: mức độ phát triển của tiến bộ công nghệ có thể do lường bằng lượng phát minh sáng chế và các cải tiến kỹ thuật. Các phát minh và cải tiến này sẽ được áp dụng vào các ngành công nghiệp công nghệ, tăng cường chỉ số tiến bộ công nghệ quốc gia. + Ảnh hưởng lan toả: Các phát minh, sáng chế nối tiếp nhau phát triển tạo thành một làn sóng mạnh mẽ thúc đẩy công nghệ phát triển. + Thái độ đối với công nghệ mới: Mạnh dạn áp dụng các công nghệ mới sẽ làm tăng quá trình biến đổi kỹ thuật, tăng cường cải tiến máy móc công nghệ. Chỉ số CRVI cung cấp các thông tin: (i) CRVI góp phần phản ánh được hiệu quả đầu tư của các ngành (ii) Nó cho phép so sánh theo thời gian của mỗi đối tượng nghiên cứu để thấy được độ trễ của đầu tư cũng như các nhân tố bên ngoài có khả năng cản trở đầu tư. (iii) Nó cho phép xác định ảnh hưởng lan toả của các đầu tư khác đến đối tượng xem xét.
  13. (iv) CRVI cũng là chỉ số cung cấp thông tin tham khảo cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp, cho chính quyền trung ương trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách đầu tư vào KHCN cho các chương trình hỗ trợ kỹ thuật cũng như tiếp nhận loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các ngành cũng như các địa phương.
  14. 2.1 Khả năng sinh sôi của quá trình nghiên cứu Khả năng sinh sôi ám chỉ làm thế nào để việc chi tiêu cho R&D được chuyển thành những ý tưởng mới và sản phẩm phẩm mới. Chi tiêu cho R&D Việc nghiên Công ty khuyến R&D; tiến bộ cứu có khả khích thực hiện công nghệ tăng năng sinh sôi R&D cao Có thêm nhiều sản phẩm mới Các điều kiện khác không đổi Nếu việc nghiên cứu rất có khả năng sinh sôi, tức việc chi tiêu cho R&D dẫn tới nhiều sản phẩm mới, thì, khi các điều kiện khác không đổi, công ty sẽ có nhiều động cơ khuyến khích họ thực hiện R&D hơn, dẫn tới R&D và tiến bộ công nghệ sẽ cao hơn. Các yếu tố xác định khả năng sinh sôi của nghiên cứu chủ yếu nằm ở bên ngoài lĩnh vực kinh tế học 2.1.1 Sự tương tác nghiên cứu Khả năng sinh sôi của nghiên cứu tùy thuộc vào sự tương tác thành công giữa các giai đoạn nghiên cứu. Nghiên cứu được chia làm 3 giai đoạn chính, bao gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và triển khai.
  15. Nghiên cứu Nghiên cứu Nghiên cứu cơ bản ứng dụng triển khai Nghiên cứu cơ bản thuần túy Nghiên cứu nền tảng Nghiên cứu cơ bản Nghiên cứu định hướng chuyên đề Nghiên cứu cơ bản: nhằm phát hiện bản chất, quy luật của sự vật hoặc hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, con người; có thể thực hiện trên cơ sở những nghiên cứu thuần túy lý thuyết hoặc trên cơ sở những quan sát, thí nghiệm. Sản phẩm là các phát kiến, công thức, phát minh. Nghiên cứu cơ bản chia làm 2 loại là nghiên cứu cơ bản thuần túy và nghiên cứu cơ bản định hướng. UNESCO chia nghiên cứu cơ bản định hướng thành nghiên cứu nền tảng và chuyên đề. Nghiên cứu ứng dụng: là sự vận dụng các qui luật từ nghiên cứu cơ bản để giải thích một sự vật, hiện tượng hoặc để đưa ra nguyên lý về các giải pháp. Nghiên cứu triển khai: là sự vận dụng các qui luật, các nguyên lý để đưa ra các hình mẫu với những tham số có tính khả thi về kỹ thuật. Bản thân nghiên cứu cơ bản không dẫn đến tiến bộ công nghệ, nhưng thành công của nghiên cứu ứng dụng và triển khai lại phụ thuộc rất nhiều vào nghiên cứu cơ bản. Nghiên cứu cơ bản đặt nền tảng cho nghiên cứu ứng dụng, và nghiên cứu ứng dụng cho ta thấy được lợi ích và thành quả thực sự của nghiên cứu cơ bản. Chính vì thế, sự tương tác, quan hệ giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự ra đời và thành công của một nghiên cứu.
  16. Trên thế giới, rất nhiều thiết bị điện tử ngày nay (đài radio, máy phát điện...) được phát triển từ nghiên cứu cơ bản của nhà bác học Michael Faraday vào năm 1831. Ông ta khám phá ra nguyên lý điện từ trường, đó là mối liên hệ giữa điện và từ. Hay 1 trường hợp khác, tại viện nghiên cứu cao cấp về nguồn sáng LBNL, tia X đã được sử dụng để dò bên trong mẫu vật liệu rất nhỏ; nhưng hiểu biết của chúng ta về tính chất của tia X đã được bắt đầu với những nghiên cứu cơ bản của Wilhelm Rontgen vào năm 1895. Tại Việt Nam, việc tương tác thành công giữa nghiên cứu ứng dụng, triển khai với nghiên cứu cơ bản đã đem lại nhiều thành cựu công nghệ đột phá. Điển hình là quá trình nghiên cứu và sản xuất vacxin cúm A/H5N1. Việt Nam là quốc gia đầu tiên trên thế giới áp dụng kỹ thuật di truyền ngược trong việc chế tạo vacxin. Và rồi quy trình sản xuất lại theo một nghiên cứu mới bằng công nghệ sản xuất nuôi tế bào, khác biệt hẳn với công nghệ sản xuất truyền thống (nuôi phôi). Hay một minh chứng rõ ràng trong việc ứng dụng được nghiên cứu cơ bản ở Việt Nam, đó là việc khử trùng bằng khí ozone. Nắm bắt những lợi ích và đặc trưng của khí ozone, đặc biệt là sát khuẩn, đã được nghiên cứu từ thế kỉ 19, các nhà khoa học tại Việt Nam đã ứng dụng và thành công trong việc chế tạo tủ khử khuẩn dụng cụ y tế bằng khí ozone. Khả năng nảy sinh ý tưởng, sinh sôi trong quá trình nghiên cứu tại Việt Nam cũng như trên thế giới là phụ thuộc khá nhiều vào việc áp dụng được những thành tựu nghiên cứu cơ bản đã có vào quá trình nghiên cứu ứng dụng thực tiễn. 2.1.2 Hệ thống giáo dục Hệ thống giáo dục, hay nói cụ thể là giáo dục nhận thức và tư duy cũng đóng vai trò to lớn trong tiến bộ công nghệ. Tư duy trừu tượng Tư duy cụ thể Nghiên cứu ứng
  17. Người ta thường phân tư duy thành 2 loại chính: Tư duy trừu tượng: là những suy nghĩ mà chỉ cần một gợi ý, một cái tên thì ta sẽ biết đó là cái gì. Tư duy cụ thể: là phải có một vật ( người/con vật/ đồ dùng...) trước mắt ta mới hình dung hay nhận biết được. Ngoài ra còn có cách phân loại khác: Tư duy sáng tạo: Đây là loại tư duy mang tính bẩm sinh, nhưng nếu không có điều kiện thuận lợi thì sẽ dần dần bị lãng quên. Tư duy này được phát triển bởi sự hòa trộn các hình ảnh, các nhận thức trong đầu để nghĩ ra một điều mới lạ mà từ trước đến nay chưa có. Tư duy logic: (hay tư duy liên tưởng, tư duy nhân - quả) từ điều A nghĩ đến điều B, từ điều B lại nghĩ đến điều C.
  18. Thông thường, tư duy trừu tượng, và đặc biệt là tư duy sáng tạo sẽ giúp ích và tác động trực tiếp tới nghiên cứu cơ bản; còn nghiên cứu ứng dụng và triển khai lại dung nhiều tư duy cụ thể hay tư duy logic. Quá trình học tập của mỗi học sinh thường diễn ra theo công thức nổi tiếng của Lê- nin: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan”. Tuy nhiên, trong thực tiễn, do không hiểu đúng công thức, hay do cách đặt mục tiêu khác nhau, dẫn tới cách xây dựng nội dung và sử dụng phương pháp dạy học khác biệt, có thể đề cao vai trò của tính trực quan sinh động mà xem nhẹ vai trò của tư duy logic,tư duy trừu tượng, hay ngược lại. Mỗi hệ thống giáo dục khác nhau tại mỗi quốc gia sẽ quyết định sự thành công riêng, có quốc gia mạnh về nghiên cứu cơ bản nhờ chú trọng tư duy trừu tượng,… cũng có quốc gia có thế mạnh về nghiên cứu ứng dụng và phát triển. Trên thế giới, có thể nói hệ thống giáo dục của Pháp chú trọng nhiều đến tư duy trừu tượng, ngay từ phổ thông, học sinh đã được định hướng theo đuổi đào tạo tổng quát (khoa học xã hội) hay đào tạo kỹ thuật (khoa học tự nhiên), nhờ đó đã tạo ra được những nhà nghiên cứu có khả năng giỏi trong việc nghiên cứu cơ bản.Hay như giáo dục Hoa Kỳ cũng phát triển khả năng sáng tạo riêng của từng học sinh phổ thông ở lĩnh vực các môn tự chọn, vì thế, những nhà nghiên cứu ở Hoa Kỳ lại có khả năng cao trong việc phát minh, sáng chế. Tại Việt Nam, cái mạnh là tư duy cụ thể, cái chưa mạnh là tư duy trừu tượng. Ngôn ngữ Việt Nam cũng giàu từ ngữ cụ thể hơn là từ ngữ trừu tượng, hệ thống giáo dục Việt Nam cũng chưa đề cao khả năng trừu tượng, sáng tạo của học sinh, chính vì thế, Việt Nam có thể ứng dụng những thành tựu nghiên cứu cơ bản trên thế giới, nhưng lại rất yếu trong việc tự nghiên cứu những phát minh có sức đột phá lớn. 2.1.3 Nền văn hóa tinh thần kinh doanh
  19. Văn hóa tinh thần là toàn bộ những giá trị của đời sống tinh thần, bao gồm khoa học ở mức độ áp dụng của thành tựu khoa học vào sản xuất và sinh hoạt, trình độ học vấn, tình trạng giáo dục y tế, nghệ thuật, chuẩn mực đạo đức trong hành vi, trình độ phát triển như cầu con người. Văn hóa tinh thần còn bao gồm những phong tục tập quán, những phương thức giao tiếp ngôn ngữ. Văn hóa tinh thần trong kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hóa tinh thần vào hoạt động kinh doanh của chủ thể, là văn hóa mà chủ thể kinh doạnh tạo ra trong quá trình kinh doanh, hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù. Các yếu tố văn hóa trong kinh doanh tạo ra sức sống cho sản phẩm hàng hóa, dịch vụ trên thị trường, tạo sức mạnh cho cộng đồng phát triển, góp phần nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh. Một môi trường kinh doanh ổn định, có những yếu tố văn hóa lành mạnh, có được lãnh đạo biết cách tổ chức, sẽ giảm thiểu áp lực làm việc, kích thích lao động, sáng tạo, nghiên cứu và phát triển, qua đó nâng cao tiến bộ công nghệ. Trên thế giới, Nhật Bản là một trong những quốc gia có một nền văn hóa kinh doanh đặc sắc. Những nhà lãnh đạo doanh nghiệp khéo léo, có triết lý vững chắc, biết cách đối nhân xử thế, phát huy tính tích cực của nhân viên. Người Nhật Bản quen với điều: sáng kiến thuộc về mọi người, tích cực đề xuất sáng kiến quan trọng không kém gì tính hiệu quả của nó, bởi vì đó là điều cốt yếu khiến mọi người luôn suy nghĩ cải tiến công việc của mình và của người khác.. Các doanh nghiệp Nhật Bản luôn biết tổ chức sản xuất kinh doanh năng động và độc đáo, với tinh thần kinh doanh hiện đại là lấy thị trường làm trung tâm, xuất phát từ khách hàng và hướng tới khách hàng. Với một môi trường làm việc như thế, không khó để lí giải tại sao Nhật Bản lại là một trong những quốc gia đi đầu về R&D và phát triển tiến bộ công nghệ. Tại Việt Nam, trải qua nhiều giai đoạn phát triển, sau nhiều lần cải cách, đổi mới, văn hóa kinh doanh cũng được cải thiện đáng kể. Trình độ chung của quản lý tăng hơn, đội ngũ nhân viên cũng được trẻ hóa và sung sức hơn. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã
  20. góp phần làm hoạt động kinh doanh ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Tiến trình hội nhập đã mở cửa cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập cùng nền kinh tế thế giới, môi trường kinh doanh được mở rộng, sôi động, đã tạo điều kiện cho các doanh nhân Việt Nam có cơ hội phát huy hết khả năng của mình, nâng cao trình độ kinh doanh phù hợp với yêu cầu của thị trường. Những công trình nghiên cứu, ứng dụng công nghệ ở Việt Nam cũng ngày càng nhiều và có chất lượng hơn. Tuy nhiên, vẫn còn một phần những nhà lãnh đạo bảo thủ, ganh ghét và kìm hãm khả năng sáng tạo ở nhân viên, hay việc chính sách hành chính, trả lương “cào bằng” đã làm cho người lao động “ỷ lại”, “an phận”, không muốn sáng tạo, nghiên cứu. 2.1.4 Quá trình hiện thực hóa nghiên cứu Thông thường, phải mất nhiều năm, thậm chí là hàng thập niên mới có thể hiện thực hóa trọn vẹn được tiềm năng của các khám phá, đặc biệt là những khám phá lớn. Nghiên cứu Khám phá, Thăm dò Phát triển sản Ứng dụng cơ bản phát minh lớn khảo sát phẩm mới đại trà Trình tự thông thường là trình tự mà trong đó, một khám phá lớn dẫn đến việc thăm dò khảo sát các ứng dụng tiềm năng, rồi phát triển các sản phẩm mới, rồi ứng dụng đại trà. Tiến bộ công nghệ càng cao khi quá trình hiện thực hóa những nghiên cứu càng nhanh và hiệu quả, chất lượng, khi đó, khả năng sinh sôi những nghiên cứu mới càng lớn, vì những nhà nghiên cứu có thêm thời gian và công nghệ mới phục vụ cho nghiên cứu của mình. Trong khi đó, quá trình hiện thực hóa lại phụ thuộc rất nhiều vào tiềm lực công nghệ và vốn sẵn có của mỗi quốc gia.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2