TIỂU LUẬN: Phân tích biện chứng mối quan hệ về vấn đề giai cấp và dân tộc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh
lượt xem 28
download
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều bí danh, bút danh khác) sinh ngày 19/5/1890 ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.Người sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một địa phương có truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sống trong hoàn cảnh đất nước chìm dưới dân ách đô hộ của thực dân Pháp, từ nhỏ Người đã chứng kiến...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: TIỂU LUẬN: Phân tích biện chứng mối quan hệ về vấn đề giai cấp và dân tộc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh
- TIỂU LUẬN: Phân tích biện chứng mối quan hệ về vấn đề giai cấp và dân tộc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh
- Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều bí danh, bút danh khác) sinh ngày 19/5/1890 ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.Người sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một địa phương có truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sống trong hoàn cảnh đất nước chìm dưới dân ách đô hộ của thực dân Pháp , từ nhỏ Người đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong trào đấu tranh chống thực dân , Người sớm nuôi chí đánh đuổi thực, giành độc lập cho đất nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào.Có thể nói cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một người cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, vì độc lập, tự do của các dân tộc, vì hòa bình và công lý trên thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mac- Lenin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập với thế giới, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc Việt Nam, mãi mãi soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Dân tộc là một vấn đề to lớn , bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế, lãnh thổ,pháp luật, tư tưởng và văn hoá giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc.Cũng chính vì vậ y mà vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạ ng Việ t Nam đã đ ược Người quan tâm,nung nấu suốt cả đời. Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc địa.Khi các nước đế quốc đi xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị trường, chúng thực hiện sự áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hoá đối với các nước bị xâm chiếm. Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại cách mạng vô sản là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc .Chủ nghĩa dân tộc là một động lưc lớn ở các nước đang đấu tranh giành độc lập.Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp,độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyế t theo lập trường của một giai cấp nhất đ ịnh. Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng Việt Nam, một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Quá trình hình thành t ư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Như mọi người đều thấy rõ, trước khi học thuyết Mác –
- Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết cục đều thất bại. Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho các phong trào đó thất bại chính là do bế tắc về đường lối, mặc dù các bậc lãnh tụ của những phong trào yêu n ước ấy đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của mình, nhưng do họ không nhận thức đ ược xu thế của thời đại, nên không thấy được giai cấp trung tâm của thời đại lúc này là giai cấp công nhân - giai cấp đại biểu cho một phương thức sản xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã hội. Do đó, mục tiêu đi tới của những phong trào ấy không phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử và thời đại, nên không thể đem lại kết quả và triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của việt nam. Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giả i phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước, người thanh niên yêu nư ớc Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước. ''Công lao to lớn đầu tiên của Bác đố i với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là đã tìm ra con đường cứu nước, khai phá con đư ờng giải phóng dân tộc và các dân tộc bị áp bức trên thế giới''. Trong quá trình ra đi tìm đ ường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các nước trên các châu lục Âu, Phi, Mỹ và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra nhận xét: chủ nghĩa tư bản, chủ n ghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ của công nhân, nông dân lao động ở cả “chính quốc” cũng như ở thuộc đ ịa. Nghiên cứu các cu ộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ (1776); Pháp (1789), Nguyễn Ái Quốc nhận thấy các cuộc cách mạng này tuy nêu khẩu hiệu ''tự do'', ''bình đẳng'', nhưng không đưa lại tự do, bình đẳng thực sự cho quần chúng lao động. Người viết: Tiếng là cộng hoà, dân chủ kì thực trong thì nó bóc lột
- công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Tuy khâ m phục các cuộc cách mạ ng ấy, nhưng Nguyên Ái Quốc cho rằng đó là cách mạng chưa đến nơi. Vì thế , Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động đấu tranh trong phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức, phong trào giả i phóng giai cấp công nhân ở các nước tư bản. Chính vì vậ y mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm đ ến với cách mạng Tháng Mười Nga, đ ến với V.I. Lênin; như một tất yếu lịch s ử. Cách mạng Tháng Mư ời Nga thắng lợi là mộ t sự kiện chính trị đặc biệ t quan trọng trong quá trình hoạt động tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, sau khi đọc ''Sơ thảo lần th ứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua. Người khẳng định: ''Ch ỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ n ghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp b ức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ''; rằ ng: ''Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản''. Kết luận trên đây của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mụ c tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về c ăn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việ t Nam; đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào qu ỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm n ền tảng. Vì vậy, con đường phát triển tấ t yếu của cách mạng giả i phóng dân tộc phả i phát triển thành cách mạng XHCN. Người chỉ rõ: ''Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn.Trong quá trình hoạ t động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu tranh và chỉ đạo giải quyết mố i quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, bền b ỉ chống các quan điểm không đúng
- về vấn đề dân tộc và thuộc đ ịa, đã phát triển lý luận về cách mạng giả i phóng dân tộc. Ngay từ khi hoạt động trong phong trào công nhân ở Pháp, Người đã nhận thấy một hố sâu ngăn cách giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động ''chính quốc'' với giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc đ ịa. Đó là chủ ngh ĩa sô-vanh nước lớn của các dân tộc đi thống trị và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đối với các dân tộc bị thống trị.Trong Đạ i hội thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), Nguyễn Ái Quốc đã kêu gọi những người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng ở các thuộc địa và lên án phái nghị viện đi theo đường lối cơ hội của Đệ nhị quốc tế, theo đuổi bọn thực dân phản động, từ chối yêu cầu giải phóng của các dân tộc thuộc địa. T rong nhiều tham luận tại các Đạ i hội quốc tế và các bài viế t, Nguyễn Ái Qu ốc đã bảo vệ ch ủ n ghĩa Mác - Lênin, phê bình mộ t cách kiên quyết và chân thành những sai lầm, khuyế t điểm của các Đảng Cộng sản chính quốc. Các Đảng Cộng sản này, tuy th ừa nhận 21 điều kiện của Quốc tế cộng sản, trong đó Điều 8 quy định các Đảng Cộng sản ở chính qu ốc phả i ủng hộ và hoạt độ ng một cách thiết thực giúp đỡ phong trào giả i phóng dân tộc; nhưng trên thực tế hoạ t động rấ t ít, do không nhận thức đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa.Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong ''Chính cương vắn tắt'' do Nguyên Ái Qu ốc khởi thảo đã khẳng đ ịnh: ''Ch ủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hộ i cộng sản''. Như vậ y là, lầ n đầu tiên trong lịch s ử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giả i phóng dân tộc gắn liền với cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai s ự n ghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏ i ách nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đạ i và lợi ích của
- các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạ nh đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam không phải là cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng XHCN. Đặ c điể m nổi bậ t củ a cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước chuyển sang thời kỳ quá độ lên CNXH; tức là, cách mạng XHCN là bước kế tiếp ngay khi cách mạng dân tộc dân ch ủ nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc cách mạng này không có mộ t bức tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành cách mạng giả i phóng dân tộc mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng XHCN mới giữ vững đư ợc thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọ i tầ ng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự.Như chúng ta đều biế t, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ n ghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ n ghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, trong sự thống nhất với chủ ngh ĩa quốc tế vô sản. Bởi vậ y, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen đã nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính... đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự phát triển tự tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền đề quyết định nhất, cũng là động lực ch ủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ ngh ĩa Mác - Lênin và tiếp thu quan điể m mác -xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học và cách mạng cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người chiến s ĩ cộ ng sản Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là ch ứng minh cho s ự đúng đắn của chủ n ghĩa Mác - Lênin, mà còn là s ự phát triển sáng tạo và có giá trị đ ịnh hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạ ng Việ t Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việ t Nam và tham khảo kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giả i pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nư ớc ta trong suốt bảy thập kỉ qua.Bởi lẽ:Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành công triệt để nhất định phải đi theo qu ỹ đạo và là mộ t bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân dân, nòng cốt là liên minh công nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp công nhân, thậm chí cả giai cấp nông dân là hoàn toàn không đủ, mà theo Người, chỉ có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức mạnh dân tộc là sức mạnh thực sự.Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong n ội bộ dân tộc (mâu thuẫn địa chủ - n ông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc xâm lược. Ở giai đoạ n đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc lên trên hế t. ''Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi đ ược độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi c ủa bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được''. ''Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giả i phóng dân tộc''. Ở đ ây rõ ràng cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân
- tộc, cái dân tộc được giả i quyết theo lập trường giai cấp công nhân, chứ đâu phải là “hy sinh cái nọ cho cái kia” như có người từng cố chứng minh.Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc như ''hai cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở chính quốc với vô sản và nhân dân các nước thuộ c địa thì cách mạng mới th ắng lợi. Cách mạ ng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc đ ịa không phụ thuộc mộ t chiều vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể và phả i chủ động tiến lên giành thắng lợi, thậ m chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận đ ịnh hết sức đúng đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đáng tiếc là có lúc quan điểm này của Hồ Chí Minh không được một số người, trong đó có một vài người c ủa quốc tế cộng sản cũng không thừa nhận.Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoạ i bang, khỏi chế độ thuộc đ ịa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước quá độ ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình hình và đặc điể m đấ t nước, tránh giáo điều, dập khuôn những hình th ức,biện pháp của nước khác.Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ q uan trọng hết sức cấp thiế t. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề d ân tộc trong việc hoạch đ ịnh và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp không được tính đến đầ y đủ và kết hợp hài hoà, sức mạ nh dân tộc không được phát huy như một trong những động lực chủ yếu nhấ t. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp
- thời khắc phục có hiệu quả cả về phương điện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này.Tuy thế, trong những năm gầ n đây, ở nước ta đã nả y sinh ý kiến cho rằng: mố i quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng trong chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đ úng với một số nước khác nào đó, còn ở Việt Nam vố n là nước thuộc địa, n ửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao giờ cũng chi phố i, kh i nào Đảng nhấn mạnh vấn đề giai cấp thì đều dẫn đến sai lầm. Từ đó, họ đề xuất ý kiến theo hướng nhấn mạnh một chiều vấn đề dân tộc, tách vấn đề dân tộc khỏi vấn đề giai cấp, hạ thấp ý nghĩa quan trọng, bức thiết của vấn đề giai cấp, không lấ y quan điể m giai cấp làm quan điểm cơ sở lập trường để xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc. Theo họ , nước ta hiện nay chỉ nên đề ra và giải quyết những vấn đề dân tộc, còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra. Mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hộ i công bằng, dân chủ , văn minh'' được họ đồng tình, thưng giải thích theo hướng phi giai cấp, ngh ĩa là không nhất thiết phải theo định hướng XHCN. Thực chấ t là họ bác bỏ đường lối giải quyế t vấn đề dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân. Quan điểm nêu trên đi ngược với con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, và rõ ràng là không phù hợp với thực tiễn của lịch sử cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đó đã chỉ ra rằng, trong bấ t cứ giai đoạn nào, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đều phải kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc; trong chủ nghĩa yêu nước Việ t Nam luôn luốn gắn bó hữu cơ với lý tưởng của giai cấp công nhân Việ t Nam. Nền độc lậ p thậ t sự của dân tộc; tự do, sự giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc của nhân dân chỉ có thể đạ t được một cách bền vững trong sự nghiệp cách mạng theo mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân. Bởi vậ y, ngay từ khi khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đả ng ta đã xác định rõ: đổi mới không phả i là thay
- đổ i mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấ y bằng những hình thức; bước đi và biện pháp phù h ợp. Nói cách khác, giữ vững định hướng XHCN là nguyên tắc cơ bản của quá trình đổi mới .Th ực tiễn cách mạng Việ t Nam từ Đạ i hộ i Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đả ng ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lố i đổi mới toàn diện, mà thực chấ t là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kế t hợp đúng đắn vấ n đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.Văn kiện c ủa Đảng ta tạ i Đại hộ i lần thứ IX đã xác đ ịnh rõ: “mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã h ội là quan hệ h ợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo vệ Tổ quốc được sự lãnh đạo của Đả ng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: đ ộc lập dân tộc gắn liền với chủ nghia xã hội”Nhìn lạ i lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát triển mau lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế , chúng ta càng thấ y sự đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp.Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm b ằng thực tế, cả trong chiế n tranh ác liệt lẫn trong những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ T ổ quốc. Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh các dân tộc đang đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực hiếu chiến dựa vào tiềm lực quân sự hiện đạ i tiến hành chiến tranh xâm lư ợc những nước có chủ quyề n luật pháp.Điề u đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệ t tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối, chính sách của Đả ng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi
- thử thách, vững bước trong quá trình xây d ựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bài viế t của GS.VS. Nguyễ n Duy Quý- Tạp chí Quốc phòng toàn dân 2. Bài viế t của Lê Văn Lợi - Khoa GD CT, ĐHSP Quy Nhơn- Đăng trên báo Bình Định ngày 3/11/2003 3. GT Tư tưởng Hồ Chí Minh
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài tiểu luận: Phân tích tình hình kinh doanh của Công ty CP bánh kẹo Biên Hòa Bibica trong ba năm (2010-2012)
38 p | 2747 | 385
-
Tiểu luận triết học - Phép biện chứng về mâu thuẫn và việc phân tích mâu thuẫn giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế
12 p | 720 | 196
-
Tiểu luận: Phân tích vị trí và nội dung của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong hệ thống phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa phương pháp luận? Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối đổi mới đất nước?
19 p | 505 | 125
-
Bài tiểu luận: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận và xác định mối quan hệ giữa bản thân với gia đình, nhà trường, xã hội
10 p | 2419 | 96
-
Tiểu luận: Phân tích đề án một cửa liên thông trong việc cải cách hành chính thành lập doanh nghiệp tại địa bàn Hà Nội
27 p | 382 | 95
-
Tiểu luận: Phân tích khả năng sinh lời của công ty – công ty nhựa Bình Minh
41 p | 421 | 85
-
Báo cáo tiểu luận: Phân tích hạt nhân phóng xạ
50 p | 417 | 85
-
Tiểu luận Môi trường: Sinh thái biển
36 p | 650 | 83
-
Tiểu luận: “Phân tích thực chất của cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện – ý nghĩa của vấn đề đó”
17 p | 267 | 70
-
Tiểu luận: Phân tích phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến_Thách thức và thời cơ của Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế
43 p | 159 | 30
-
Tiểu luận: Phân tích phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến đưa ra những giải pháp, những kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện đường lối xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
37 p | 182 | 26
-
Tiểu luận Phân tích bia và một số chỉ tiêu về nước
38 p | 126 | 25
-
Tiểu luận kết thúc học phần Chính trị học đại cương: Quan hệ biện chứng giữa chính trị và kinh tế trong công cuộc đổi mới hiện nay
18 p | 137 | 13
-
Luận văn tốt nghiệp ngành Kinh tế vận tải: Phân tích cổ phiếu GMD - niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM
83 p | 16 | 11
-
Tiểu luận triết học: Phân tích và chứng minh nhận định sau: Các nhà triết học cổ Hy Lạp là những nhà biện chứng bẩm sinh, còn Aristoteles là ”bộ óc bách khoa toàn thư” thời cổ Hy Lạp
31 p | 152 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Phát triển năng lực tư duy biện chứng duy vật của học viên Học viện Khoa học Quân sự ở Việt Nam hiện nay
189 p | 13 | 7
-
Bài tiểu luận: Phân tích hiện tượng sống thử trong giới trẻ Việt Nam từ góc độ tâm lý học xã hội và đề xuất giải pháp
13 p | 27 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn