intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp tại Việt Nam

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

68
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bố cục luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1 - Những lý luận cơ bản về hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp. Chương 2 - Phân tích hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam. Chương 3 - Giải pháp hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp ở Việt Nam. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp tại Việt Nam

i<br /> <br /> Hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế giữa khu vực và thế giới là một yêu cầu<br /> tất yếu trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt Nam. Cơ chế kinh tế<br /> mới cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải cấp bách đổi mới và hoàn thiện công cụ<br /> quản lý tài chính, trong đó việc hoàn thiện hệ thống kế toán được xem là một trong<br /> những yêu cầu quan trọng nhất. Một hệ thống kế toán doanh nghiệp là sự tổng hoà<br /> và kết hợp của nhiều bộ phận, yếu tố khác nhau. Hệ thống tài khoản kế toán có thể<br /> được coi như “huyết mạch” của một hệ thống kế toán doanh nghiệp, nó có ảnh<br /> hưởng chi phối đến hầu hết các thành phần khác của hệ thống kế toán đó. Do vậy,<br /> trong quá trình hoàn thiện hệ thống kế toán doanh nghiệp, yêu cầu hoàn thiện hệ<br /> thống tài khoản kế toán luôn được đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu.<br /> Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, tôi đã lựa chọn đề tài:<br /> “Hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp tại Việt Nam” để nghiên<br /> cứu. Đây là một vấn đề có tính cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn quan trọng nhằm<br /> đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu hạch toán kế toán của doanh nghiệp cũng như<br /> nhu cầu quản lý của Nhà nước về tài chính, kế toán. Bố cục luận văn được chia<br /> thành 3 chương:<br /> Chương 1. Những lý luận cơ bản về hệ thống tài khoản kế toán doanh<br /> nghiệp<br /> Chương 2. Phân tích hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp hiện hành ở<br /> Việt Nam<br /> Chương 3. Giải pháp hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp ở<br /> Việt Nam.<br /> Trong nội dung chương 1, trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu khoa học, tác<br /> giả đưa ra khái niệm về tài khoản kế toán và hệ thống tài khoản kế toán.<br /> Về khái niệm tài khoản kế toán đã tồn tại khá nhiều quan điểm khác nhau<br /> được đưa ra. Các quan điểm này không đối lập hay loại trừ nhau mà chỉ thể hiện sự<br /> phát triển về mặt lý luận cũng như nhận thức của con người về tài khoản. Các quan<br /> điểm này thay đổi theo thời gian thể hiện sự thay đổi ý niệm của những người<br /> nghiên cứu, giảng dạy. Về cơ bản, có thể kể đến hai quan điểm cơ bản về tài khoản<br /> <br /> ii<br /> <br /> sau:<br /> Quan điểm thứ nhất, tài khoản kế toán là một trong hai hình thức biểu hiện<br /> cụ thể của phương pháp tài khoản kế toán, một trong bốn phương pháp của hệ thống<br /> phương pháp kế toán (gồm phương pháp chứng từ, phương pháp tính giá, phương<br /> pháp tài khoản kế toán và phương pháp tổng hợp cân đối)<br /> Quan điểm thứ hai, tài khoản kế toán là một trong hai yếu tố cấu thành của<br /> phương pháp đối ứng tài khoản. Quan điểm nêu rõ, đối ứng tài khoản là phương<br /> pháp thông tin và kiểm tra về sự vận động của tài sản, nguồn vốn trong quá trình<br /> kinh doanh theo mối quan hệ biện chứng được phản ánh trong mỗi nghiệp vụ kinh<br /> tế tài chính phát sinh thông qua việc sử dụng hệ thống tài khoản kế toán.<br /> Về thực chất, hai luồng quan điểm nói trên không hề có sự mâu thuẫn hay<br /> loại trừ lẫn nhau mà chỉ là cách thức nhìn nhận về cùng một đối tượng khác nhau.<br /> So với các quan điểm về tài khoản kế toán, các quan điểm về hệ thống tài<br /> khoản kế toán ở Việt Nam khá thống nhất, theo đó: “Hệ thống tài khoản kế toán là<br /> toàn bộ các tài khoản kế toán được sử dụng trong hạch toán kế toán nhằm phản ánh<br /> toàn bộ các đối tượng hạch toán kế toán của đơn vị theo một trật tự sắp xếp nhất<br /> định”.<br /> Hiện trên thế giới tồn tại hai xu hướng xây dựng hệ thống tài khoản kế toán.<br /> Một là, xu hướng xây dựng một hệ thống tài khoản kế toán thống nhất áp dụng cho<br /> mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế. Hai là, xu hướng tự do, có nghĩa là các doanh<br /> nghiệp tự xây dựng hệ thống tài khoản kế toán áp dụng cho đơn vị mình với điều<br /> kiện cơ bản bắt buộc phải chấp hành, tuân thủ theo một hệ thống chuẩn mực kế toán<br /> trong nước hoặc chuẩn mực kế toán quốc tế. Tác giả đã dẫn chứng hai nước đại diện<br /> cho hai xu hướng xây dựng hệ thống tài khoản kế toán nói trên là nước Pháp (đại<br /> diện cho xu hướng xây dựng hệ thống tài khoản kế toán thống nhất) và nước Mỹ<br /> (đại diện cho xu hướng xây dựng hệ thống tài khoản kế toán tự do trên cơ sở chuẩn<br /> mực kế toán), để từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm về thành công cũng như<br /> một số hạn chế trong quá trình xây dựng hệ thống tài khoản kế toán của các nước<br /> nói trên trong việc xây dựng hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp tại Việt Nam.<br /> <br /> iii<br /> <br /> Ở chương 2, tác giả đi sâu phân tích hệ thống tài khoản kế toán doanh<br /> nghiệp hiện hành ở Việt Nam.<br /> Trước khi đi vào phân tích hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp hiện<br /> hành ở Việt Nam, tác giả đã khái quát lịch sử hình thành hệ thống tài khoản kế toán<br /> doanh nghiệp trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế với những bước phát<br /> triển phù hợp, đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin cho các đối tượng sử dụng<br /> trong từng thời kỳ và phù hợp với sự phát triển của cơ chế quản lý kinh tế đối với<br /> các doanh nghiệp ở nước ta.<br /> Thực trạng hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp Việt Nam được<br /> phân tích qua các thời kỳ:<br /> - Hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp thời kỳ trước đổi mới nền kinh<br /> tế<br /> Trong giai đoạn này, nền kinh tế nước ta còn mang nặng dấu ấn của cơ chế<br /> kế hoạch hoá tập trung bao cấp. Hệ thống tài khoản kế toán trong thời kỳ này hoàn<br /> toàn phù hợp với cơ chế tài chính bao cấp, được thể hiện ở các điểm:<br /> Một là, thông qua hệ thống tài khoản kế toán thống nhất, thông tin được<br /> cung cấp cho các cơ quan quản lý cấp trên của xí nghiệp và cơ quan quản lý chức<br /> năng của Nhà nước để thực hiện kiểm tra, kiểm soát tình hình quản lý và sử dụng tài<br /> sản trong xí nghiệp.<br /> Hai là, trình độ quản lý trong giai đoạn này còn thấp, việc đánh ký hiệu chỉ<br /> nhằm mục đích là dễ nhớ khi sử dụng<br /> Ba là, do giai đoạn này Nhà nước chiếm vai trò chủ đạo trong mọi hoạt động<br /> trong nền kinh tế nên qua hệ các tài khoản tiền vay và các tài khoản tiền gửi ngân<br /> hàng chúng ta có thể thấy rõ sự chi phối của Nhà nước như thế nào.<br /> Bên cạnh đó, hệ thống tài khoản kế toán trong thời kỳ này được xây dựng<br /> theo ngành quản lý; được xây dựng phù hợp với hình thức sở hữu xí nghiệp quốc<br /> doanh và tập thể<br /> Như vậy, hệ thống tài khoản kế toán trong giai đoạn này tuy còn nhiều nhược<br /> điểm, chưa thể phát huy được tính chủ động và sáng tạo trong công tác kế toán và<br /> <br /> iv<br /> <br /> quản lý nhưng hoàn toàn thích ứng với cơ chế quản lý và trình độ cán bộ thời cơ chế<br /> kế hoạch hoá tập trung bao cấp<br /> - Hệ thống tài khoản kế toán tại các doanh nghiệp giai đoạn 10 năm sau<br /> đổi mới nền kinh tế (1986 - 1995)<br /> Với cơ chế quản lý mới thì Nhà nước chỉ đóng vai trò là chủ sở hữu vốn của<br /> doanh nghiệp Nhà nước, còn chức năng quản lý kinh doanh ở các doanh nghiệp đã<br /> thực sự thuộc về lãnh đạo của doanh nghiệp<br /> Hệ thống tài khoản trong thời kỳ này phù hợp với cơ chế thị trường có sự<br /> điều tiết vĩ mô của Nhà nước, được thể hiện như sau:<br /> Thứ nhất, hệ thống tài khoản trong thời kỳ này có tính kế thừa từ hệ thống<br /> tài khoản trong thời kỳ trước<br /> Thứ hai, trong cơ chế quản lý mới của nền kinh tế, doanh nghiệp phải tự<br /> chịu trách nhiệm về bảo toàn và phát triển vốn, nên hệ thống tài khoản thời kỳ này<br /> đã bổ sung thêm tài khoản chênh lệch tỷ giá và hệ số giá, quỹ dự phòng tài chính,<br /> các tài khoản nguồn vốn được chi tiết để theo dõi vốn pháp định<br /> Thứ ba, qua hệ tài khoản tiền gửi ngân hàng chúng ta có thể thấy cơ quan<br /> chức năng Nhà nước và đơn vị chủ quản không còn can thiệp sâu vào hoạt động của<br /> các doanh nghiệp<br /> Thứ tư, với mục tiêu hướng tới nền kinh tế mở cửa, hệ thống tài khoản kế<br /> toán được bổ sung thêm các tài khoản để theo dõi ngoại tệ hiện có và tình hình liên<br /> doanh, liên kết ở các doanh nghiệp<br /> Ngoài ra, hệ thống tài khoản kế toán chưa cung cấp đầy đủ thông tin cho các<br /> đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như các nhà đầu tư tài chính, các nhà cung cấp<br /> tín dụng<br /> Như vậy, kể từ khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường theo định<br /> hướng xã hội chủ nghĩa, các chỉ tiêu tài chính và công tác quản lý ngày càng được<br /> coi trọng<br /> - Hệ thống tài khoản kế toán tại các doanh nghiệp từ năm 1995 đến nay<br /> Để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường, yêu cầu của nền kinh tế mở<br /> <br /> v<br /> <br /> cùng với sự hoà nhập với chuẩn mực và thông lệ phổ biến của kế toán các nước trên<br /> thế giới, Bộ Tài chính đã ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp theo Quyết định<br /> 1141/TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995. Quyết định số 1141 được áp dụng chủ yếu<br /> trong các doanh nghiệp có quy mô lớn nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin cho đối<br /> tượng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. So với hệ thống tài khoản kế toán của<br /> giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới là Quyết định số 212/TC/CĐKT ngày 15/12/1989<br /> thì hệ thống tài khoản kế toán theo Quyết định 1141 có những đặc trưng nổi bật: về<br /> số lượng tài khoản tổng hợp đã tăng lên đáng kể so với trước; về ký hiệu và tên gọi<br /> của tài khoản đã có sự thống nhất trong việc sử dụng ký hiệu và tên gọi; về trật tự<br /> sắp xếp của tài khoản: hệ thống tài khoản kế toán được sắp xếp theo nguyên tắc cân<br /> đối giữa giá trị tài sản và nguồn hình thành tài sản. Do vậy, hệ thống tài khoản kế<br /> toán theo Quyết định 1141 đã hướng chủ yếu vào việc thu thập thông tin, thuận lợi<br /> cho công tác lập báo cáo tài chính.<br /> Tuy nhiên về cơ bản, chế độ kế toán theo Quyết định 1141 vẫn còn tồn tại<br /> nhiều hạn chế do tính mở của tài khoản chưa cao cũng như chưa thể đáp ứng được<br /> đầy đủ nhu cầu thông tin cho quản lý và để phù hợp với tình hình thực tế phát triển<br /> của nhiều thành phần kinh tế trong nền kinh tế, Bộ Tài chính đã ban hành hai quyết<br /> định có giá trị thực tiễn trong công tác kế toán tại các doanh nghiệp đó là Quyết<br /> định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/3/2006 về việc ban hành chế độ kế toán doanh<br /> nghiệp và Quyết định số 48/2006/QĐ-BTC ngày 14/9/2006 về việc ban hành chế độ<br /> kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa.<br /> Có thể khẳng định, Quyết định 15/2006 ra đời là sự tổng hợp và hoàn thiện<br /> Chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam giúp cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành<br /> phần kinh tế, thuộc mọi lĩnh vực hoạt động có thể nhất thể hoá công tác kế toán<br /> nhằm nâng cao tính minh bạch trong công tác kế toán, tài chính của doanh nghiệp<br /> và nhằm đảm bảo tính so sánh trong nền kinh tế quốc dân. Và Quyết định 48/2006<br /> về việc ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa đã đáp ứng được tình<br /> hình thực tế tại Việt Nam trong việc đơn giản hoá công tác kế toán mà vẫn đảm bảo<br /> được chức năng quản lý kế toán, thuế trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đồng<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0