Xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn với việc bảo đảm quyền con người trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 1
download
Bài viết "Xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn với việc bảo đảm quyền con người trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay" phân tích và làm rõ vấn đề bảo đảm quyền con người là mục tiêu cốt lõi của luật nhân quyền quốc tế, gắn với nguyên tắc tiến bộ và công bằng xã hội, đồng thời đây là yêu cầu cơ bản của quá trình phát huy dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn với việc bảo đảm quyền con người trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI GẮN VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Nguyễn Thị Hoài Thương Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Hoài Thương, email: nththuong@ued.udn.vn Tóm tắt: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (CNXH) (1991) đã đề ra mục tiêu: xây dựng một xã hội do nhân dân lao động làm chủ; con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công; có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Nhận thức và quan điểm về quyền con người đã được Đảng, Nhà nước ta phát triển và hoàn thiện dần trong tiến trình đổi mới. Đại hội IX (năm 2001) của Đảng khẳng định: “Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia”. Trên cơ sở kế thừa thành tựu trong các thời kỳ cách mạng ở nước ta và vận dụng, phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, cũng như tiếp thu tinh hoa tư tưởng, pháp luật nhân quyền quốc tế, đường lối chỉ đạo của Đảng ta về quyền con người tiếp tục có bước phát triển mới. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta luôn gắn liền với việc bảo đảm quyền con người, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Từ khóa: xây dựng chủ nghĩa xã hội; Việt Nam; quyền con người; hội nhập. 1. QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI Quyền con người là những nhu cầu, lợi ích vốn có và cần phải có của con người để tồn tại với tư cách là một “thực thể tự nhiên” (nhu cầu để sống, để sinh tồn) và với tư cách là một “nhân tính tự do” (nhu cầu về sự phát triển năng lực vốn có của bản thân, về sự hoàn thiện nhân cách). Các nhu cầu vốn có này áp dụng chung cho tất cả mọi người mà không có sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội… Sự hiện diện các quyền con người phụ thuộc vào con người chứ không phải phụ thuộc vào địa vị của họ trong nền văn hóa, hoàn cảnh hoặc hệ thống xã hội mà họ đang sinh sống (UNIFEM Việt Nam, 2006, 16). 564
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Các nhu cầu, lợi ích của con người mang tính thiết yếu và có mối quan hệ thống nhất, không thể tách rời. Để bảo đảm được nhu cầu sinh tồn (quyền sống), con người cần có thức ăn, nước uống, môi trường sống… Vì thế, các quyền con người (với tính cách là những nhu cầu được xã hội thừa nhận) có mối quan hệ biện chứng, quy định lẫn nhau, trong đó, có những quyền là tiền lệ, là hạt nhân, là chuẩn mực của việc thực hiện các quyền khác. Những nhu cầu, lợi ích này phải được xã hội thừa nhận và bảo đảm thông qua các chế định pháp luật. Pháp luật là phương tiện chính thức hóa các giá trị xã hội của quyền con người. Nếu không có sự thừa nhận của xã hội thông qua pháp luật thì những nhu cầu, lợi ích vốn có của con người chưa trở thành quyền mà chỉ dừng lại ở mong muốn, khát vọng. Hơn nữa, việc ghi nhận của pháp luật về các quyền con người còn thể hiện mối quan hệ giữa pháp luật và các điều kiện bảo đảm khác (chính trị, kinh tế, văn hóa…). Chỉ có như vậy thì các điều kiện đó mới phát huy được vai trò của mình trong việc bảo đảm quyền con người. Quyền con người có nội dung phong phú, đa dạng, phức tạp. Do đó, để thúc đẩy và bảo đảm quyền con người cần có những nguyên tắc, tiêu chuẩn, cách thức khác nhau. Các nguyên tắc, tiêu chuẩn về quyền con người là nhân tố quan trọng, là điều kiện cần thiết để các chủ thể thực hiện nghĩa vụ bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Việc bảo đảm quyền con người ngày nay phải gắn với những hoạt động có ý thức của các chủ thể có nghĩa vụ nhằm đưa nguyên tắc về quyền con người (tính bất khả xâm phạm; bình đẳng và không phân biệt đối xử, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau; trách nhiệm giải trình và nhà nước pháp quyền) gắn liền với các hoạt động xã hội. Tiêu chuẩn về quyền con người là những tiêu chuẩn cơ bản, tối thiểu trên từng lĩnh vực nhằm giúp mọi người đạt được cuộc sống trong nhân phẩm, danh dự. Các nguyên tắc và tiêu chuẩn này phải được thấm sâu vào các giai đoạn của quá trình hoạch định và thực thi luật pháp, trong mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, bảo đảm quyền con người cần gắn liền với bảo đảm về chính trị, kinh tế, văn hóa, pháp luật và bảo đảm về thể chế. Bảo đảm quyền con người là mục tiêu cốt lõi của luật nhân quyền quốc tế, gắn với nguyên tắc tiến bộ và công bằng xã hội, đồng thời đây là yêu cầu cơ bản của quá trình phát huy dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 565
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 2. XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM GẮN VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI Khái niệm “Quyền con người” lần đầu tiên được đề cập trong các văn kiện quan trọng ở Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) nêu rõ: “Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con người” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2010, 145). Các văn kiện quan trọng của Đảng, Nhà nước; phát biểu của các nhà lãnh đạo tại các diễn đàn quốc gia, khu vực và quốc tế đều khẳng định rõ: “Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 134). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua cũng đã khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 76). Bên cạnh việc thừa nhận những nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ thực tiễn Việt Nam và thế giới, Đảng bước đầu xác định một số quan điểm cơ bản về vấn đề quyền con người. Các quan điểm cơ bản của Đảng được thể hiện tập trung trong Chỉ thị số 12/CT-TW ngày 12/7/1992 của Ban Bí thư Trung ương về vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta, được khẳng định lại trong Chỉ thị số 41/TTg ngày 1/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ tăng cường công tác bảo vệ, đấu tranh về nhân quyền trong tình hình mới và Chỉ thị số 44/CT-TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư công tác nhân quyền trong tình hình mới. Trên cơ sở các quan điểm đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định quyền con người là giá trị chung của nhân loại, mang tính giai cấp, gắn với quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi chủ quyền quốc gia. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam có ý nghĩa tiên quyết trong việc bảo đảm quyền con người. Hiến pháp 1992 đã khẳng định các quyền con người ở Việt Nam luôn được tôn trọng và bảo vệ liên tục, nhất quán bằng pháp luật, dưới dạng các “quyền công dân” (Điều 50, Hiến pháp 1992). Tiếp đó, 566
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục sử dụng khái niệm “quyền con người” với nội dung chính trị - pháp lý rộng hơn để phản ánh giá trị của cá nhân con người. Hiến pháp năm 2013 đã chuyển chương quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân từ “vị trí” Chương V (Hiến pháp năm 1992) lên “vị trí” Chương II (Hiến pháp năm 2013), tăng hai điều, từ ba mươi tư điều (từ Điều 49 đến Điều 82 - Hiến pháp năm 1992) lên ba mươi sáu điều (từ Điều 14 đến Điều 49 - Hiến pháp năm 2013). Hiến pháp năm 2013 đã có những thay đổi hết sức quan trọng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Lần đầu tiên Hiến pháp đã làm rõ hai khái niệm “quyền con người” và “quyền công dân”. Sự tách bạch này đã góp phần củng cố lý luận về quyền con người, quyền công dân, làm cơ sở để tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này cũng như áp dụng vào thực tiễn. Có thể nói, bảo đảm bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để các quyền con người được thực hiện. Mọi nhu cầu hay yêu sách về quyền con người nếu không được pháp luật ghi nhận và bảo vệ thì không thể có bất cứ một quyền con người nào. Giải phóng con người (trong đó có việc bảo đảm các quyền con người) gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội; chỉ có dưới tiền đề độc lập và chủ nghĩa xã hội thì quyền con người mới có điều kiện được bảo đảm rộng rãi, đầy đủ, trọn vẹn. Chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta hướng tới là xã hội luôn ý thức rõ việc nhận diện đầy đủ những biểu hiện của bất công và tìm phương thức, biện pháp xóa bỏ những bất công ấy. Từ thực tiễn đấu tranh giành độc lập, chúng ta ý thức sâu sắc rằng: nếu không giành được quyền tự chủ, tự quyết dân tộc thì không thể có nhân quyền trọn vẹn. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội kết hợp hài hòa; lợi ích của cá nhân được coi trọng vì đó là mục tiêu, là động lực của sự phát triển xã hội, song cần chú trọng bảo đảm lợi ích của tập thể và của cả cộng đồng xã hội. Với phương châm “tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”, Việt Nam luôn quan tâm đến công dân cũng như luôn quan tâm đến việc phát triển con người toàn diện, phù hợp với cách tiếp cận của Liên hợp quốc trong việc thực hiện quyền con người nhằm xây dựng, kết nối quan hệ đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng phát triển bền vững vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 567
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 3. HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM Với chủ trương “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình độc lập, hợp tác và phát triển”, Việt Nam luôn mở cửa, sẵn sàng giao lưu, tăng cường đối thoại và hợp tác quốc tế, kể cả trong lĩnh vực quyền con người trên cơ sở bình đẳng, xây dựng, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau. Với tinh thần đó, Việt Nam đã chủ động tham gia vào nhiều lĩnh vực hợp tác về quyền con người trong khuôn khổ các diễn đàn đa phương, cũng như trong quan hệ song phương và đạt được nhiều kết quả tích cực. Tham gia vào các công ước quốc tế về quyền con người là một chủ trương thường xuyên và nhất quán của Việt Nam, thể hiện cam kết cũng như quyết tâm của Việt Nam trong việc bảo đảm và thực hiện các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về quyền con người. Việt Nam đã trở thành thành viên của hầu hết các công ước quốc tế quan trọng của Liên hợp quốc về quyền con người, chẳng hạn như Công ước về quyền dân sự, chính trị; Công ước về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ; Công ước về quyền trẻ em… Việt Nam nghiêm chỉnh thực hiện các nghĩa vụ của công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Việt Nam đã trình và bảo vệ thành công tất cả các báo cáo quốc gia liên quan các công ước quốc tế về quyền con người. Trong khuôn khổ đa phương, Việt Nam đã tích cực phối hợp với các nước đóng góp cho mục tiêu chung là thúc đẩy, bảo vệ quyền con người và những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế về quyền con người. Việt Nam đã tham gia tích cực vào các Điều ước quốc tế quan trọng về quyền con người như: Ủy ban nhân quyền nhiệm kỳ 2001 - 2003, Ủy ban phát triển xã hội nhiệm kỳ 2001 - 2004, Hội đồng nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016. Tại các diễn đàn đa phương này, đặc biệt là tại Ủy ban III Đại hội đồng và Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc, Việt Nam đã tích cực phối hợp với các nước đóng góp cho mục tiêu chung là thúc đẩy, bảo vệ quyền con người và những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế về nhân quyền. Bên cạnh hoạt động tại các diễn đàn đa phương, Việt Nam chủ trương sẵn sàng đối thoại và hợp tác song phương với các quốc gia khác về những vấn đề quyền con người. Mục đích của Việt Nam trong việc tăng cường đối thoại với các nước là nhằm giúp các quốc gia hiểu biết sâu sắc hơn về những điều kiện đặc thù của từng 568
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” nước như hệ thống chính sách, hoàn cảnh lịch sử, bản sắc văn hóa… với tinh thần là tìm kiếm điểm chung, hạn chế bất đồng, nêu cao nguyên tắc khách quan, bình đẳng trong việc bảo vệ quyền con người. Quá trình hội nhập quốc tế đã và đang mở ra cho Nhà nước Việt Nam nhiều cơ hội trong việc bảo đảm quyền con người trên nhiều lĩnh vực, cũng như đã tác động đến tốc độ, quy trình xây dựng chính sách pháp luật về quyền con người. Hội nhập quốc tế mở ra cơ hội để con người cùng nhau chia sẻ các giá trị về tư tưởng, ý thức hệ, thúc đẩy quá trình giao lưu văn hóa và tri thức quốc tế, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc. Việc Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức WTO và nhiều tổ chức khác như Hội đồng Bảo an, Hội đồng nhân quyền đã thúc đẩy quá trình đổi mới, cải cách thể chế, hoàn thiện các thiết chế bảo đảm quyền con người diễn ra nhanh hơn. Việc tuân thủ các chế định quốc tế đã và đang tác động tích cực đến vai trò của Nhà nước trong việc hoàn thiện tổ chức bộ máy và các thiết chế nhằm thực hiện các cam kết quốc tế, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm quyền con người. Hội nhập quốc tế tạo ra cơ chế phối hợp của Nhà nước với các tổ chức quốc tế trong việc bảo đảm quyền con người. Việc tham gia và phê chuẩn các Điều ước quốc tế về quyền con người đòi hỏi Nhà nước Việt Nam tuân thủ, thực hiện các nguyên tắc, tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế, cụ thể hóa các nguyên tắc, tiêu chuẩn về quyền con người vào hệ thống pháp luật quốc gia, thúc đẩy nhanh hơn việc thực hiện quyền con người theo luật nhân quyền quốc tế. Đồng thời, thông qua hội nhập, các nguyên tắc về quyền con người trong pháp luật Việt Nam được tiếp cận với pháp luật quốc tế, làm cho thế giới biết nhiều hơn về những thành tựu, giá trị quyền con người của Việt Nam, đồng thời cũng là cơ hội để Việt Nam đưa các giá trị nhân quyền hội nhập cùng thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, quá trình hội nhập quốc tế cũng mang lại không ít thách thức trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo đảm quyền con người của Nhà nước. Tham gia hội nhập quốc tế, các quốc gia thường phải chấp nhận các “luật chơi” của các tổ chức quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Điều này dẫn đến vai trò Nhà nước trong hoạch định chính sách, pháp luật, trong đó có chính sách, pháp luật về quyền con người có phần hạn chế bởi sự chi phối của các định chế quốc tế. Từ đó vai trò tự chủ của “nhà nước dân tộc, chủ quyền quốc gia của nhiều nước đang phát triển bị suy giảm, trong khi, vai trò quyền lực của các tập đoàn tư bản 569
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG xuyên quốc gia, các thể chế quốc tế do các tập đoàn này chi phối tăng lên nhanh chóng” (Nguyễn, 2007, 324). Hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa đặt ra một thách thức nan giải đối với Nhà nước Việt Nam trong việc tạo ra cơ chế phối hợp giữa Nhà nước Việt Nam về việc bảo đảm quyền con người. Thực tiễn cho thấy, các tổ chức phi chính phủ, các tập đoàn tài chính lớn đã và đang phát huy ảnh hưởng của mình đến sự phát triển của một số quốc gia đang phát triển. Do đó, vai trò của các tổ chức này đang ngày càng tăng lên trong quá trình hội nhập quốc tế, thậm chí còn làm thay một số chức năng của Nhà nước, làm cho vai trò Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề xã hội phần nào bị thu hẹp. 4. GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI GẮN LIỀN VỚI BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, song phải tùy thuộc vào yêu cầu, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng thời kỳ để xác định nhiệm vụ trọng tâm. Trước những tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều vấn đề thách thức của thế giới cũng như trong nước, vì vậy nâng cao hiệu quả xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn với bảo đảm quyền con người trong bối cảnh hội nhập cần chú trọng tới một số nhiệm vụ cơ bản sau đây: Thứ nhất, xây dựng, kiện toàn các cơ quan nhân quyền gắn liền với đổi mới, hoàn thiện các cơ quan nhà nước, gắn liền với xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh hội nhập ở Việt Nam. Quá trình đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước phải phù hợp với đặc điểm của hệ thống chính trị nước ta là vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” do một Đảng duy nhất lãnh đạo; phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Kiện toàn tổ chức bộ máy phải nhằm bảo đảm các cơ quan trong hệ thống chính trị hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, tinh gọn, khắc phục tình trạng quan liêu, trùng lắp, chồng chéo về chức năng nhiệm vụ. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi tổ chức, bảo đảm hiệu lực hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước phải vừa kế thừa những thành quả, kinh nghiệm đã đạt được, vừa đáp ứng 570
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” yêu cầu của hội nhập quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, trọng tâm của việc đổi mới, kiện toàn tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước theo hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần tập trung từng bước hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội là “cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” ở nước ta. Để bảo đảm được vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật, sao cho mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội đều được bảo đảm bởi luật; cần thực sự đầu tư và nâng cao chất lượng các đạo luật, sao cho các đạo luật phản ánh được “hơi thở” của cuộc sống, bảo đảm cho chúng có giá trị lâu dài, song lại cụ thể, dễ thực hiện. Bên cạnh đó, cần từng bước đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Chính phủ, của các cơ quan tư pháp. Tăng cường năng lực thực thi cho cơ quan bảo vệ quyền con người, hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền con người, trong đó coi trọng việc hoàn thiện các thủ tục khiếu nại, khiếu kiện và phản biện xã hội, đảm bảo các tố cáo của công dân phải được các cơ quan hành chính có thẩm quyền kết luận. Cần thiết lập một hệ thống liên lạc giữa các Bộ, ban ngành cấp Trung ương cũng như các cấp ở địa phương, có như vậy, những vấn đề liên quan đến bảo đảm quyền con người của các nhóm yếu thế, những sai phạm trong việc bảo đảm quyền con người của các nhóm này được xử lý kịp thời và hiệu quả. Thứ hai, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người là tiền đề, xuất phát điểm và là căn cứ pháp lý vững chắc cho toàn bộ hoạt động bảo vệ nhân quyền của các cơ quan nhà nước, ngăn chặn các kẽ hở vi phạm pháp luật và tạo căn cứ pháp lý cho cá nhân, công dân tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã xác định: Nhà nước định ra các đạo luật quy định quyền con người, quyền công dân, trong đó, bên cạnh các đạo luật về kinh tế, Nhà nước cần ưu tiên xây dựng các đạo luật về quyền công dân. Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định cần: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm mọi vi phạm pháp luật đều phải xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996). Yêu cầu đặt ra của việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người vừa phải đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cuộc sống, vừa bảo đảm các yêu cầu của 571
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG hội nhập quốc tế, đáp ứng được các quy chế của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam tham gia, trên cơ sở độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hệ thống các văn bản pháp lý. Do đó, để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, trước hết cần tập trung hoàn thiện quy trình xây dựng chính sách, pháp luật về quyền con người; rà soát, sửa đổi, bổ sung pháp luật, chính sách có liên quan đến bảo đảm quyền con người phù hợp với Hiến pháp năm 2013. Đồng thời, trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền con người phải bảo đảm nguyên tắc tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, bảo đảm sự thống nhất về nội dung lẫn hình thức thể hiện của pháp luật. Thực tiễn cho thấy, nếu chỉ đề cao vai trò của pháp luật, tuyên truyền về những giá trị và khả năng của nó mà “không đi liền với kiểm tra việc thực hiện pháp luật, không quan tâm đến hiệu quả thực tế, mặt mạnh, mặt yếu của nó từ khi ban hành đến khi nó được thực hiện trong đời sống thì chỉ dẫn đến chỗ làm mất uy tín của pháp luật” (Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, 1994, 9). Do đó, các cơ quan chức năng cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực thi và áp dụng pháp luật đề tránh những trường hợp coi thường và vi phạm pháp luật. Thứ ba, tăng cường nâng cao nhận thức về pháp luật và quyền con người. Việc tôn trọng, bảo đảm và thực hiện quyền con người gắn liền với tăng cường nâng cao nhận thức về pháp luật và quyền con người. Đặc biệt là tăng cường giáo dục quyền con người cho chủ thể thực hiện quyền con người (đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức) và các chủ thể thụ hưởng quyền (tất cả mọi cá nhân, nhóm xã hội). Cần khẩn trương biên soạn chiến lược giáo dục quyền con người và xây dựng kế hoạch, lộ trình cụ thể cho tuyên truyền, giáo dục quyền con người. Tiếp đó, cần tăng cường quản lý nhà nước đối với công tác tuyên truyền, giáo dục quyền con người, đặc biệt cần đẩy mạnh việc giáo dục quyền con người trong hệ thống giáo dục quốc dân nhằm trang bị kiến thức nhân quyền đúng đắn cho học sinh, sinh viên, những chủ nhân tương lai của đất nước. Đồng thời, đẩy mạnh giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, công chức về trách nhiệm của họ đối với việc bảo vệ quyền con người. Một khi mỗi cán bộ, công chức, nhà quản lý có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng quyền con người thì khi đó cả quyền con người sẽ được bảo đảm, thực hiện một cách tốt nhất trong điều kiện kinh tế xã hội cho phép, thúc đẩy xã hội tiến bộ theo hướng dân chủ, văn minh. 572
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Thứ tư, tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người. Quá trình hội nhập quốc tế và phát triển đặt ra yêu cầu ngày càng cao về hợp tác, trao đổi với bên ngoài. Theo phương châm là bạn, là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế, Nhà nước ta phải không ngừng mở rộng hợp tác quốc tế với tất cả các quốc gia, các tổ chức quốc tế, thu hút các nguồn lực, tạo tiền đề cần thiết cho việc bảo đảm quyền con người. Thực hiện mục tiêu của hợp tác quốc tế là “làm cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện tinh thần nhân đạo, nhân quyền sâu sắc. Hiến pháp, pháp luật của chúng ta là nghiêm minh, hài hòa, tương thích với pháp luật quốc tế” (Cao, 2005, 61-62). Đồng thời, thông qua hợp tác quốc tế, chúng ta tranh thủ sự hỗ trợ các nguồn lực về tài chính, kỹ thuật phục vụ cho các nhiệm vụ của quốc gia. Để nâng cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, yêu cầu đặt ra đối với Nhà nước là phải tiếp tục tích cực, chủ động hội nhập sâu rộng hơn nữa trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao, an ninh, quốc phòng nhằm tăng cường sự ủng hộ, sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa Việt Nam và các đối tác; góp phần xây dựng môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển, cũng như tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với hoạt động bảo vệ độc lập, chủ quyền của Tổ quốc. 5. KẾT LUẬN Từ quan điểm “con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”, bởi mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước suy cho cùng là phải hướng tới phục vụ con người, vì con người và giải phóng con người. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng tới việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ngày nay, trước những tác động mạnh mẽ của quá trình hội nhập quốc tế, các quốc gia muốn tồn tại và phát triển buộc phải hòa mình vào xu thế của thời đại, việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia đã trở thành những vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với mỗi quốc gia. Quyền con người là thành quả của nhân loại. Vấn đề bảo vệ quyền con người là vấn đề có ý nghĩa toàn cầu. Trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, Việt Nam luôn luôn đổi mới và hội nhập quốc tế một cách toàn diện, trên nhiều lĩnh vực và đặc biệt luôn gắn liền với việc bảo đảm quyền con người, coi con người là “mục tiêu của sự phát triển”. 573
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Cao, Đ. T. (2005). Báo cáo kết quả nghiên cứu và kiến nghị về quyền con người trong thời kỳ đổi mới [Đề tài khoa học cấp Nhà nước 2002-2005]. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1996). Văn kiện Đại hội địa biểu toàn quốc lần thứ VIII. Chính trị quốc gia - Sự thật. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Chính trị quốc gia. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2010). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 51). Chính trị quốc gia. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Chính trị quốc gia. [6]. Nguyễn, Đ. B. (2007). Những đặc điểm của thế giới đương đại. Chính trị quốc gia - Sự thật. [7]. UNIFEM Việt Nam. (2006). CEDAW: Thiết lập lại quyền cho phụ nữ. [8]. Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật. (1994). Xã hội và Pháp luật. Chính trị quốc gia – Sự thật. 574
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn - Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia (Tập 2)
761 p | 20 | 12
-
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn - Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia (Tập 1)
638 p | 22 | 10
-
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
14 p | 6 | 4
-
Đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang - Âm mưu thâm độc nhằm chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
13 p | 7 | 4
-
Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tác phẩm “Thường thức chính trị” - Giá trị lý luận và thực tiễn
13 p | 7 | 3
-
Tác động của bối cảnh quốc tế đầu thế kỷ XXI đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
15 p | 10 | 3
-
Bối cảnh quốc tế và trong nước của quá trình đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
14 p | 3 | 2
-
Ngành Việt Nam học với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
12 p | 2 | 2
-
Chủ nghĩa xã hội và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - Từ góc nhìn văn hóa
11 p | 3 | 2
-
Bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
11 p | 2 | 2
-
Định hướng chính trị của Đảng Cộng sản trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay
12 p | 3 | 2
-
Giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
13 p | 2 | 2
-
Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội
19 p | 4 | 2
-
Tính tất yếu, mục tiêu, đặc trưng, bản chất, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
14 p | 4 | 2
-
Nhận thức mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội (từ Đại hội VII đến Đại hội XIII) và nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay
12 p | 5 | 2
-
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
14 p | 6 | 1
-
Vai trò của trí thức đối với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
12 p | 3 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn