intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài dự thi “Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam - Nguyễn Thị Mỹ Linh

Chia sẻ: Bachma46 Bachma46 | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:15

53
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài dự thi “Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam do Nguyễn Thị Mỹ Linh trình bày những cảm nghĩ về nền văn hoá, về đất nước và con người Lào.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài dự thi “Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam - Nguyễn Thị Mỹ Linh

Họ và tên: Nguyễn Thị Mỹ Linh<br /> Nghề nghiệp:Giáo viên<br /> Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Khương  Mai<br /> Quận Thanh Xuân – Hà Nội<br /> Email: nguyenthimylinh.hanoi@gmail.com.<br /> Điện thoại: 0916076188<br /> <br /> <br /> <br /> BÀI DỰ THI TÌM HIỂU:<br />  “LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM – LÀO, LÀO­ VIỆT NAM”<br /> <br /> <br /> Chủ đề 9:<br /> NHỮNG CẢM NGHĨ VỀ NỀN VĂN HOÁ, VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI LÀO<br /> <br /> <br /> <br /> <br />      Nếu bạn muốn tìm đến có một xứ  sở  để  tìm thấy sự  tĩnh lặng, bình yên trong tâm  <br /> hồn và có thể làm vơi đi bao tất bật, lo toan trong cuộc sống hiện đại thì hãy đến với  <br /> nước Lào thân yêu. Nước Lào được phủ  bởi màu xanh của các cao nguyên và những  <br /> cánh đồng bao la, không hấp dẫn bởi vẻ đẹp náo nhiệt, hiện đại, hào nhoáng, tráng lệ <br /> nhưng vẫn đầy quyến rũ bởi một vẻ đẹp huyền bí, cổ kính, thanh bình và thơ mộng.<br />      Nước Lào, trước đây gọi là Vương quốc Lạn Xạng, hay còn gọi là đất nước Triệu <br /> Voi, có tổng diện tích 236.800 km2, có đường biên giới giáp 5 nước. Phía Bắc giáp <br /> Trung   Quốc,   phía   Tây   bắc   giáp   Myanma,   phía   Tây   giáp   Thái   Lan,   phía   Nam   giáp <br /> Campuchia và phía Đông giáp Việt Nam.<br /> <br />     Lịch sử nước Lào trước thế kỷ XIV gắn liền với sự thống trị của Vương quốc Nam  <br /> Chiếu. Vào thế  kỷ  thứ  XIV, Vua Phà Ngừm lên ngôi đổi tên nước thành Lạn Xạng <br /> (Triệu Voi). Trong nhiều thập kỷ  tiếp theo, Lào nhiều lần phải chống các cuộc xâm <br /> lược của Miến Điện và Xiêm. Đến thế kỷ XVIII, Thái Lan giành quyền kiểm soát trên <br /> một số  tiểu vương quốc còn lại. Các lãnh thổ  này nằm trong phạm vi  ảnh hưởng của  <br /> Pháp trong thế kỷ XIX và bị sáp nhập vào Liên bang Đông Dương năm 1893. Trong thế <br /> chiến thứ 2, Pháp bị Nhật thay chân ở Đông Dương. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng  <br /> minh ngày 12 tháng 10 năm 1945, Lào tuyên bố  độc lập. Đầu năm 1946, Pháp quay trở <br /> lại   xâm   lược   Lào.   Năm   1949,   quốc   gia   này   nằm   dưới   sự   lãnh   đạo   của   Vua <br /> SisavangVong và mang tên Vương quốc Lào. Tháng 7 năm 1954, Pháp ký hiệp định  <br /> Giơnevơ công nhận nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Lào.<br /> <br />       Người dân Lào đã hấp thụ những phong tục và tín ngưỡng của hai nền văn minh Ấn  <br /> Độ  và Trung Hoa để  hình thành nên một nền văn hóa đặc sắc của riêng mình hết sức  <br /> độc đáo. Văn hoá Lào như một dòng chảy ngọt ngào đời này qua đời khác, hun đúc nên  <br /> tâm hồn, cốt cách của con người Lào.<br />       Nền văn hóa Lào là nền văn hóa Phật giáo.  Hiện nay, Lào có tới 1.400 ngôi chùa lớn  <br /> nhỏ. Vì vậy, xứ sở Triệu Voi sẽ là một điểm đến đầy hấp dẫn, lí thú đối với những ai  <br /> muốn tìm hiểu kiến trúc chùa chiền và Phật giáo.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Chùa Phakeo ngôi chùa cổ nhất Vientiane Lào<br />      Ở đây, du khách còn được dịp đến thăm ngôi chùa cổ Wat Sisaket được xây dựng từ <br /> năm 1818 theo kiến thúc Phật giáo Xiêm. Wat Sisaket gây ấn tượng bởi những hành lang <br /> với các bức tường được trang trí bằng hơn 2.000 hình ảnh đức Phật bằng đồng, gỗ quý, <br /> gốm sứ, mạ vàng và bạc.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Tượng Phật ở Wat Sisaket<br />       Đất nước Lào là đất nước của bốn mùa lễ hội. Lào có tết cổ truyền Bunpimay (có <br /> nghĩa là mừng năm mới), hay còn gọi là Tết té nước diễn ra từ  ngày 13 đến ngày 16 <br /> tháng 4 hàng năm. Vì các nhà chiêm tinh học tính ngày tháng theo lịch Phật, nên năm mới  <br /> hàng năm bắt đầu vào tháng tư dương lịch. Tết BunPiMay là ngày hội của dân tộc với <br /> niềm mong  ước hạnh phúc tốt đẹp của con người về  cả  đời sống vật chất lẫn tinh  <br /> thần, về tình cảm gắn bó, keo sơn giữa các bộ tộc Lào.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Tết  <br /> BunPiMay – lễ hội té nước, cầu may.<br />          Đến với đất nước Lào là đến với xứ  sở  của hoa Chăm­pa xinh đẹp. Nếu   “hoa <br /> sen” được xem là quốc hoa của đất nước Việt Nam thì   “hoa Chăm­pa” được xem là <br /> biểu tượng của đất nước và con người Lào. Hoa Chăm­pa (hoa đại) là một loài hoa biểu <br /> tượng của đất nước và con người Lào. Mang đậm một bản sắc riêng biệt,   hoa mang <br /> một vẻ  đẹp giản dị, trắng trong, tinh khiết, thanh cao và ngạt ngào hương sắc,  phản  <br /> ảnh rõ tính cách, tâm hồn của dân tộc  Lào với những con người có một vẻ đẹp giản dị, <br /> chan hoà, gìn giữ  và chất phác, thật thà. Ngoài cái đẹp bản sắc riêng của dân tộc Lào, <br /> hoa Chăm­pa có 5 cánh hoa xoè ra thể hiện sự đoàn kết muốn hợp tác vươn tới 5 nước  <br /> láng giềng với thể ứng xử cởi mở, cân bằng, mềm mại, hoà đồng bên ngoài, thống nhất <br /> ở bên trong. Ở Lào hoa Chăm pa có nhiều loại và mọc khắp nơi. Người dân Lào thường  <br /> trồng hoa Chăm­ pa để tô điểm cho vẻ đẹp thanh bình êm ả của đất nước và sống động  <br /> hơn trong không khí hội hè. Đến với đất nước Lào (Triệu Voi) là đến thăm đất nước  <br /> hoa Chăm pa xinh đẹp. Hạnh phúc biết bao khi được các cô gái choàng lên cổ vòng hoa  <br /> Chăm pa, buộc vào cổ tay vòng chỉ cầu mong phúc lành, đam mê không muốn dứt trong <br /> những điệu múa Lăm vông dưới bóng cây Chăm­pa. Vẻ đẹp của sắc màu hoa Chăm­pa <br /> còn được người dân Lào ví như  mối tình sáng trong của những đôi trái gái, đằm thắm <br /> như tình anh em Việt – Lào.<br /> <br />       Có cuộc sống yên  ả, thanh bình và thơ  mộng, người Lào thật thà, chất phác, hiền  <br /> hoà, dễ mến, trọng danh dự. Tính cách ấy biểu hiện rõ trên ánh mắt, nụ cười, cử chỉ và <br /> dáng điệu của mỗi con người. Trong gia đình họ chung sống hoà thuận, và đặc biệt họ <br /> rất quý trọng tình bạn, quý trọng chữ tín. Chuyện vợ chồng ly hôn cũng rất ít khi xảy ra,  <br /> vì nó bắt nguồn từ những phong tục thuần hậu truyền đời. Nếu như với người phụ nữ <br /> Việt Nam là “ Tam tòng tứ  đức”, thì người phụ  nữ   Lào là  “Hươn xảm nậm xi” (ba <br /> nhà bốn nước) được giáo dục từ hồi còn tấm bé. Đây cũng là nét văn hoá, phong tục đặc  <br /> sắc của người Lào.<br /> Người Lào rất gần gũi và hầu như không gặp trở ngại gì lớn trong văn hóa và giao tiếp. <br /> Sự  hài hòa giữa lòng nhân ái và tinh thần cộng đồng là một nét đặc sắc trong triết lý  <br /> nhân sinh người Lào. Ngạn ngữ Lào có câu: “Nói hợp lòng thì xin ăn cho cũng chả tiếc,  <br /> nói trái ý thì dẫu xin mua cũng chẳng bán” (Vầu thực khọ, khỏ kin cò bò thi (bò khỉ  <br /> thi), vầu bò thực khọ  khỏ  xừ  cò bò khải). Người Việt còn lưu lại trong thư  tịch <br /> cổ: “người Lào thuần hậu chất phác”, trong giao dịch buôn bán thì “họ  vui lòng đổi <br /> chác”. Đó cũng là tình cảm bình dị, chân thành mà người dân nước Việt giành cho người <br /> người dân láng giềng của mình.<br /> Phong tục ăn mặc  ở  Lào, phụ  nữ  phải mặc “Phaasin”, một kiểu váy dài có các mảng <br /> hoa văn đặc trưng, mặc dù nhóm các bộ tộc thường có trang phục riêng của họ.  Đàn ông <br /> thì mặc “phaa biang sash” vào những dịp lễ  hội. Ngày nay phụ  nữ  thường mặc trang <br /> phục kiểu phương Tây, nhưng “phaa sin” vẫn là trang phục bắt buộc. Những ngày lễ hội <br /> quan trọng, họ mặc y phục dân tộc là chiếc áo sơ mi cổ  tròn, khuy vải, cài về  phía tay  <br /> trái, quấn chiếc phạ­nhạo­nếp­tiêu màu sắc sặc sỡ  và quàng chiếc phạ  biềng (khăn) <br /> chéo qua ngực. Trong cuộc sống hàng ngày, người Lào thường dùng loại khăn gọi là  <br /> phạ­phe. Đây là chiếc khăn vải kẻ  ô màu trang nhã, thường dùng làm khăn tắm hay  <br /> dùng che đầu, quàng cổ, gói quần áo buộc vào thắt lưng...<br />       Với phụ nữ Lào, lúc còn nhỏ, họ có thể để tóc hoặc hớt tóc nhưng trên 10 tuổi thì <br /> phải bới tóc (chưa có chồng thì búi lệch, có chồng rồi thì búi thẳng), ngoài 50 tuổi, họ <br /> thường cắt tóc ngắn. Theo tập quán cổ truyền, phụ nữ Lào thường mặc váy có cạp, có <br /> gấu, không quá ngắn hoặc quá dài.<br /> <br />       Các bản mường ở Lào thường có một số dòng họ. Mỗi họ có nhiều gia đình. Các gia <br /> đình này gắn bó chặt chẽ  với nhau về  mặt truyền thống, tình cảm và kinh tế. Về  họ <br /> hàng, người Lào có họ  cha, họ  mẹ  và họ  nhà chồng, nhà vợ. Gửi rể  là tập quán phổ <br /> biến ở nông thôn Lào. Một số địa phương có tục gửi rể một thời gian nhất định, khi vợ <br /> chồng ra  ở  riêng sẽ  được hưởng một phần tài sản do cha mẹ  vợ  chia cho. Tùy mỗi  <br /> nhóm dân tộc, mỗi địa phương, quyền lực trong gia đình thuộc người chồng hay người  <br /> vợ. Đương nhiên, với chế độ tiểu gia đình phụ quyền thì quyền lực sẽ thuộc về người  <br /> chồng. Song, nhìn chung người phụ  nữ  Lào vẫn có một số  quyền hành nhất định, chứ <br /> không hoàn toàn  ở  vào vị  trí thấp kém trong gia đình cũng như  xã hội. Trong gia đình,  <br /> con gái có quyền lợi ngang với con trai. Con gái được tự do đi dự lễ hội, múa hát dưới  <br /> ánh trăng cùng bè bạn, kể cả bạn trai. Trong những ngày lễ hội của bản mường, con gái <br /> không bị  ngăn cản mà còn được công nhận như  một thành viên chính thức. Các cô gái  <br /> Lào có thể tự do kéo sợi, dệt vải, may chăn màn, làm nệm, thêu gối chuẩn bị cho ngày  <br /> cưới của mình. Khi bố mẹ chia tài sản, con gái cũng được hưởng một phần ngang với  <br /> con trai. Riêng giai cấp phong kiến Lào xưa nay không công nhận vai trò của người phụ <br /> nữ, luật pháp của vương quốc Lào trước đây quy định người phụ  nữ  không phải làm <br /> nghĩa vụ đối với Nhà nước.  <br /> <br />      Người Lào rất quý con, dù trai hay gái. Tất nhiên, những vùng có tục gửi rể, con gái  <br /> được quý hơn. Xưa nay, người Lào cũng có tâm trạng phiền muộn, cảm thấy thiếu  <br /> hạnh phúc khi vợ chồng lấy nhau lâu mà không có con. Người Lào thường nói “ Không <br /> có mèo chuột cắn khung cửi, không có con, họ hàng coi khinh”.<br /> Ở Lào, gia đình một vợ một chồng là phổ biến. Tầng lớp phong kiến, quan lại giàu sang <br /> lấy hai, ba vợ nhưng thông thường mỗi vợ ở một nhà riêng hoặc một địa phương khác. <br /> Vì cái cảnh vợ lẽ, vợ cả cũng là nguyên nhân gây nên những mối quan hệ khá phức tạp  <br /> đúng như người Lào thường ví: “Muốn nhà lắm rác thì ăn măng, muốn ầm nhà thì lấy  <br /> vợ  lẽ”. Con chú con bác hay con cô con cậu  ở Lào không được lấy nhau. Nhưng trong  <br /> hoàng tộc, không những con cô con cậu mà chú có thể lấy cháu. Anh em ruột, anh em họ <br /> hay bà con họ  hàng thường có quan hệ  gắn bó với nhau trong cuộc sống hàng ngày. <br /> Trong họ, ai săn bắn được con mồi lớn, bắt được mẻ cá ngon đều được san sẻ, cả  họ <br /> đều có phần. Lúc gặp khó khăn hoạn nạn thì họ  hàng đùm bọc, cưu mang, chủ  động  <br /> mang đến cho không chứ không phải hỏi xin hay vay mượn. Bà con họ hàng không đòi  <br /> hỏi điều kiện gì ngoài lòng mong muốn người thân vượt qua khó khăn trước mắt, về <br /> sau khi làm ăn thuận lợi khấm khá vẫn không bao giờ  quên tình nghĩa anh em họ  hàng. <br /> Sau ngày mùa, có thời gian rãnh rỗi, người Lào có tục thu xếp quà cáp đi thăm hỏi bà  <br /> con họ hàng gần xa với quan niệm: “Ngọc không dũa ba năm thành sỏi đá, bà con không  <br /> đi lại ba năm hóa người dưng”. Gia đình nào hiếm con cái thường nuôi con bác, con chú <br /> cho khỏi vắng vẻ. Một số  địa phương  ở  Nam Lào, chị  em gái lấy chồng có con đã ra  <br /> riêng nhưng vẫn gần gũi thương mến nhau hơn cả anh em trai.<br /> Ngoài họ  hàng bà con ra, mỗi thành viên trong bản làng còn có mối quan hệ  với  <br /> xóm giềng. Dù không cùng chung huyết thống nhưng lại có rất nhiều mối quan hệ ràng  <br /> buộc với nhau trong cuộc sống, lao động sản xuất. Có thể nói, họ đã biết dựa vào nhau,  <br /> đùm bọc nhau trong cuộc đấu tranh để sinh tồn. Khi trình độ sản xuất còn thấp kém, kỹ <br /> thuật canh tác còn lạc hậu thì những việc như  làm ruộng, phát rẫy, đắp mương, rồi <br /> thiên tai địch họa…đều phải dựa vào sức lao động của cả  cộng đồng. Có thể  nói xưa <br /> nay, mỗi gia đình trong bản có công việc hệ trọng như: bệnh tật đau ốm, sinh nở, cưới  <br /> xin, ma chay, tu hành…đều có sự hỗ trợ to lớn của xóm giềng, bản làng. Các thành viên <br /> trong bản coi việc giúp đỡ lẫn nhau là nghĩa vụ, là đạo lý làm người, không ai nghĩ rằng <br /> mình sẽ được trả ơn sau này. Về mối quan hệ xóm giềng, bản làng các già bản thường  <br /> dùng những câu tục ngữ để  khuyên răn con cháu như: “gỗ  một cây rào dậu không kín”, <br /> lúc thiếu thốn thì “con cá nhỏ bằng ngón tay út cũng chia đôi”, gặp khó khăn trở ngại thì <br /> “nặng giúp nhau gánh, dai giúp nhau kéo”. Đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng <br /> là tập quán tốt đẹp của người Lào được duy trì qua nhiều thế hệ. Nhưng sau này có nơi <br /> đã bị bọn phong kiến, quan lại lợi dụng để bóc lột những người nông dân lao động cần <br /> cù chất phác, phá hoại sự chân tình, vô tư trong sáng một truyền thống tốt đẹp của bản <br /> mường. Ngày nay, tập quán tốt đẹp trên được kế  thừa và phát huy để  phát triển sản <br /> xuất, xây dựng cuộc sống mới và bảo vệ bản làng.<br /> Với tập quán đoàn kết, đùm bọc, giúp đỡ  lẫn nhau khi có tai biến, lúc mừng vui  <br /> không có nghĩa là trong các bản mường không có những mâu thuẩn, va chạm, tranh chấp <br /> với nhau trong cuộc sống, nhất là khi sản xuất chưa phát triển, trình độ  dân trí còn <br /> nhiều hạn chế. Nhưng từ thưở xa xưa, người Lào vốn yêu chuộng cuộc sống hiền hòa, <br /> êm ái. Và đây cũng là một trong những bản sắc của dân tộc Lào. Đứng trước mâu thuẫn,  <br /> xích mích, người Lào thường có sự  kiềm chế rất lớn, với quan niệm “chín lần nhịn sẽ <br /> được thỏi vàng”. Hơn thế nữa, người Lào còn rất kỵ cách xử thế “ ăn cho thỏa đói, nói  <br /> cho thỏa giận”. Do đó mà trong các bản mường, kể  cả  đô thị, nơi tập trung như  chợ <br /> búa, bến tàu, bến xe thường rất ít xảy ra cãi cọ, chửi bới, xô xát lẫn nhau. Mọi sự tranh  <br /> chấp đều được hòa giải một cách êm thấm có lý có tình thông qua các già bản, trong đó  <br /> không thể không kể đến sự nhân nhượng, phục thiện của mỗi bên. Cãi nhau, chửi nhau <br /> đối với người Lào là điều xa lạ, còn đánh nhau là một tội lỗi.<br /> Mến khách, sẵn sàng giúp đỡ những người gặp hoạn nạn, sa cơ lỡ vận gặp cảnh  <br /> ngộ  éo le cũng trở  thành một tập quán của người Lào. Khách nhỡ  độ  đường ghé quan  <br /> bản thường được mời ngủ lại cùng ăn uống với gia đình. Nếu ngại làm phiền gia đình <br /> thì có thể  ra  ở  “xả­la” một loại nhà từ  thiện của bản.  Ở  đây có đủ  xoong, nồi, mắm  <br /> muối, gạo nước để khách tự nấu ăn. Nếu khách là người quen biết, dù không thân thiết <br /> nhưng lâu ngày mới có dịp gặp lại thì được gia chủ đón tiếp nhiệt tình và cởi mở. Còn  <br /> là khách thân thiết, ngoài bữa cơm rượu thân mật, chủ  nhà còn làm lễ  “cầu may” cho <br /> khách. Để tăng thêm không khí trang trọng, chủ nhà có thể gọi các con ra chắp tay trước  <br /> ngực lễ  phép chào hỏi khách. Trước thái độ  chân tình, cởi mở  của chủ  nhà làm cho  <br /> khách được tự nhiên thoải mái ăn uống, trò chuyện. Nhưng dù gia chủ có ân cần cởi mở <br /> đến đâu, khách cũng không được suồng sã, mà cần ý tứ theo đúng tập quán truyền thống  <br /> để khỏi phật ý gia chủ. Người Lào rất kỵ sờ đầu và rất chú ý giữ gìn, đặc biệt là nam <br /> giới. Họ thường tránh chui qua gầm nhà, dây phơi quần áo hoặc các vật ô uế khác. Bởi  <br /> vậy, khách tuyệt đối không được đụng chạm vào đầu người khác hoặc xoa đầu trẻ em.  <br /> Trong phòng chật hẹp khi đi lại tránh không để  đụng hoặc bước qua chân người khác.  <br /> Khi đi qua trước mặt các cụ  già phải xin lỗi và cúi thấp người xuống một chút. Trong  <br /> bữa ăn, khi gắp thức ăn tránh để chạm tay người khác.<br /> Về  chào hỏi, những người cùng trang lứa gặp nhau thường chào “sạ­bai­đi” <br /> (chào mạnh khỏe) đồng thời hai tay chắp trước ngực, đầu hơi cúi xuống. Đối với sư <br /> sãi, ông bà, cha chú, thầy cô giáo, hoặc những người cao niên đáng kính khác khi chào  <br /> hỏi, nam cũng như  nữ  thường chắp hai tay ngang trán. Ngày nay, tại các đô thị, trong  <br /> công sở, để  hòa nhập với xu thế  của thời đại các giới chức gặp nhau thường bắt tay.  <br /> Nhưng giữa viên chức người Lào với nhau trước khi bắt tay họ vẫn chắp tay chào theo  <br /> truyền thống.<br /> Người quen hay lạ bị lỡ đường khi đi qua nương rẫy có thể ghé vào nhà nghỉ ngơi  <br /> ở các chòi canh dù vắng chủ. Trên chòi thường có sẵn gạo, mắm muối, nồi chảo, khách <br /> có thể  nấu ăn. Trên rẫy nếu có rau quả  như  bầu bí, ngô, sắn, khách có thể  đào, hái về <br /> nấu ăn. Nhưng sau đó, bằng mọi cách khách báo cho chủ biết việc ăn ở của mình gọi là <br /> “khóp”. Được tin, chủ nương rẫy chẳng những không phật ý mà còn tỏ ra vui vẻ  vì tự <br /> nhiên đã làm được một việc thiện. Điều tối kỵ  đối với người Lào là sau khi đã  ở  lại  <br /> trên chòi, đã đào hái rau quả, xong cố tình xóa các dấu vết. Trong trường hợp này, người <br /> Lào thường có tập quán làm dấu thật rõ để  chủ  nhân nhận biết ngay, gọi là “ mải <br /> khóp”. Khi đi qua các khu rừng, dù cách xa bản năm mười cây số, gặp tổ ong mật trên <br /> cây, những bụi sa nhân rừng…nhưng đã được đánh dấu (có vết chặt chéo nhau, gai <br /> những cành lá đã khô…) thì coi như đã có chủ, không được đụng chạm đến. Đây cũng là  <br /> một quy  ước của bản làng. Nếu ai đó vì lòng tham cứ  tùy tiện lấy thì coi như  ăn cắp.  <br /> Nếu biết chính xác người lấy thì người nhận trước có thể kiện với già bản và đòi bồi <br /> thường.<br /> Sống trung thực, thật thà, không tham lam lấy của người khác là một tập quán hết  <br /> sức tốt đẹp của người Lào vốn có từ xa xưa đến tận ngày nay vẫn được kế tục và phát <br /> huy. Trước đây  ở  các bản làng, theo thường lệ, thiếu thốn thì cho nhau hoặc cho vay  <br /> mượn, đến khi có thì trả, không phải trả  lãi. Họ  thường vay mượn lúa gạo vào những  <br /> tháng giáp hạt hoặc mùa màng thất bát do thú rừng phá hoại. Được hộ  cho vay thỏa <br /> thuận, người đi vay mang thúng mủng của mình đến nơi để  lúa tự  đong đếm. Đến khi <br /> trả, sau khi báo cho chủ  biết, người vay tự  mang lúa đến đổ  vào bồ, không cần sự <br /> chứng kiến của gia chủ. Người cho vay cũng như  người đi vay mượn hoàn toàn tin  <br /> tưởng nhau, không hề nghĩ đến hơn thiệt, vay đầy trả vơi. Họ quan niệm rằng những ý <br /> nghĩ, việc làm như vậy là một tội lỗi. Để đề  phòng những tai biến bất ngờ, người Lào <br /> thường phân tán lúa gạo. Sau khi thu hoạch hộ nào cũng dựng một chòi nhỏ gọi là “ làu­<br /> khạu” để  cất giữ  lúa, ngô  ở  ngay bên ruộng, rẫy cách xa bản dăm ba cây số  nhưng  <br /> không mấy khi bị mất mát. Ở Nam Lào các gia đình nuôi trâu bò thả rông từng đàn năm <br /> ba chục con gần như quanh năm trong rừng nhưng vẫn không mất trừ trường hợp bị thú  <br /> dữ bắt.<br />         Văn hoá Lào như một dòng chảy ngọt ngào đời này qua đời khác, hun đúc nên tâm <br /> hồn, cốt cách, và văn hoá của người Lào. Qua thời gian năm tháng được kết tinh  ở <br /> những phong tục văn hoá đẹp đẽ  như  Tết Té nước để  giải trừ  mọi lo âu phiền muộn; <br /> Buộc chỉ cổ tay chúc phúc người thân, chúc phúc khách quý, bạn bè… đó là mỹ tục rất  <br /> đẹp đẽ, độc đáo và hiếm có; và hoà cùng với tiếng chiêng, tiếng khèn, điệu Lăm vông <br /> mềm mại uyển chuyển làm say đắm lòng người, như mời gọi, như níu giữ  bước chân <br /> du khách đã đặt chân đến đất nước Lào là không muốn rời xa, là dẫu chỉ  một lần mà <br /> lưu luyến mãi.<br /> Các nước đạo Phật phát triển trở thành quốc giáo thì phong tục tập quán cơ bản giống  <br /> nhau. Con người Lào lịch sự, lễ phép, không thoa đầu mọi người kể cả  trẻ  em, không <br /> bá vai, bá cổ. Người Lào gặp nhau, người dưới chắp tay chào người trên; trẻ  em chắp  <br /> tay chào người lớn, không bao giờ họ  lớn tiếng cãi nhau. Khi chào hoặc khi đáp từ  kể <br /> cả  thành tiếng hoặc không thành tiếng người ta thường dùng các cử  chỉ  như: thông <br /> thường hai tay chắp lại với nhau giơ lên ngang ngực, đầu hơi cúi xuống, nếu tỏ ý kính <br /> trọng đối với người lớn tuổi hoặc cấp trên thì giơ ngang mặt. <br /> Nhân dân các dân tộc Lào rất thích ca múa, đặc biệt là các làn điệu dân ca truyền  <br /> thống. Không chỉ trong những ngày lễ  hội, vui chơi hợp quần… người Lào còn hay ca  <br /> hát trong sản xuất ngoài ruộng nương, đi hái lượm trong rừng, xuôi ngược trên các dòng <br /> sông.<br /> Dân ca Lào rất phong phú, giàu âm điệu, mang đậm bản sắc dân tộc được phổ <br /> biến rộng rãi trong nhân dân từ  nông thôn đến thành thị. Người có công lớn trong việc  <br /> sưu tầm, phổ biến và nâng cao các làn điệu dân ca là các “mỏ­lăm” (ca sĩ), “mỏ  khen”  <br /> (nhạc công, thổi khèn bè). Đội ngũ “mỏ  lăm, mỏ  khen” ngày càng phát triển trước yêu  <br /> cầu thưởng thức ca múa của nhân dân ở  các bản mường, trong đó có nhiều nghệ  sĩ tài <br /> ba nổi tiếng vừa có thể sáng tác vừa biểu diễn được đông đảo nhân dân ưu ái, mến mộ.  <br /> “Mỏ  lăm” ở Lào có vị trí thật đặc biệt trong xã hội. Họ sống gần gũi nhân dân, đi đến  <br /> bản làng nào cũng được đón tiếp nồng nhiệt. Họ  am hiểu sâu sắc cuộc sống, xã hội <br /> Lào, nắm bắt được tình cảm, ước mơ của các tầng lớp nhân dân. Có thể nói, họ là một  <br /> tri thức, một nghệ sĩ của nhân dân, được nhân dân nuôi dưỡng.<br /> Dân ca của Lào có nhiều loại như lăm, khắp, xỡng, kạp, ăn nẳng­xử… Mỗi loại  <br /> lại mang sắc thái riêng của từng miền, từng dân tộc, từng địa phương. “Lăm” sử  dụng <br /> nhiều thể loại thơ nhất được quần chúng ưa thích nhất và phổ biến trong cả nước.<br />        Âm nhạc của Lào ảnh hưởng lớn của các nhạc cụ dân tộc như khèn (một dạng của <br /> ống tre. Một dàn nhạc điển hình bao gồm người thổi khèn cùng với biểu diễn múa bởi <br /> nghệ  sĩ khác. Múa Lăm vông (Lam saravane) là thể  loại phổ  biến nhất của âm nhạc <br /> Lào, những người Lào ở Thái Lan đã phát triển và phổ biến rộng rãi trên thế giới gọi là  <br /> mor lam sing..Khi được mời cùng múa  Lăm Vông  với người khác giới, hai người đi <br /> song song nhưng không va chạm vào người phụ nữ.<br /> Múa Lăm vông<br />        Đất nước Lào có nhiều công trình lịch sử văn hoá, có thiên nhiên tươi đẹp, có nhiều <br /> cảnh   quan   nổi   tiếng   như:  cố   đô   Luông   Phra­băng   (di   sản   văn   hoá   thế   giới),   chùa <br /> Vạtxixun (Luông pha băng), Núi phú Xỉ, Cánh Đồng Chum huyền bí (Xiêng Khoảng), <br /> thác Khôn, thác Quang Xi, Hang Thẳm tình.v.v.  Cánh Đồng Chum huyền bí  ở  Xiêng <br /> Khoảng gắn liền với nhiều huyền thoại kỳ thú. Tháp That Luang ở  Thạt Luổng ­ biểu <br /> tượng   của  văn  hóa Phật  giáo  và  hiện  được  coi  là biểu  tượng  của nước  Lào.Tháp <br /> Patuxay ­ biểu tượng chiến thắng của người Lào được xây dựng vào năm 1962để vinh <br /> danh những chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào. Cố  đô <br /> Luông Phra­băng đã được UNESCO công nhận là di tích lịch sử và văn hóa của thế giới  <br /> năm 1995, với nhiều di tích lịch sử, tôn giáo, chùa và làng cổ kính với những kiến trúc và <br /> chạm trổ  độc đáo; đặc biệt, thác nước Tát Khoang­xi, được ca ngợi như  "viên ngọc <br /> xanh giữa rừng nhiệt đới”.<br />           Lào  là một vùng đất có lịch sử  lâu đời nhưng trải qua các cuộc chiến tranh với  <br /> người Miến Điện, Trung Hoa và đặc biệt với đế  quốc Xiêm nên nhiều di tích lịch sử,  <br /> văn hóa, tôn giáo bị tàn phá. Nhiều di tích hiện nay đã được xây dựng lại trong cuối thế <br /> kỷ 19, đầu thế kỷ 20 còn nét cổ kính, uy nghi. <br /> <br />       Viêng Chăn ­ tên gọi của thành phố bắt nguồn từ tiếng Pali, có nghĩa là “thành phố  <br /> của gỗ đàn hương” – một loại cây quý trong kinh điển Ấn Độ. Theo tiếng Lào ­ Wiang  <br /> Jan có nghĩa là “thành phố của mặt trăng”. Thành phố nằm dọc theo bờ sông Mekong, <br /> có lẽ vì thế mà có một môi trường sống rất dễ chịu, thoáng đãng. Khi người Pháp cai trị, <br /> họ quy hoạch hệ thống đường, xây dựng các biệt thự, công trình mang phong cách Pháp. <br /> Con đường lớn nhất xuyên giữa lòng thành phố là Đại lộ Lan Xang (Lan Xang có nghĩa <br /> là Triệu voi) ­ được ví như Đại lộ Champs Elysées ở Paris (Pháp).Cuối Đại lộ Lan Xang <br /> là Patuxay Gate­ biểu tượng chiến thắng của người Lào được xây dựng vào năm 1962. <br /> Công trình này dùng để  vinh danh những chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Pháp <br /> của nhân dân Lào. <br /> Patuxay Gate  có nhiều tên gọi khác: “đường băng thẳng đứng” hay “Champs Elysées  <br /> của phương Đông”... Patuxay Gate trước đây được biết đến là tượng đài Anousavary. <br /> Hình thức bên ngoài Patuxay Gate có phần nào đó giống với khải hoàn môn ở Paris, tuy  <br /> nhiên, vẫn nở rộ nét đặc sắc của nhân dân Lào: những hình tượng trang trí Kinari – nửa  <br /> người phụ  nữ  và nửa chim, những phù điêu mô tả  trường ca Rama và các tháp mang  <br /> đậm phong cách của người Lào. Từ trên cao, Thủ đô Viêng Chăn hiện ra trước mắt du <br /> khách không gian bao la và trải rộng vươn ra mọi hướng. Patuxay Gate lại kết hợp hài  <br /> hòa trong không gian quảng trường rộng lớn. Mỗi khi chiều về là lúc người dân Viêng <br /> Chăn cùng du khách lại tụ  tập về  đây vui chơi thư giãn. Tại Viêng Chăn, có rất nhiều <br /> chợ đường phố. Thức ăn của Lào rất đặc biệt và ngon, thủ công mỹ nghệ truyền thống  <br /> như: dệt­lụa, đồ  trang sức và giỏ  xách phong phú. Ngoài ra có Công viên Phật lưu giữ <br /> bộ  sưu tập bê tông ngoài trời của nghệ  thuật điêu khắc Phật giáo và Hindu, Hồ  Nam  <br /> Ngeun, làng văn hóa Vangxang... Ở Viêng Chăn có nhiều ngôi chùa rất lớn và nổi tiếng <br /> như  Wat Sisaket, Ong Teu, That Luang... Chùa Wat Sisaket lưu giữ  đến 6.840 tượng  <br /> Phật lớn nhỏ rất quý hiếm và là ngôi chùa có nhiều tượng Phật cổ nhất Lào. Tượng ở <br /> đây được làm chủ  yếu bằng đồng, một số  làm từ  các vật liệu khác như  gỗ  quý, bạc  <br /> hoặc mạ vàng. Đối diện với chùa Wat Sisaket là chùa Prakeo, nét độc đáo ở  đây là pho  <br /> tượng quý hiếm Phật Phra Bang (đúc tại Sri Lanka, bằng vàng) được vua Fa Ngum  <br /> mang từ  Angkor về  Viêng Chăn trong thế  kỷ  14. Điểm nổi bật nhất là chùa Heavy <br /> Buddha được xây dựng từ  thế  kỷ  thứ  I, hiện là trường học của sư  sãi, các nhà sư  từ <br /> nhiều miền đất nước của Lào được truyền dạy kinh Phật dưới sự hướng dẫn của các  <br /> sư trụ trì thâm niên. <br />      Tháp That Luang (Thạt Luổng)­ di sản văn hóa thế giới, biểu tượng văn hóa Phật  <br /> giáo và hiện được coi là biểu tượng của nước Lào. That Luang được xây dựng năm <br /> 1566 trên nền phế tích của một ngôi đền Khmer thế kỷ XIII và theo truyền thuyết là có <br /> chứa một sợi tóc của Đức Phật được một nhà truyền giáo mang đến từ Ấn Độ. Sau đó, <br /> tháp Thạt Luổng bị tàn phá và đổ nát sau cuộc xâm lược của người Thái ở thế kỷ XIX. <br /> Năm 1930, tháp được khôi phục lại theo kiến trúc nguyên bản với độ  cao 45m. Bức  <br /> tượng ngay phía trước tháp là vua Setthathilath, người đã cho xây dựng tháp đầu tiên. <br /> Ngày xưa, bốn mặt vòng quanh That Luang được bao bọc bởi các ngôi chùa nhưng hiện <br /> tại chỉ còn tồn tại chùa Luang Nua và Luang Tai. Hằng năm, ở đây, vào trung tuần tháng <br /> 11 diễn ra lễ  hội cấp quốc gia là Lễ  hội That Luang. Tháp That Luang được coi là rất  <br /> linh thiêng nên có nhiều người đến đây cầu khấn các nguyện vọng. <br /> <br /> <br /> <br /> <br />      Luông Pra Băng hay Luông Pha Băng, nghĩa là Phật Vàng Lớn. Luông Pha­băng là <br /> Thủ đô của Vương triều Lan Xang thế kỷ thứ 14, thời kỳ hưng thịnh của Lào dưới triều  <br /> Vua Xê­tha­thi­lát, nhưng từ  năm 1545 chiến tranh xảy ra liên miên, Vua Xê­tha­thi­lát  <br /> quyết định rời kinh đô đến Viêng Chăn. Trước năm 1975, nó vẫn là thủ  đô hoàng gia, <br /> trung tâm của Vương quốc Lào. Ngày nay, nó là tỉnh lỵ của tỉnh Luông Pra Băng. Luông  <br /> Pha Băng có 129 điểm du lịch, với nhiều di tích lịch sử, tôn giáo, chùa và làng cổ  kính  <br /> với những kiến trúc và chạm trổ độc đáo, có cố cung hoàng gia, thác nước Tát Khoang­<br /> xi, được ca ngợi như  "viên ngọc xanh giữa rừng nhiệt đới". Luông Pha­băng đã được <br /> UNESCO công nhận là di tích lịch sử và văn hóa của thế giới năm 1995.  <br /> Thác nước Tát Khoang­xi<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Luông Pra Băngmiền Bắc Lào<br /> <br /> Cánh đồng chum ­ một di tích khảo cổ học nằm ở tỉnh Xiêng Khoảng có khoảng 2.000 <br /> cái chum lớn nhỏ  ở 52 địa điểm nằm rải rác tại chân dãy núi Trường Sơn. Kích thước <br /> của các chum đá dao động khoảng từ  0,5 đến 3m, trọng lượng lên đến 6000 kg và có  <br /> niên đại khoảng 1500 đến 2000 năm. <br />       Các câu chuyện huyền thoại của người Lào cho rằng có những người khổng lồ đã <br /> từng định cư   ở  khu vực này. Theo một truyền thuyết khác, một vị  vua cổ  đại tên là  <br /> Khun Cheung ­ đã tiến hành cuộc chiến chống lại kẻ thù thành công. Ông đã cho tạo lập <br /> cánh đồng chum để ủ lên men và chứa số lượng lớn rượu gạo lao lao để ăn mừng chiến <br /> thắng. Cánh đồng chum mang trong mình những bí  ẩn của một nền văn hoá, một thế <br /> giới tâm linh mà cho đến bây giờ vẫn chưa rõ về xuất xứ…<br /> Với nét văn hóa đặc trưng của chùa, tháp cổ kính, những lễ hội đậm đà bản sắc, những  <br /> điệu múa Lăm Vông của những con người thân thiện hiếu khách luôn làm lưu luyến <br /> những ai đã từng đặt chân tới đất nước Lào.Đất nước, con người và nền văn hoá Lào  <br /> quả  là đang mang trong mình nguốn sức mạnh vô biên, ẩn chứa biết bao điều kỳ diệu,  <br /> đó chính là tiềm năng và là nguồn nội lực to lớn. Tiềm năng và nguồn lực to lớn đó đang <br /> được Đảng, Nhà nước và nhân dân các bộ  tộc Lào trân trọng, giữ  gìn, bồi đắp và phát  <br /> huy trong thời đại mới, thời đại hội nhập và phát triển.<br />        Nếu bạn hỏi tôi rằng, tôi có muốn quay trở  lại nơi đây không?   Câu trả  lời chắc <br /> chắn là – có. Quay lại để  khám phá những tinh hoa văn hóa, quay lại để  thấy được sự <br /> dung dị  và bình yên của cuộc sống hằng ngày nơi đây. Quay lại để  cảm nhận còn đó <br /> những khó khăn của những người dân Bản Nọt – một từ được dùng chung để chỉ những  <br /> người sống  ở nông thôn.  Quay lại đến biết rằng tôi đã có một trải nghiệm thú vị  đến <br /> nhường nào. Và đó chính là hành trình mà tôi đã đi và cảm nhận. Còn bạn thì sao? Hãy  <br /> xách balo lên và đi thôi nào…<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2