intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo đề tài: Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Thăng Bình, giai đoạn 2021- 2023

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:38

23
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài "Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Thăng Bình, giai đoạn 2021- 2023" là làm rõ cơ sở lý luận về quản lý nhà nước trong xây dựng nông thôn mới và phân tích thực trạng hiện tại của việc quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Dựa trên kết quả phân tích này, đề ra những phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm nâng cao tính hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo đề tài: Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Thăng Bình, giai đoạn 2021- 2023

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ------- BÁO CÁO HỌC PHẦN: QUẢN LÝ CÔNG CHỦ ĐỀ: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THĂNG BÌNH, GIAI ĐOẠN 2021 – 2023 GVHD: ThS. Nguyễn Danh Khôi Sinh viên: Trần Tiểu Hùng Bùi Nguyễn Trung Nguyên Võ Nguyễn Quỳnh Như
  2. Đà Nẵng, tháng 11 năm 2024
  3. MỤC LỤC
  4. TỔNG QUAN 1. Lý do chọn chủ đề báo cáo Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, chúng ta đã có được nhiều thuận lợi, cơ hội tạo đà bước nhanh và đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong sự nghiệp đổi mới. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế và nền kinh tế thị trường đang đặt ra nhiều thách thức to lớn trên con đường phát triển của nước ta. Trong đó, chính là làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo, mức sống giữa khu vực nông thôn và thành thị. Kinh tế nông thôn còn chậm đầu tư để phát triển, dân cư còn hạn chế trong việc tiếp cận với các dịch vụ công cộng. Đặc biệt dân số nông thôn ở nước ta chiếm trên 62% dân số cả nước, thu nhập của người nông dân chỉ bằng ½ bình quân chung, chưa kể đến tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ nghèo đa chiều ở khu vực nông thôn còn khá cao. Đòi hỏi việc giải quyết tốt các vấn đề về phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn gắn liền với công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang ý nghĩa chiến lược và tối cần thiết với sự phát triển bền vững của đất nước. Với những kết quả tích cực và bài học kinh nghiệm trong thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020. Đại hội lần thứ XIII của Đảng, nhiệm kỳ 2021 - 2026, Đảng ta đã tiếp tục khẳng định rõ: “Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới, hướng tới mô hình nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh…”. Trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 22/02/2022 phê duyệt Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025 và các Quyết định ban hành các bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới kèm theo. Có thể nói xây dựng nông thôn mới đang là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp thiết. Đang được các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể và nhân dân tham gia tích cực làm thay đổi đáng kể diện mạo của khu vực nông thôn ở nhiều địa phương, đời sống người dân được cải thiện rõ rệt. Huyện Thăng Bình có xuất phát điểm là một huyện thuần nông ven biển của tỉnh Quảng Nam, cũng là một trong những địa phương bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh. Cho nên điều kiện về cơ sở hạ tầng và kinh tế - xã hội khi bắt đầu xây dựng nông thôn mới còn tương đối thấp. Với tỷ lệ hộ nghèo khi phát động Chương trình xây dựng NTM trên 20%. 4
  5. Thời điểm cuối năm 2010 bình quân chung số tiêu chí NTM đạt chuẩn là 1,47 tiêu chí/xã. Công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch xây dựng NTM còn nhiều hạn chế. Mặc dù trong điều kiện còn khó khăn, song bước đầu toàn huyện đã đạt được những kết quả khả quan về xây dựng nông thôn mới. Sơ kết giai đoạn 2021 - 2023, huyện Thăng Bình đã phát triển vượt bật, với tỷ lệ 20/20 xã xây dựng NTM đã về đích thành công, đạt 17,7 tiêu chí/xã. Nhưng đồng thời cũng phải thừa nhận những mặt còn bất cập vừa chủ quan vừa khách quan, thiếu hiệu quả so với sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị và nhân dân trong quá trình XDNTM. Đến giữa giai đoạn 2021 - 2025 cơ chế quản lý và quá trình thực hiện vẫn thật sự còn nhiều hạn chế nảy sinh hoặc chưa khắc phục được từ giai đoạn trước. Nhiều mục tiêu còn đang bị coi nhẹ, quá trình xây dựng còn mang tính phong trào ít có khả năng đảm bảo duy trì được các tiêu chí theo quy định. Sự phát triển còn chậm so với mặt bằng chung cả nước và định hướng của địa phương. Từ thực tiễn và yêu cầu quan trọng của XDNTM để phát triển đất nước nói chung và thực tế trên địa bàn huyện Thăng Bình nói riêng. Và để nhằm làm rõ hơn nữa cơ sở lý luận, thực tiễn của công tác QLNN về XDNTM, chỉ ra những nguyên nhân của các hạn chế, trên cơ sở đó, đưa ra những khuyến nghị góp phần nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả QLNN về XDNTM trên địa bàn quận huyện là một điều cấp thiết hiện nay. Đây là lý do để nhóm nghiên cứu lựa đề tài "Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam”. 2. Mục tiêu nghiên cứu chủ đề báo cáo Mục tiêu của đề tài là làm rõ cơ sở lý luận về quản lý nhà nước trong xây dựng nông thôn mới và phân tích thực trạng hiện tại của việc quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Dựa trên kết quả phân tích này, đề ra những phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm nâng cao tính hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu chủ đề báo cáo - Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng công tác quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. 5
  6. - Phạm vi nghiên cứu: + Phạm vi không gian: Huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. + Phạm vi thời gian: Công tác quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới từ năm 2021 đến năm 2023. 4. Phương pháp nghiên cứu chủ đề báo cáo - Thực hiện thu nhập dữ liệu từ những nguồn sau: Các công trình nghiên cứu về QLNN trong XDNTM; các Nghị định, Nghị quyết, Quy chế, Báo cáo, văn bản chỉ đạo có liên quan; các thông tin, dữ liệu về công tác xây dựng nông thôn mới tại Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. - Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp: Từ nguồn dữ liệu thu nhập được, phương pháp thống kê và tổng hợp được nhóm sinh viên sử dụng xuyên suốt trong các nội dung chương 1 và chương 2; phương pháp phân tích được tập trung sử dụng trong chương 2 để chỉ ra thực trạng và đánh giá thực trạng của đối tượng nghiên cứu. Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng ở chương 3 để phân tích trình bày phương hướng và đề xuất giải pháp nâng cao công tác QLNN về XDNTM trên địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. 5. Ý nghĩa của nghiên cứu - Làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến xây dựng nông thôn mới, quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới và đặc biệt là quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở cấp huyện. - Qua phân tích, đánh giá thực trạng để nêu lên những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế. Từ đó nghiên cứu có thể xây dựng một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. 6. Kết cấu của báo cáo Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới 6
  7. Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam Chương 3: Đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam 7
  8. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI 1.1 Một số khái niệm liên quan 1.1.1. Khái niệm về nông thôn Khái niệm nông thôn khác nhau ở mỗi quốc gia, nó phụ thuộc vào từng thời kỳ lịch sử và tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia khác nhau trên thế giới. Ở những nước đang phát triển, việc phân biệt nông thôn với đô thị chưa thể tách bạch hoàn toàn, một số nơi khu vực nông thôn diễn ra quá trình đô thị hóa nhanh chóng nhưng vẫn còn có sự xen lẫn về đất đai, địa bàn dân cư và các hoạt động kinh tế. Hiện nay trên thế giới vẫn chưa có khái niệm xác về nông thôn. Có ý kiến cho rằng, vùng nông thôn là vùng có dân cư làm nông nghiệp là chủ yếu, nguồn sinh kế chính của cư dân trong vùng là từ sản xuất nông nghiệp. Có quan điểm khẳng định, cần dựa vào chỉ tiêu trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng hoặc trình độ tiếp cận thị trường, phát triển hàng hóa và khả năng tiếp cận thị trường để xác định vùng nông thôn. Những ý kiến trên chỉ đúng khi đặt trong bối cảnh cụ thể của từng nước, phụ thuộc vào trình độ phát triển, cơ cấu kinh tế, cơ chế áp dụng cho từng nền kinh tế. Với điều kiện và cách thức quản lý, xây dựng cơ sở hạ tầng,... ở Việt Nam, lại có những nghiên cứu, kết luận khác nhau về nông thôn, vùng nông thôn. Trong tâm hồn của người Việt, nông thôn không chỉ là một môi trường kinh tế sản xuất, mà còn là nơi nuôi dưỡng và xây dựng những giá trị văn hóa, cảnh quan sinh tồn và không gian xã hội, tạo nên nền tảng tinh thần và định hình lối sống, cốt cách và bản lĩnh của người Việt. Hiện nay chúng ta có một số khái niệm về nông thôn được cụ thể như sau: Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì nông thôn là: “phần lãnh thổ của một nước hay của một đơn vị hành chính nằm ngoài lãnh thổ đô thị, có môi trường tự nhiên, hoàn cảnh kinh tế - xã hội, điều kiện sống khác biệt với thành thị và dân cư chủ yếu làm nông nghiệp.” Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định Số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/04/2010 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn thì “Nông thôn: là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn, được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã.” Nông thôn là một cộng đồng xã hội có 8
  9. những đặc trưng riêng biệt như một xã hội thu nhỏ, trong đó có đầy đủ các yếu tố, các vấn đề xã hội và các thiết chế xã hội. Nông thôn được xem xét như một cơ cấu xã hội, trong đó có hàng loạt các yếu tố, các lĩnh vực nằm trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau. 1.1.2. Khái niệm về nông thôn mới Đề cập lần đầu tiên trong Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị Trung ương 7 (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nông thôn mới được định nghĩa là nông thôn tiến bộ, cơ sở hạ tầng đồng bộ, đời sống văn hóa phong phú. Song song với đó, nông thôn mới cũng phải giữ được tính truyền thống, những nét đặc trưng nhất, bản sắc nhất của từng vùng, từng dân tộc và nâng cao giá trị đoàn kết của cộng đồng, mức sống của người dân. Như vậy, nông thôn mới trước tiên phải là nông thôn, không phải là thị tứ, thị trấn, thị xã, thành phố và khác với nông thôn truyền thống hiện nay, có thể khái quát gọn theo năm nội dung cơ bản sau: Nông thôn là làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại; Sản xuất phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa; Đời sống về vật chất và tinh thần của người dân nông thôn ngày càng được nâng cao; Bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển; Xã hội nông thôn an ninh tốt, quản lý dân chủ. Xây dựng thành công nông thôn mới nói chung có nghĩa là có một nền kinh tế phát triển cao nhưng đã đảm bảo được tiến bộ, công bằng xã hội. Đó là một trong những biểu hiện phản ánh bản chất tốt đẹp của chế độ ta. 1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước về nông thôn mới QLNN về XDNTM là tập hợp tất cả các hoạt động của các cơ quan nhà nước tác động vào khu vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân nhằm hướng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế và sao cho cuốc sống của con người ngày càng tốt đẹp hơn. QLNN về XDNTM là một dạng của hoạt động QLNN, có đối tượng là hoạt động xây dựng nông thôn mới, chủ thể thực thi là hệ thống các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức được trao quyền tác động quản lý thông qua các cơ chế, chính sách nhằm khai thác, huy động, sử dụng hiểu quả các nguồn lực của các thành phần kinh tế tham gia XDNTM theo quan điểm, chủ trương của Đảng và mục tiêu thống nhất chung của cả nước. 1.2. Khái quát về xây dựng nông thôn mới 9
  10. 1.2.1. Vai trò của nông thôn mới trong phát triển kinh tế - xã hội Xây dựng nông thôn mới là chủ trương lớn, là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị. Đây là mục tiêu, yêu cầu cấp bách cho sự phát triển bền vững, có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng trong công cuộc đổi mới. Xây dựng nông thôn mới mang tính thời sự, thu hút được sự quan tâm của người dân, đặc biệt là cộng đồng dân cư khu vực nông thôn, để cộng đồng dân cư nông thôn đồng lòng xây dựng thôn, xã khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ một cách toàn diện; có nếp sống văn hoá, môi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo; thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao. Thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước với sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền các cấp, sự chung sức, đồng lòng của toàn dân, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất to lớn. Nông nghiệp phát triển mạnh cả về quy mô và trình độ sản xuất, duy trì tăng trưởng ở mức khá cao, khẳng định vị thế quan trọng, là trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Sản xuất kinh doanh nông nghiệp phát triển mạnh theo hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng khoa học, công nghệ, nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng, phát huy lợi thế vùng, miền, địa phương, thích ứng với biến đổi khí hậu. Trình độ, học vấn của nông dân nước ta từng bước được nâng cao; tư duy sản xuất kinh doanh nông nghiệp không ngừng đổi mới, dần thích ứng với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.2.2. Mục tiêu xây dựng nông thôn mới Căn cứ theo Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025 để đưa ra các mục tiêu như sau: Mục tiêu tổng quát: Tiếp tục triển khai Chương trình gắn với thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, quá trình đô thị hoá, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững; thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu và nông thôn 10
  11. mới cấp thôn, bản. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn, thúc đẩy bình đẳng giới. Xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn đồng bộ và từng bước hiện đại, bảo đảm môi trường, cảnh quan nông thôn sáng, xanh, sạch, đẹp, an toàn, giàu bản sắc văn hóa truyền thống, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững. Mục tiêu cụ thể đến năm 2025: - Phấn đấu cả nước có ít nhất 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới (miền núi phía Bắc: 60%, Đồng bằng sông Hồng: 100%, Bắc Trung Bộ: 87%, Nam Trung Bộ: 80%, Tây Nguyên: 68%; Đông Nam Bộ: 95%, Đồng bằng sông Cửu Long: 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới), trong đó, có khoảng 40% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, ít nhất 10% số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu và không còn xã dưới 15 tiêu chí; tiếp tục xây dựng nông thôn mới nâng cao và nông thôn mới kiểu mẫu đối với các xã, huyện, tỉnh đã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới; thu nhập bình quân của người dân nông thôn tăng ít nhất 1,5 lần so với năm 2020. - Phấn đấu cả nước có ít nhất 50% huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đạt chuẩn nông thôn mới, hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (miền núi phía Bắc: 30%; Đồng bằng sông Hồng: 90%; Bắc Trung Bộ: 45%; Nam Trung Bộ: 35%; Tây Nguyên: 30%; Đông Nam Bộ: 80%; Đồng bằng sông Cửu Long: 35% số đơn vị), trong đó, ít nhất 20% số huyện đạt chuẩn được công nhận là huyện nông thôn mới nâng cao, huyện nông thôn mới kiểu mẫu. Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có ít nhất 02 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới - Phấn đấu cả nước có khoảng từ 17 - 19 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là tỉnh) được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (miền núi phía Bắc phấn đấu có 01 tỉnh, Đồng bằng sông Hồng: 10 tỉnh, Bắc Trung Bộ: 01 tỉnh, Nam Trung Bộ: 01 tỉnh, Tây Nguyên phấn đấu có 01 tỉnh; Đông Nam Bộ: 04 tỉnh, Đồng bằng sông Cửu Long: 03 tỉnh). - Phấn đấu 60% số thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc (sau đây gọi là thôn) thuộc các xã đặc biệt khó khăn khu vực biên giới, vùng núi, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới theo các tiêu chí nông thôn mới do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định. 11
  12. 1.3. Nội dung quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới cấp huyện 1.3.1. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới Đây là nội dung quan trọng có ý nghĩa quyết định trong cả quá trình thực hiện xây dựng xây dựng nông thôn mới. Bộ máy quản lý này được gọi Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới, được thống nhất từ trung ương đến cấp xã trong phạm vi cả nước, bao gồm các bộ phận có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau theo từng cấp, từng khâu. Sau khi được kiện toàn, bộ máy quản lý sẽ là điều kiện để các công tác tổ chức bồi dưỡng nhân lực, thể chế hóa chính sách, tuyên truyền, kiểm tra, giám sát được chỉ đạo thực hiện và thực hiện một cách có hiệu quả. Cấp huyện có Ban chỉ đạo do đồng chí Bí thư Huyện ủy hoặc Chủ tịch UBND làm Trưởng ban. Bộ phận chuyên môn và giúp việc đặt tại Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 1.3.2. Tổ chức bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực cho xây dựng nông thôn mới Con người chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống quản lý nhà nước. Đội ngũ cán bộ, công chức đóng vai trò quan trọng và có tính chất quyết định trong điều hành quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới. Việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chính là cung cấp các kiến thức, kỹ năng về quản lý và chuyên môn cho các cán bộ, công chức được phân công, quy hoạch thực hiện công tác quản lý nhà nước nhà về xây dựng nông thôn mới ở các cấp. Các kế hoạch tức chức đào tạo, bổi dưỡng cấp huyện chịu trách nhiệm chấp hành chỉ đạo, hướng dẫn của Tỉnh ủy, chính quyền, đặc biệt là Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới cấp tỉnh. Đồng thời có chức năng tự bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ chuyên môn cấp huyện và cấp xã trực thuộc. 1.3.3. Triển khai, thể chế hóa chính sách, xây dựng Kế hoạch xây dựng nông thôn mới Triển khai và tổ chức thực hiện nội dung của Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025 và các Kế hoạch, văn bản chỉ đạo riêng của tỉnh. Bằng cách cụ thể hóa qua các Nghị quyết, chỉ đạo của Huyện ủy, HĐND, UBND huyện. Từ đó có cơ cở pháp lý để thực hiện theo đúng mục tiêu chung của cấp trên. Đồng thời xây dựng được Kế hoạch, khung chương trình, mục tiêu phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện kinh 12
  13. tế - xã hội của địa phương. Vì vậy mà việc điều hành và quản lý hoạt động xây dựng nông thôn diễn ra một cách thống nhất, sự đồng thuận, đoàn kết, đồng lòng của nhân dân. Đây cũng là công tác quan trọng góp phần tạo hiệu quả trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức chuyên trách và hướng dẫn các thành phần trong kinh tế cùng người dẫn nắm bắt định hướng phát triển, quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong xây dựng nông thôn mới ở địa phương. 1.3.4. Công tác tuyên truyền, vận động xây dựng nông thôn mới Xây dựng nông thôn mới là chủ trương lớn, phức tạp và có tầm chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và từng địa phương nói riêng. Cho nên, công tác tuyên truyền, vận động xây dựng nông thôn mới là cấp thiết để toàn bộ hệ thống chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và toàn thể quần chúng nhân dân hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng, các cơ chế, chính sách, định hướng và cách làm từ đó có thể tự giác, chủ động tham gia với nhà nước thực hiện mục tiêu chung của địa phương và cả nước. Công tác tuyên truyền ngoài chức năng đảm bảo cho xã hội nắm bắt các thông tin liên quan mà còn là công tác kêu gọi sự chung tay ngày càng sâu rộng hơn của xã hội về nguồn lực trong xây dựng nông thôn mới. Có thể nói đây cũng là một chính sách xã hội hóa ở các địa phương đang xây dựng nông thôn mới. Các cấp huyện, xã có thể vận dụng thế mạnh của mình để phát triển một cách bền vững, đảm bảo duy trì các Bộ tiêu chí do có sự tham gia ngày càng mạnh mẽ của người dân. 1.3.5. Công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới Kiểm tra, giám sát là chức năng cơ bản và quan trọng của nhà nước nói chung. Trong đó, hoạt động kiểm tra, giám sát trong xây dựng nông thôn mới là hết sức quan trọng nhằm có thể đánh giá một cách đúng đắn nhất kết quả thực hiện các chính sách, pháp luật; sử dụng hiệu quả các nguồn lực được phân bổ và từ nguồn xã hội hóa; công tác quy hoạch; xây dựng cơ sở hạ tầng - kỹ thuật;…nhằm đảm bảo thực hiện thật sự có hiệu quả một chương trình có tính chiến lược và quyết định cho sự phát triển của địa phương. Công tác kiểm tra, giám sát phải được thực hiện thường xuyên, liên tục, gắn với từng hoạt động, từng giai đoạn để cơ 13
  14. quan quản lý có thể tổng kết thực tiễn, rút ra các bài học kinh nghiệm trong suốt quá trình thực hiện. Công tác kiểm tra, giám sát không chỉ được thực hiện từ các cấp ủy, chính quyền mà còn thuộc về quyền lực của nhân dân đối với nhà nước. Thực hiện xuyên suốt quyền dân chủ để ngày càng khuyến khích nhân dân tham gia vào xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật của nhà nước và công tác xây dựng nông thôn mới ở từng địa phương các cấp. Lấy sự hài lòng của nhân dân là thước đo cho sự thành công của mô hình phát triển. 14
  15. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN THĂNG BÌNH, TỈNH QUẢNG NAM 2.1. Khái quát về huyện Thăng Bình 2.1.1. Điều kiện tự nhiên Thăng Bình là huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Quảng Nam, thuộc vùng duyên hải miền Trung. Trung tâm huyện lỵ là thị trấn Hà Lam, cách thành phố Tam Kỳ tỉnh lỵ Quảng Nam 25 km. Phía Bắc giáp huyện Quế Sơn và Duy Xuyên, phía Nam giáp huyện Phú Ninh và thành phố Tam Kỳ, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp huyện Tiên Phước và Hiệp Đức. Huyện Thăng Bình gồm 22 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 02 đơn vị là thị trấn Hà Lam và xã Bình Minh được định hướng phát triển xây dựng đô thị và 20 xã còn lại đang thực hiện xây dựng nông thôn mới. Huyện có tổng diện tích tự nhiên là 412,25 km2 (41.224,5ha). Trong đó, đất nông, lâm nghiệp và thủy sản là 28.869 ha. Tổng dân số là 180.353 người (2021), với mật độ 468 người/km2. Trong đó, chia theo khu vực: dân số đô thị là 16.298 người, dân số nông thôn là 164.055 người. Với những yếu tố đặc trưng tự nhiên của địa hình và khí hậu đưa đến việc hình thành 3 vùng kinh tế khác nhau ở Thăng Bình, đó là vùng Đông, vùng Trung và vùng Tây. Định hướng phát triển vùng Đông chủ yếu là “Du lịch - Thương mại - Dịch vụ”, trung tâm tiểu vùng là đô thị Bình Minh. Vùng Trung định hướng phát triển chủ yếu là “Thương mại - Dịch vụ - Công nghiệp”, trung tâm tiểu vùng là thị trấn Hà Lam. Vùng Tây tập trung phát triển theo hướng “Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - Lâm, nông nghiệp”, trung tâm tiểu vùng là Bình Trị, Hà Châu (Bình Phú). 2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 2.1.2.1. Điều kiện kinh tế Vùng Đông là vùng động lực trong phát triển kinh tế- xã hội của huyện, thời gian qua, huyện Thăng Bình đã tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả Kết luận số 25-KL/TU, ngày 27/4/2016 của Tỉnh ủy về định hướng và giải pháp triển khai thực hiện các dự án trọng điểm tại vùng Đông Nam tỉnh Quảng Nam. Đã kêu gọi đầu tư phát triển một số khu du lịch dịch 15
  16. vụ như Vinpearl Nam Hội An, Bliss Hội An Beach Resort & Wellness, Khu Công nghiệp Tam Thăng mở rộng, trong đó có Nhà máy sản xuất vải mành của Tập đoàn Hyosung (Hàn Quốc) và Khu Công nghiệp Capella… Các dự án này đã tham gia giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đóng góp ngân sách đáng kể cho huyện. Vùng Trung đang tập trung đẩy mạnh việc lập các quy hoạch phân khu thuộc Khu kinh tế mở Chu Lai (quy hoạch: Khu công nghệ cao Đông Thăng Bình, Khu Công nghiệp Đông Nam Thăng Bình, Khu công nghiệp Bắc Thăng Bình, các khu đô thị thương mại dịch vụ…). Đối với Cụm Công nghiệp Hà Lam-Chợ Được huyện đã tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng và thu hút đầu tư, đến nay có trên 10 dự án đang hoạt động, góp phần giải quyết việc làm cho gần 5.000 lao động, chủ yếu là người dân địa phương trên địa bàn huyện. Vùng Tây địa bàn rộng nhưng điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn hơn so với 2 vùng còn lại. Chính vì vậy, UBND huyện đã xây dựng Đề án và tham mưu HĐND huyện ban hành Nghị quyết về phát triển kinh tế vùng Tây (Nghị quyết 53/NQ-HĐND, ngày 15/12/2021), theo đó, khuyến khích phát triển kinh tế rừng, kinh tế vườn đồi, kinh tế trang trại theo mô hình kinh tế nông lâm kết hợp. Phát huy thế mạnh về chăn nuôi, một số hộ nông dân đã phát triển diện tích trồng cỏ, nuôi bò nhốt bán thâm canh, giá trị thu nhập gấp 2 lần trước đây. Cây hồ tiêu được các hộ dân đầu tư trồng mới, mô hình trồng nấm rơm được nhân rộng, đạt hiệu quả kinh tế cao. Công tác quy hoạch phát triển một số cụm công nghiệp như Bình An (Bình Định Bắc), Quý Xuân (Bình Quý)… bước đầu được triển khai thực hiện, thu hút một số doanh nghiệp vào đầu tư, từng bước giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân. Dự án Khu lưu trú trải nghiệm Đồng Dương tại xã Bình Định Bắc được phê duyệt, cấp phép đầu tư và đang triển khai thực hiện, hy vọng sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế cả vùng trong thời gian tới. Nếu như năm 1976, tổng giá trị nền kinh tế của huyện chỉ đạt khoảng 12 triệu đồng thì đến năm 2022, tổng giá trị nền kinh tế đạt trên 10.200 tỷ đồng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng dịch vụ và công nghiệp. Sự phát triển mạnh mẽ của dịch vụ, công nghiệp tạo thêm nguồn thu cho ngân sách; năm 2022, tổng thu phát sinh kinh tế trên địa bàn trên 350 tỷ đồng, gấp hơn 30 lần so với năm 2000. 16
  17. Chương trình xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh đạt kết quả tích cực; diện mạo nông thôn có nhiều khởi sắc, các khu đô thị mới đang từng bước hình thành. Dự kiến đến quý II/2023, toàn huyện có 20/20 xã đạt chuẩn NTM, có 21 thôn được UBND huyện công nhận đạt chuẩn “Khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu”; 6 thôn được công nhận “Thôn đạt chuẩn nông thôn mới”. Đô thị Hà Lam cơ bản đạt chuẩn đô thị loại IV và Bình Minh đạt chuẩn đô thị loại V. 2.1.2.2. Điều kiện văn hóa, xã hội Vốn là vùng đất được xây dựng và phát triển lâu đời, có truyền thống văn hóa phong phú, độc đáo. Nhưng lại là một địa phương thuần nông lạc hậu, đặc biệt là bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh. Kinh tế sau chiến tranh trở nên kiệt quệ dẫn đến đời sống xã hội vô cùng khó khăn, buộc phải từng bước xây dựng lại các điều kiện cho sự phát triển. Tỷ lệ người nghèo còn cao, gánh nặng an sinh xã hội còn lớn. Trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, huyện Thăng Bình có đến hơn 10.000 liệt sĩ, hơn 1500 thương, bệnh binh, hơn 2100 Mẹ Việt Nam anh hùng, gần 16.000 người được hưởng chế độ người có công. Cùng với bề dày lịch sử văn hóa và lịch sử đấu tranh anh dũng đã tạo nên đặc điểm riêng trong định hướng phát triển của huyện Thăng Bình. Cũng tạo nên những thuận lợi lớn cho khi hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng ngành du lịch văn hóa. UBND huyện, BCĐ các Chương trình MTQG huyện đã ban hành các văn bản cụ thể để thành lập, kiện toàn Ban Chỉ đạo cấp huyện, Văn phòng điều phối NTM huyện, phân công nhiệm vụ thành viên BCĐ, văn phòng điều phối; đồng thời hướng dẫn chỉ đạo kiện toàn Ban Chỉ đạo, Ban Quản lý cấp xã, ban Phát triển thôn gắn với rà soát, củng cố, nâng cao năng lực bộ máy, cán bộ tham mưu, giúp việc ở các xã theo văn bản hướng dẫn của tỉnh. Đến nay 20/20 xã thực hiện Kiện toàn Ban Chỉ đạo, Ban Quản lý xây dựng Chương trình MTQG xây dựng NTM trên địa bàn xã; ở thôn có 94/94 thôn thành lập mới/kiện toàn ban Phát triển thôn. Bộ máy hoạt động của BCĐ, BQL được cũng cố/kiện toàn, nên công tác chỉ đạo, lãnh đạo Chương trình MTQG xây dựng NTM được xuyên suốt từ huyện đến xã, góp phần mang lại hiệu quả trong thực hiện Chương trình. 17
  18. Hằng năm, BCĐ huyện đã tổ chức sơ kết, tổng kết và thường xuyên tổ chức trực báo nông thôn mới với cán bộ chuyên trách nông thôn mới các xã. Qua đó tổ chức thực hiện Chương trình, triển khai các văn bản bản chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh, của huyện được thường xuyên, kịp thời; đồng thời nắm được các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện xây dựng NTM tại các địa phương, chỉ đạo các ngành hướng dẫn, tham mưu giải quyết những khó khăn, vướng mắc từ cơ sở, giúp các địa phương triển khai thuận lợi nhiều nội dung trong Chương trình MTQG xây dựng NTM. 2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới tại huyện Thăng Bình 2.2.1. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới UBND huyện, BCĐ các Chương trình MTQG huyện đã ban hành các văn bản cụ thể để thành lập, kiện toàn Ban Chỉ đạo cấp huyện, Văn phòng điều phối NTM huyện, phân công nhiệm vụ thành viên BCĐ, văn phòng điều phối; đồng thời hướng dẫn chỉ đạo kiện toàn Ban Chỉ đạo, Ban Quản lý cấp xã, ban Phát triển thôn gắn với rà soát, củng cố, nâng cao năng lực bộ máy, cán bộ tham mưu, giúp việc ở các xã theo văn bản hướng dẫn của tỉnh. Đến nay 20/20 xã thực hiện Kiện toàn Ban Chỉ đạo, Ban Quản lý xây dựng Chương trình MTQG xây dựng NTM trên địa bàn xã; ở thôn có 94/94 thôn thành lập mới/kiện toàn ban Phát triển thôn. Bộ máy hoạt động của BCĐ, BQL được cũng cố/kiện toàn, nên công tác chỉ đạo, lãnh đạo Chương trình MTQG xây dựng NTM được xuyên suốt từ huyện đến xã, góp phần mang lại hiệu quả trong thực hiện Chương trình. Hằng năm, BCĐ huyện đã tổ chức sơ kết, tổng kết và thường xuyên tổ chức trực báo nông thôn mới với cán bộ chuyên trách nông thôn mới các xã. Qua đó tổ chức thực hiện Chương trình, triển khai các văn bản bản chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh, của huyện được thường xuyên, kịp thời; đồng thời nắm được các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện xây dựng NTM tại các địa phương, chỉ đạo các ngành hướng dẫn, tham mưu giải quyết những khó khăn, vướng mắc từ cơ sở, giúp các địa phương triển khai thuận lợi nhiều nội dung trong Chương trình MTQG xây dựng NTM. 2.2.2. Tổ chức bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực cho xây dựng nông thôn mới 18
  19. Dựa theo Kế hoạch thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM hằng năm của UBND huyện, Chương trình công tác năm của BCĐ. VPĐP nông thôn mới huyện đã chủ trì, phối hợp với các Cơ quan liên quan và UBND các xã tổ chức tập huấn, hướng dẫn các địa phương thực hiện các Bộ tiêu chí xã NTM, NTM nâng cao, thôn NTM kiểu mẫu giai đoạn 2021-20254 ; Hằng năm, tham mưu UBND huyện phân bổ nguồn kinh phí tập huấn, tuyên truyền của tỉnh cho các Cơ quan, Hội, đoàn thể liên quan, UBND các xã để tổ chức tập huấn, tuyên truyền sâu rộng về Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021- 2025 trên địa bàn huyện. Các phòng, ban của huyện chủ động xây dựng kế hoạch và tổ chức các lớp tập huấn chuyên sâu cho cán bộ quản lý tham gia triển khai Chương trình giai đoạn 2021-2025 ở địa phương… nhằm cập nhật kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây dựng NTM, nâng cao nhận thức và thay đổi tư duy trong triển khai Chương trình. 2.2.3. Triển khai, tuyên truyền, thể chế hóa chính sách, xây dựng Kế hoạch xây dựng nông thôn mới Trên cơ sở Chỉ thị số 41-CT/TU ngày 27/7/2019 của Tỉnh ủy về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn Tỉnh, UBND huyện đã tham mưu BTV Huyện ủy ban hành Chỉ thị số 24- CT/HU ngày 30/8/2019 về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện. Căn cứ các văn bản pháp lý và hướng dẫn thực hiện Chương trình NTM của HĐND tỉnh, UBND tỉnh, UBND huyện Thăng Bình tham mưu Hội đồng nhân dân huyện ban hành các Nghị quyết về danh mục chi tiết công trình đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, các Nghị quyết điều chỉnh bổ sung danh mục công trình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021- 2025 và các Nghị quyết hằng năm trên địa bàn huyện Thăng Bình. Bên cạnh đó, UBND huyện đã tập trung ban hành các văn bản trình để cụ thể hóa các cơ chế, chính sách, quy định của Trung ương, tỉnh và triển khai thực hiện các nội dung khác của Chương trình. 2.2.4. Công tác tuyên truyền, vận động xây dựng nông thôn mới 19
  20. Công tác truyền thông, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cán bộ và nhân dân luôn được tăng cường với hình thức đa dạng, phong phú theo chuyên đề chuyên sâu hơn. Trên cơ sở các văn bản của TW, Tỉnh về ban hành Bộ tiêu chí NTM, NTM nâng cao, NTM kiểu, Thôn NTM kiểu mẫu và Nghị quyết về cơ chế, chính sách hỗ trợ nguồn lực thực hiện Chương trình NTM giai đoạn 2021-2025, các cơ quan liên quan của huyện đã ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện cụ thể từng chỉ tiêu, tiêu chí; tổ chức triển khai, hướng dẫn đến từng địa phương, khu dân cư; đồng thời thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các địa phương tích cực thực hiện. Các hội, đoàn thể của huyện đã tích cực phối hợp với địa phương hằng năm thường xuyên tổ chức tuyên truyền, vận động cán bộ, hội viên đoàn và nhân dân. Đài Truyền thanh - Truyền hình, Cổng thông tin điện tử, bản tin Thăng Bình mở chuyên mục, chuyên trang về xây dựng nông thôn mới với nhiều hình thức tuyên truyền phong phú, đa dạng. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây NTM, đô thị văn minh, “Dân vận khéo”, “Chung sức xây dựng NTM”, “Thanh niên tình nguyên”, “Phong trào gia đình 5 không 3 sạch”, “Nhà sạch, vườn đẹp”, “Tiếng loa an ninh”… gắn với xây dựng nông thôn mới luôn được các Hội, đoàn thể và các ngành chú trọng; trong những năm qua đã xây dựng được nhiều mô hình điển hình, góp phần tích cực trong công tác xóa đói, giảm nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, nên nhân dân đã tự nguyện hiến đất, vật kiến trúc và tham gia ngày công để xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, dân sinh, xây dựng nông thôn mới. Đài Truyền thanh - Truyền hình huyện xây dựng các chuyên mục, hướng dẫn, tuyên truyền các nội dung xây dựng NTM phát định kỳ tuần/2 lần trên Đài Truyền thanh - Truyền hình huyện và định kỳ 1 tuần/lần đối với các cơ chế chính sách trên lĩnh vực nông nghiệp. 2.2.5. Công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện Chương trình NTM được Ban Chỉ đạo và các cơ quan chức năng coi trọng và thực hiện có hiệu quả; thường xuyên tham mưu văn bản, tổng hợp báo cáo công tác quản lý, sử dụng và đôn đốc giải ngân các nguồn vốn được giao, tình hình nợ xây dựng cơ bản trong Chương trình NTM; kết quả thực hiện 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
266=>2