intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Dự án: Quản lý và phát triển CDĐL Hải Hậu cho sản phẩm gạo tám xoan

Chia sẻ: Thúy Phương | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:99

81
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tổng quan về sản phẩm gạo tám xoan, quy định về điều kiện sản xuất, kinh doanh sản phẩm gạo tám xoan mang CDĐL Hải Hậu, đăng ký sử dụng CDĐL Hải Hậu đối với sản phẩm gạo tám xoan,... là những nội dung chính trong dự án "Quản lý và phát triển CDĐL Hải Hậu cho sản phẩm gạo Tám Xoan". Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Dự án: Quản lý và phát triển CDĐL Hải Hậu cho sản phẩm gạo tám xoan

  1. MỞ ĐẦU Gạo  tám xoan  Hải Hậu là một sản phẩm truyền thống, đặc thù của  vùng sản xuất lúa nước thuộc đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên, hiện nay   chất lượng gạo  tám xoan  Hải Hậu bị  suy giảm do quá trình phát triển của   giống lúa qua một thời gian quá dài. Mặc dù từ  năm 2003, nhóm nghiên cứu   của Viện Khoa học Kỹ  thuật nông nghiệp Việt Nam trước kia, nay là Viện  Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn đã có những sự  trợ giúp nhằm phục hồi lại giống lúa tám, duy trì quy trình kỹ thuật sản xuất  truyền thống, tổ chức nông dân nhưng diện tích lúa tám xoan cũng mới chỉ đạt  đến 12% vào năm 2006. Ngoài ra những khó khăn của thị trường, quy hoạch   vùng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ là những đòi hỏi mà huỵện   Hải Hậu nói riêng và tỉnh Nam Định nói chung cần sự  trợ  giúp của các cơ  quan, tổ chức trong thời gian tới.     Xây dựng CDĐL ”Hải Hậu” cho sản phẩm gạo tám xoan có đặc thù  riêng so với các sản phẩm khác của Việt Nam, quá trình xây dựng được tiến  hành từ  dưới lên, nghĩa là tổ  chức nông dân tiến hành những hoạt động sản  xuất, quản lý chất lượng sau đó mới tiến hành đăng bạ. Vì thế, từ  tháng   5/2007 thời điểm sản phẩm gạo tám được đăng bạ CDĐL đến nay, hệ thống   quản lý và sử dụng vẫn chưa được triển khai và đưa vào vận hành.   Cũng như nhiều địa phương khác, Nam Định cũng đang gặp phải những  khó khăn về  quy trình, cách thức tổ  chức của hệ  thống quản lý và sử  dụng   CDĐL. Từ thực tế đó, dự án “Quản lý và phát triển CDĐL ‘Hải Hậu’ cho sản   phẩm gạo tám xoan” được triển khai đã giúp cho Hải Hậu nói riêng và Nam   Định nói chung có được những sự  hỗ  trợ tích cực về  mặt quản lý sản xuất,  chất lượng sản phẩm và phát triển thị trường, góp phần quan trọng trong sự  duy trì và phát triển ổn định một vùng sản xuất lúa truyền thống.  1
  2. PHẦN III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN DỰ ÁN III.1. Tổng quan về sản phẩm gạo tám xoan   Với mục tiêu tìm hiểu thực trạng sản xuất, tính đặc thù về  tự  nhiên,  con người và kỹ năng thực hành truyền thống trong sản xuất, kinh doanh sản   phẩm gạo tám xoan ở huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định; Xác định được các loại  đất trồng lúa tám có chất lượng cao nhằm khuyến cáo phục vụ cho việc phát   triển và quản lý sản xuất lúa tám ở địa phương; Tìm ra hướng giải pháp trong  việc duy trì và phát triển sản xuất lúa tám xoan của huyện Hải Hậu ­ tỉnh   Nam Định. Từ  đó xây dựng cơ  sở  khoa học cho các đề  xuất liên quan đến   công tác quản lý, sử  dụng và khai thác CDĐL “Hải Hậu” cho gạo tám xoan  trên thị  trường. Đơn vị thực hiện đã tiến hành điều tra 90 hộ, trong đó có 51   hộ  trong Hiệp hội và 39 hộ  ngoài Hiệp hội. Các hộ  được lựa chọn điều tra   theo phương pháp lấy xác suất ngẫu nhiên trên địa bàn 5 xã thuộc vùng mục  tiêu sản xuất lúa tám xoan của huyện Hải Hậu là Hải Anh, Hải Đường, Hải  Phong, Hải Toàn và Hải An. Đây cũng là các xã có các hội viên thuộc sự quản   lý của Hiệp hội gạo tám xoan Hải Hậu. Ngoài ra còn phỏng vấn các chuyên  gia trong lĩnh vực thổ nhưỡng, giống cây trồng, các lão nông chi điền về  các  đặc tính đặc thù của sản phẩm.  III.1.1.Tính đặc thù của lúa tám xoan Hải Hậu   Trên cơ sở sưu tập các giống lúa tám lưu truyền trong dân, các tài liệu  ghi chép lại trước đây về đặc tính lúa tám xoan Hải Hậu. Thông qua hội thảo  của các nhà khoa học, các lão nông chi điền và chính quyền địa phương được  tiến hành vào năm 2003 ­2004, từ  năm 2006 đến 2009 RUDEC kết hợp với  Trung tâm hệ thống cây nông nghiệp ­ Viện cây lương thực và cây thực phẩm  đã tiến hành phục tráng, theo dõi và tổng hợp các biểu hiện đặc trưng của   2
  3. giống lúa  tám xoan  Hải Hậu được mô tả  bằng 37 tính trạng cảm quan sử  dụng để phân biệt với các giống lúa khác trong bảng 1: Bảng 1: Các tính trạng đặc trưng của lúa tám xoan Hải Hậu  qua các giai đoạn Giai đoạn Mức độ biểu  TT Tính trạng (ngày) hiện 1 Lá mầm: Màu 10 Xanh 2 Lá gốc (lá dưới cùng) 40 Tím nhạt 3 Lá: Mức độ xanh 40 Xanh trung bình 4 Lá: Lông ở phiến lá 40 Trung bình 5 Lá: tai lá 40 Không có 6 Thìa lìa 40 Có 7 Lá: hình dạng thìa lìa 40 Xẻ 8 Lá: Chiều dài phiến lá 50­60 Dài:35,5 – 45 cm 9 Lá: chiều rộng phiến lá 50­60 Trung bình: 1­2 cm Lá đòng: trạng thái phiến lá  10 60­90 Nửa thẳng (quan sát sớm) 11 Khóm: Gốc thân ( thế cây) 40 Đứng:  120cm tính bông) Trung bình: 26­ 17 Bông: Chiều dài trục chính 72­90 30cm 18 Bông: trạng thái trục chính 90 Gục xuống Trung bình (6  19 Bông: Số bông / cây 70 bông/khóm) Bông: trạc ba điểm phân  20 70 Có nhánh đầu tiên 3
  4. Hạt: Mức độ lông của vỏ  21 60­80 Trung bình trấu 22 Hạt: vẹo đầu 60­92 Vẹo 23 Bông: Mức độ gié thứ cấp 90 Ít 24 Bông: trạng thái của bông 90 Xoè 25 Bông: thoát cổ bông 90 Thoát hoàn toàn Trung bình: 1,6­ 26 Mày hạt: Chiều dài 92 2,5mm 27 Mày hạt: màu sắc 90 Vàng nhạt Hạt thóc: khối lượng 1000  28 92 Rất thấp 
  5. HÌNH DẠNG HẠT THÓC VÀ GẠO GIỐNG LÚA TÁM XOAN  HẢI HẬU QUA CÁC GIAI ĐOẠN Hình dạng lúa tám xoan được chọn lọc tại địa phương và sản xuất tại Hiệp hội 5
  6.    * Các yếu tố  tạo nên tính đặc thù của lúa tám xoan, gạo tám xoan và  cơm tám xoan được thể  hiện  ở  hình dáng, màu sắc, mùi, vị  và một số  đặc  điểm khác được thể hiện ở bảng 2: Bảng 2: Những đặc thù về cảm quan của gạo tám xoan Hải Hậu Chỉ tiêu Lúa tám xoan Gạo tám xoan Cơm tám xoan Hạt thóc thưa, nhỏ,  Hạt   gạo   hơi  tỷ  lệ  dài rộng 3,11,  Hạt   cơm   nhỏ   dài,  Hình dáng dài,   thon   nhỏ,  rong   lượng   1000  không bị nát vẹo một đầu hạt là 18,24g Hạt   gạo   có  Hạt   cơm   có   màu   hơi  Màu sắc Màu vàng cánh dán mầu trong xanh bóng Ngay khi nấu chín, cơm  Mùi   thơm   dịu,  có mùi thơm đặc trưng,  Mùi   thơm   đặc  Mùi tự  nhiên và đặc  sau khi nấu 5­ 6 giờ vẫn  trưng trưng giữ  được mùi thơm và  cơm không bị khô. Vị   ngọt   dịu,   đậm   (vị  Vị ngọt hậu) Tỷ   lệ   từ   thóc   xay  Hạt   gạo   chắc,  Đặc điểm  chế  biến thành gạo  đều,   không   bị  Cơm dẻo, giòn khác thấp, hạt  khó  rụng  vỡ khi xay xát  khi tuốt (Nguồn: Kết quả hội thảo chuyên gia địa phương)   * Phân tích các chỉ  tiêu chất lượng về  gạo tám xoan được chỉ  ra trong  bảng 3: Bảng 3: Các chỉ tiêu phân tích chất lượng về gạo tám xoan Hải Hậu Hàm lượng các chất và các đặc  Chỉ tiêu điểm của gạo 1. Hàm lượng protein tổng số % 9,79 2. Hàm lượng tinh bột tổng số % 88,43 3. Hàm lượng Amylose tổng số % 20,34 4. Nhiệt độ hoá hồ Thấp  5. Chiều dài hạt trung bình 7,81 6. Chiều rộng hạt trung bình 2,47 7. Tỷ lệ dài rộng  3,11 8. Hình dạng hạt Thon nhỏ, hơi vẹo một đầu 6
  7. 9. Độ bạc bụng 0           Như vậy qua so sánh và phân tích có thể cho thấy:   + Giống lúa tám xoan là loại giống cổ truyền được sản xuất tại huyện  Hải Hậu cho chất lượng cao nhất so với các loại giống tám khác   + Chất lượng của lúa tám xoan có sự  sai khác cơ  bản so với các giống  lúa tám khác trong vùng và các khu vực lân cận   + Những đặc điểm có thể  phân biệt được giống lúa tám xoan với các  giống lúa tám khác được thể  hiện khá rõ ràng với các đặc điểm về  sinh thái  và hình dạng của cây lúa, sản phẩm thu hoạch   + Những yếu tố   ảnh hưởng đến lúa tám xoan và quyết định đến chất  lượng của lúa tám xoan được khẳng định đó là:   ­ Điều kiện về thời tiết khí hậu: với đặc điểm lúa tám xoan phải được   trồng trong vụ  mùa, thời gian vào hạt phải có gió mùa đông bắc, biên độ  chênh lệch ngày và đêm cao   ­ Lúa phải được tưới phù sa ít nhất 14 lần/vụ, đồng thời phải đảm bảo   thoát nước trước 10 ngày trước khi gặt   ­ Yếu tố sản xuất: phải được bón phân chuồng hoặc phân xanh để làm  tăng quá trình trao đổi chất, tăng thêm độ thơm của sản phẩm III.1.2. Thực trạng sản xuất lúa tám xoan ở Hải Hậu Lúa tám xoan là sản phẩm mang tính hàng hoá, hầu hết sản phẩm được  sản xuất ra đều được bán đi là chủ  yếu, người trồng lúa rất ít khi sử  dụng   sản phẩm này vì giá của loại gạo này luôn cao hơn các giống lúa khác.    Theo điều tra của RUDEC, lúa tám xoan ngày càng giảm về  diện tích,  kéo theo vai trò của lúa tám xoan cũng giảm đi trong cơ cấu thu nhập của các  hộ  nông dân. Trong số  các hộ  tham gia trồng lúa tám được điều tra, cơ  cấu  đóng góp vào thu nhập của các hộ  rất nhỏ  (năm 2008 là 7.39%) trong khi số  hộ trồng lúa tám xoan chỉ chiếm tỉ lệ khoảng 4% dân số, vậy lúa tám xoan chỉ  đóng vai trò rất nhỏ trong cơ cấu thu nhập của huyện Hải Hậu. 7
  8.   Năm 2000 diện tích lúa tám xoan chiếm 14%, năm 2005 chiếm 5%, năm  2008 là 4.3% và năm 2009 chỉ  còn 4% trong cơ  cấu diện tích lúa của huyện   Hải Hậu.  Sự giảm sút về diện tích lúa tám xoan có 4 nguyên nhân chính đó là:   Thứ nhất: Phương thức canh tác thay đổi: Hải Hậu với đặc thù là vùng  đồng bằng chiêm trũng ven biển rất phù hợp cho cây lúa tám xoan phát triển.   Trước đây, sản xuất nông nghiệp ở Hải Hậu chủ yếu mang tính quảng canh,  năng suất thấp, tận dụng sự  phì nhiêu của đất có được nhờ  được hệ  thống   sông ngòi bồi đắp hàng năm. Trong điều kiện đó, giống lúa tám xoan có tính  thích phổ rộng, cho chất lượng cao và được người dân địa phương coi là cây  trồng chủ  lực vào vụ  lúa mùa (năm 1993: lúa tám chiếm 60%/ vụ  mùa). Bắt  đầu từ  những năm 2000 sản xuất nông nghiệp đã chuyển dần theo hướng  thâm canh, tăng năng suất trong khi năng suất lúa tám xoan có giới hạn thấp. Thứ hai:  Chất lượng gạo tám xoan Hải Hậu bị suy giảm do người dân lưu  truyền trong quá trình lịch sử lâu đời, các kỹ thuật chọn lọc giống được thực hiện   theo phương pháp truyền thống theo hướng năng suất, không quan tâm đến nâng  cao chất lượng sản phẩm, làm cho giống lúa tám xoan đã bị thoái hoá và giảm dần   về chất lượng. Từ năm 2003 đến nay, chính quyền địa phương kết hợp với các  nhà khoa học thuộc Viện khoa học nông nghiệp trước đây, nay là Trung tâm phát  triển nông thôn – Viện Chính sách và chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn  đã tiến hành cải tạo và phục hồi lại chất lượng. Tuy nhiên, chất lượng gạo tám   xoan thực tế vẫn chưa được khẳng định vì nhiều nguyên nhân tác động. Thứ  ba:   Hiệu quả  kinh tế  không cao: những năm gần đây, do thời tiết  bất lợi, năng suất lúa tám xoan rất thấp (70 – 80kg/sào), trong khi giá cả của  gạo tám xoan chưa có sự  chênh lệch lớn so với các sản phẩm gạo khác do  trên thị trường có sự lẫn lộn và pha trộn vì thế gạo tám xoan đang dần mất đi  thị trường và mất lòng tin của người tiêu dùng.  Thứ  tư:   Chuyển dịch cơ  cấu cây trồng bất lợi cho sản xuất lúa tám  xoan : Sản xuất nông nghiệp của địa phương có xu hướng chuyển biến mạnh  về cơ cấu, nhiều diện tích được chuyển sang trồng cây vụ đông, trong khi đó   8
  9. lúa tám xoan là một giống lúa dài ngày nên việc bố  trí cơ  cấu mùa vụ  có  những bất cập cho sự phát triển của sản xuất.   Vụ  mùa năm 2009 đánh dấu một tín hiệu đáng mừng cho sản xuất và  kinh doanh gạo tám xoan. Với năng suất bình quân toàn bộ  diện tích lúa tám   xoan năm 2009 đạt 105 kg/sào, chất lượng gạo thơm ngon, giá cả  trên thị  trường có sự chênh lệch lớn so với các giống lúa khác là những thông tin tích   cực cho sản phẩm gạo tám xoan mang CDĐL :    Năm   2009,   toàn   huyện   Hải   Hậu   ước   tính   có   khoảng   90ha   lúa   tám.  Trong đó có 65ha trồng lúa tám xoan theo giống của Hiệp hội gạo tám xoan  Hải Hậu đã được chọn lọc, 25ha còn lại là các hộ  trồng các giống lúa tám  tiêu, tám cổ  ngỗng.... Các hộ  sử  dụng giống lúa tám xoan có năng suất bình  quân đạt 105kg/1sào, đặc biệt có một số  hộ canh tác tốt, đúng kỹ  thuật năng  suất đạt 130 kg/sào tương đương với năng suất của các giống lúa khác (bắc   thơm số 7 năng suất trung bình 110kg/sào) trong khi năng suất thấp hơn 5% so   với bắc thơm thì giá lúa tám xoan cao hơn 66% (giá lúa tám xoan12.000đ/kg so  với 7.200đ/kg của bắc thơm). Đây là một động lực quan trọng cho việc tăng  quy mô sản xuất lúa tám xoan trong thời gian tới.    III.1.3. Nhu cầu sản xuất lúa tám xoan   Để  tiến hành điều tra thu thập thông tin đơn vị  thực hiện đã lựa chọn  nhóm hộ sản xuất lúa tám xoan ở 5 xã trọng điểm trong vùng quy hoạch của  huyện là xã Hải Anh, Hải Đường, Hải Phong, Hải Toàn và Hải An. 5 xã   trọng điểm này chiếm diện tích gần 80% diện tích trồng lúa tám xoan còn lại   trên địa bàn huyện Hải Hậu.   Các hộ được lựa chọn được phân theo tiêu chí sản xuất lúa tám xoan và  tham gia hiệp hội gạo tám xoan Hải Hậu; Sản xuất lúa tám xoan và không  tham gia hiệp hội gạo tám xoan Hải Hậu.    Trong các hộ tham gia hiệp hội: có những hộ đã tham gia hiệp hội trong  nhiều năm (thuộc xã Hải Đường, Hải Toàn, Hải Phong, Hải Anh) và có các  9
  10. hộ  thuộc những xã chỉ  mới tham gia vào Hiệp hội trong năm 2008 (Hải An).  Nhưng chung quy lại đó đều là những hộ  đã có truyền thống trồng lúa tám   xoan từ lâu đời trên địa bàn huyện Hải Hậu. Việc lựa chọn mẫu điều tra trên  đây mang tính đại diện cho các nhóm hộ điều tra và so sánh. Kết quả điều tra  được tổng hợp theo các nội dung sau: (có báo cáo chuyên đề kèm theo)    ­ Trình độ văn hoá của chủ hộ   ­ Tình trạng kinh tế của các nhóm hộ điều tra   ­ Tình hình lao động của các hộ điều tra   ­ Tình hình đất đai của các nhóm hộ điều tra   ­  Các yếu tố   ảnh hưởng đến quyết định sản xuất lúa tám xoan của   người dân   ­ Điều kiện về tư liệu phục vụ sản xuất   ­ Mức độ áp dụng các tiến bộ khoa học được triển khai vào sản xuất   ­ Những thay đổi trong cơ cấu đầu tư sản xuất lúa tám xoan   Qua quá trình điều tra chúng tôi nhận thấy:    ­ Yếu tố  dễ canh tác là quan trọng nhất trong việc lựa chọn cây trồng   lúa tám xoan. Đối với một số  diện tích đất trũng thuộc xã Hải Đường, Hải  Toàn và Hải Phong, việc lựa chọn cây lúa tám xoan là một lựa chọn quan   trọng đối với nông dân. Lấy diện tích vùng xóm 4­5 của xã Hải Đường làm ví   dụ: Đây là vùng trũng, thường bị  ngập nước vào tháng 7 ­ 8 âm lịch, với các   giống ngắn ngày, đây là thời điểm lúa phơi mào, vào hạt việc chuyển đổi   sang giống này rất khó, năng suất thấp, nên việc lựa chọn giống lúa tám xoan  là giải pháp khó thay thế.   ­ Hiệu quả kinh tế đang có chiều hướng được nâng cao: Việc giảm sút   về diện tích kéo theo sự giảm sút về sản lượng gạo tám xoan cung cấp ra thị  trường. Điều này khiến cho giá cả  mặt hàng gạo tám xoan Hải Hậu có xu   hướng tăng lên tỷ  lệ  thuận trong những năm gần đây. Mặt khác các hộ  có  nhiều kinh nghiệm trồng lúa tám xoan, thực hiện đúng các yêu cầu kỹ  thuật   10
  11. vẫn đảm bảo được năng suất khá  ổn định. Đây là một động lực quan trọng  cho các hộ  tiếp tục gắn bó với cây lúa tám xoan. Là một dấu hiệu tích cực   cho việc phát triển cây lúa tám xoan.   ­ Ngoài ra, yếu tố truyền thống cũng là một nhân tố quan trọng khiến các  hộ  nông dân tại Hải Hậu vấn gắn bó với cây lúa tám xoan. Nhiều hộ gia đình   cho rằng: Hàng năm dù ít hay nhiều, gia đình tại Hải Hậu cũng cần có một ít  gạo tám xoan để cúng lúa mới cho tổ tiên, ông bà. Hơn nữa, dịp lễ tết người Hải   Hậu có con cái đi xa rất cần một ít gạo tám xoan làm quà quê hương nên các hộ  gia đình vẫn duy trì sản xuất lúa tám xoan xoan với quy mô nhỏ.     ­ Mặc dù quy trình kỹ thuật chuẩn cho sản xuất lúa tám xoan đã được   xây dựng có chất lượng. Tuy nhiên, qua quá trình khảo sát chúng tôi nhận  thấy mức độ tuân thủ các quy trình kỹ thuật này chỉ mang tích chất tương đối  vì nhiều lý do.   ­  Ở  mỗi chân ruộng khác nhau có nhu cầu về  giống, đạm, lân, kali và  phân chuồng khác nhau. Các hộ phải có mức điều chỉnh cho phù hợp theo kinh   nghiệm nhiều năm sản xuất trên diện tích đó. Các khâu chăm sóc, phun thuốc,   ... thường do các hộ  tự  chủ  động thực hiện. Những thông báo của Hiệp hội  chỉ mang tính định hướng, đại trà... rất khó cho các hộ trong việc tuân thủ các  tiêu chí đề ra.   ­ Việc tuân thủ các quy trình kỹ thuật khắt khe theo đúng tiêu chuẩn đề  ra từ khâu làm đất, gieo mạ, bón phân, cấy và chăm sóc, thu hoạch đến phơi  và đóng bao. Quá trình này đòi hỏi nhiều thời gian, gò bó về  mặt tổ  chức và  chịu sự giám sát của Hiệp hội. Trong thời điểm mùa vụ, khi bắt đầu vụ  cấy   lúa tám xoan là thời điểm giá công lao động cao, lực lượng lao động ít, cộng   với thói quen làm việc tự  do của các hộ  nông dân khiến cho việc thực hiện  quy trình kỹ thuật rất khó khăn. Đặc biệt là việc bón phân chuồng tốn nhiều   công lao động nên việc bón phân đầy đủ chưa được thực hiện trong thời gian   qua, đặc biệt với các hộ  có ít lao động. Trong khi việc đảm bảo đủ  khối  11
  12. lượng phân chuồng là nhân tố  quan trọng quyết định chất lương gạo tám   xoan.    ­ Chi phí cho hoạt động giám sát lớn: Vì các hộ  nông dân thường quen   với lối làm việc tự  do và thiếu tính kỹ  luật. Do vậy ý thức chấp hành trong  việc sản xuất kém. Để đảm bảo việc thực hiện đúng yêu cầu kỹ thuật, đảm   bảo chất lượng sản phẩm Hiệp hội phải có đội ngũ giám sát đến tận cơ  sở,   theo dõi tất cả  các hộ  thực hiện việc tuân thủ  các quy trình kỹ  thuật. Trong  khi các thành viên này chủ yếu là nông dân, phần thu nhập mà họ được nhận   từ  việc thực hiện nhiệm vụ  không đủ  bù đắp phần lao động phải thuê cho   hoạt động sản xuất của gia đình để bù phần thiếu hụt do phải dành thời gian   cho công việc giám sát. Chính vì vậy chi phí giám sát sẽ  rất lớn nếu muốn   duy trì hệ thống này.   ­ Hiệu quả kinh tế không khác biệt lớn giữa các hộ thực hiện đúng yêu  cầu kỹ thuật với các hộ không thực hiện đúng: Điều này là kết quả tác động  do nhiều yếu tố. Trước hết là do các hộ  nông dân không nghiêm túc trong  việc chấp hành các tiêu chuẩn bắt buộc trong quá trình sản xuất, do đó sản  phẩm sản xuất ra thiếu sự đồng đều và không đảm bảo về  mặt chất lượng.   Bên cạnh đó, một nguyên nhân rất quan trọng nữa là do hoạt động chế  biến,   thương mại gạo tám xoan còn hạn chế, chưa tạo ra sự  khác biệt về  chất  lượng, mẫu mã, chưa xây dựng được kênh tiêu thụ   ổn định. Giá bán sản   phẩm  ở mức thấp, giá thu mua thóc của các nông dân thấp, hiệu quả kinh tế  sản xuất lúa tám đúng tiêu chuẩn kỹ  thuật không mang lại hiệu quả  kinh tế  như  mong đợi. Đây là nguyên nhân khiến các hộ  thiếu động lực trong việc  chấp hành các tiêu chuẩn kỹ thuật trong sản xuất lúa tám xoan.   III.1.4. Các yếu tố có ảnh hưởng đến chất lượng gạo tám xoan    Theo kết quả khảo sát về các yếu tố có ảnh hưởng đến chất lượng gạo   tám xoan cho thấy: Bảng 4:  Ý kiến đánh giá về các yếu tố hạn chế trong canh tác lúa tám  12
  13. xoan Yếu tố hạn chế % ý kiến trả lời 1. Giống 92 2. Gặt non (8/10 phần) 88 3. Nước tưới phù xa  75 4. Thiếu phân chuồng 75 5. Lạm dụng quá lượng đạm 67 6. Đất đai (mặn, chua, quá trũng)    56   Nguồn: Điều tra RUDEC năm 2009   + Các khâu canh tác  ảnh hưởng đến chất lượng gạo tám xoan tại địa   phương (xếp theo mức độ quan trọng):    ­ Giống;   ­ Thời điểm thu hoạch (cần thu non và yếu tố thời tiết);   ­ Nước tưới;   ­ Biện pháp chăm sóc (thiếu phân chuồng) và phun thuốc BVTV trong   giai đoạn lúa trỗ bông;   ­ Lạm dụng đạm bón;   ­ Chất lượng đất đai canh tác lúa tám xoan.    + Để  bảo đảm chất lượng gạo tám xoan thơm ngon, hạt gạo trong,   đẹp, thời gian thu hoạch tốt nhất là 25 – 30 ngày sau trỗ  (chín 8 phần). Hiện  nay vì muốn đạt năng suất cao nông dân thu hoạch ở 30­35 ngày sau trỗ là quá  muộn. Tuy nhiên, thu hoạch non năng suất có thể giảm 15%­20%.    + Nước tưới cũng là yếu tố quan trọng  ảnh hưởng đến năng suất chất   lượng lúa tám xoan. Để  có được năng suất chất lượng, ruộng lúa tám xoan  cần được tưới tối thiểu 14 lần nước phù sa và được tưới trực tiếp theo hệ  thống tưới bằng trọng lực. Và khi lúa tám xoan vào mẩy ở giai đoạn cuối cần   phơi khô ruộng­ráo gốc (rút nước  ở  ruộng ngày thứ  10 sau trỗ  là tốt nhất),   vào thời điểm lúa vào hạt cần có gió mùa đông bắc, biên độ  chênh lệch về  13
  14. nhiệt độ  ngày ­ đêm ở  mức độ  cao nhằm làm cho lúa chín chậm tạo lên mùi  thơm của gạo, tránh lúa đổ, bông bị  ngâm trong nước mất hương, năng suất   giảm.    + Cuối cùng chất lượng lúa tám xoan giảm còn có nguyên nhân là hiện   nay nông dân hầu như không bón phân chuồng vì lí do:    ­ Phân lợn dùng cho bioga là chủ yếu;   ­ Thời vụ gấp trong vụ mùa nông dân không có đủ thời gian để tải phân  ra ruộng;   ­ Bón phân chuồng thóc đẹp nhưng không kinh tế  bởi giá thóc không  chênh lệch nhiều so với không bón. Thay vào đó nông dân sử dụng quá nhiều   đạm, trung bình lên đến 5 đến 8 kg urê/sào, cần phải giảm lượng phân này. III.1.5. Phân vùng đất trồng lúa tám xoan thích hợp ở Hải Hậu.   Xác định loại đất và vùng đất canh tác lúa tám xoan thích hợp có ý nghĩa   quan trọng không chỉ  đối với việc xây dựng quy trình kỹ  thuật canh tác lúa   tám mà còn quan trong đặc biệt với việc phát triển sản xuất sản phẩm đặc  sản lúa tám xoan Hải Hậu sau này. Dựa trên kết quả  xác định loại đất và  vùng đất thích hợp này, Hiệp hội sẽ khoanh vùng sản xuất và và xây dựng các  bản đồ  giải thửa để  theo dõi và quản lí quy trình sản xuất chung của hiệp  hội.   Theo ý kiến các chuyên gia địa phương, cùng với quá trình khảo sát và   đánh giá, trong số  35 xã hiện nay của huyện Hải Hậu, có thể  sơ  bộ  phân  thành 3 vùng chính, cụ thể trong bảng 5 như sau:  Bảng 5: Phân vùng sơ bộ các xã trồng lúa tám xoan ở Hải Hậu Vùng tám xoan  Vùng tám xoan  Nội dung Vùng mở rộng gốc hiện nay 1. Số xã trong vùng 12 15 8 2. Diện tích và tỷ  lệ% cấy  lúa vụ mùa (ha) 3762.3 (33%) 5491.8 (49%) 2027.7 (18%) 14
  15. 3.   Tỷ   lệ   %   lúa   tám   hiện  nay 2.41 24.74 1.83 4. Chất lượng lúa tám theo  Chất lượng  Chất lượng thơm  Chất lượng  đánh   giá   của   người   dân  thơm ngon. ngon. kém hơn. địa phương.  Nguồn: Kết quả đánh giá, phân vùng của Viện KHKT Nông nghiệp Việt Nam   Các vùng sản xuất lúa tám xoan được đánh giá theo sự dịch chuyển của  hệ  thống thuỷ  lợi, nó có mối liên hệ  chặt chẽ  với khả  năng cải tạo đất  thường xuyên do được tưới nước phù sa hàng năm. Với 100% ý kiến của   người dân và các chuyên gia tại các hội nghị cho rằng, hệ thống thuỷ lợi đóng  vai trò quan trọng quyết định đến khả  năng sản xuất và chất lượng gạo của  từng vùng. Điều đó cho thấy vùng tám xoan gốc và vùng tám xoan hiện nay là  hai khu vực có điều kiện đặc biệt hơn các khu vực khác về hệ thống thuỷ lợi   (ngoài các yếu tố  khác như  đất đai...). Điều này đã hình thành một sự  khác  biệt không chỉ  trong huyện mà còn đối với các khu vực lân cận như: Nghĩa   Hưng, Trực Ninh...   Quá trình và đặc điểm phát triển của các vùng lúa tám xoan được tổng   hợp qua những đặc điểm sau:   Vùng tám xoan gốc: Bao gồm 12 xã phía bắc huyện, là vùng canh tác  lúa tám xoan phát triển từ trước thời hợp tác hóa năm 1960. Tổng diện tích lúa   mùa của vùng chiếm đến 33% diện tích toàn huyện. Trong lịch sử, cơ cấu lúa   tám xoan của vùng ở vụ mùa có thể đạt đến 35­40% diện tích, nhưng những  năm gần đây khu vực này hầu như không trồng lúa tám xoan cao nưa. Lí do là  vì vùng này hiện nay phát triển lúa tám xoan gặp nhiều khó khăn do bình quân   diện tích đất nông nghiệp/khẩu thấp nhất trong huyện (0.7 đến 0.8 sào/khẩu),   vì thế  nông dân tập trung cấy các giống lúa mới cho năng suất cao để  lấy  lương thực và phát triển cây vụ đông phụ vụ tiêu dùng của hộ. 15
  16.   Vùng tám xoan hiện nay:  Đây là vùng lúa tám xoan mới phát triển  mạnh trong khoảng gần 20 năm trở  lại đây, liên quan đến 15 xã vùng trung  của huyện, trong đó các xã có các nhiều lúa tám xoan và cho chất lượng thơm   ngon hơn cả đặc biệt phải kể đến 6 xã là Hải Đường, Hải An, Hải Toàn, Hải  Phong, Hải Ninh và Hải Giang. Các xã này hiện có nhiều thuận lợi bởi diện  tích đất canh tác bình quân đầu người khá cao lên đến 1,5 – 1,7 sào/khẩu.  Diện tích cấy lúa mùa của 6 xã này chiếm khoảng 80% diện tích toàn huyện,  trong cơ  cấu các giống tám xoan chiếm đến 5% diện tích lúa mùa của vùng  (300ha). Sự phát triển diện tích lúa tám xoan của vùng liên quan chặt chẽ đến  động thái của hệ thống tưới nước phù xa.    Vùng tám xoan mở rộng: Đó là 8 xã nằm ở phía nam và vùng ven biển   của huyện. Đây là những xã đất bị nhiễm mặn nhiều. Diện tích trồng lúa tám   xoan hiện này không đáng kể  (khoảng 1,83% bằng chưa đầy 40 ha trong vụ  mùa). Các giống lúa tám trước đây trồng tại khu vực này đa số  là giống tám  ngố  (tám cổ  ngỗng). Giống lúa này theo các chuyên gia địa phương là giống   có khả  năng chịu phèn, mặn tốt hơn cả, nhưng chất lượng gạo lại không  thơm ngon như các giống tám xoan, tám thơm... Hiện nay, diện tích trồng lúa  tám tại khu vực này chủ yếu đã chuyển sang giống lúa lai với chu kỳ kênh tác   ngắn và tổ chức cơ cấu cây vụ đông cho vụ thứ 3. III.1.6. Đất thích hợp cho trồng lúa tám xoan và phân vùng lúa tám   xoan ở Hải Hậu.     Đất trồng lúa tám xoan nên chọn đất tốt, thường là đất phù sa trung tính   có tầng Glây (kí hiệu FLe­g), giàu mùn và chất hữu cơ. Đất trồng lúa tám  xoan thích hợp nhất phải có các đặc điểm nông hoá như sau:  Độ chua trung tính, pHkcl từ 6,0 ­ 7,0 Thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến thịt nặng:  ­ Tỷ lệ cát:  25% ­ 30% ­ Limon:     50% ­ 55% 16
  17. ­ Sét:    20% ­ 25%   Bảng 6. Đất thích hợp cho trồng lúa tám xoan Mức độ thích hợp cho trồng lúa tám  xoan Đặc điểm loại đất Đất đặc biệt thích  Đất thích hợp hợp Đất phù xa trung tính  Đất   phù   xa   trung  Loại đất ít chua, có tầng Glây,  tính   ít   chua,   thịt  thịt trung bình. trung bình và năng. Kí   hiệu   trên   bản   đồ   thổ  FLe­g FLe­si nhưỡng Địa hình Vàn, vàn cao Vàn, vàn cao Công thức luân canh 2L 2L TP cơ giới – thịt T.bình, năng d d, e trong đó tỷ lệ : ­ cát  % 25 ­ 30 20 – 25                          ­ limon 50 ­ 55 50 – 55                          ­ sét 20 ­ 25 25 – 30 Độ chua pHkcl 6,0 – 6,5 5,5 – 6,5 Độ muối tan 0,20 – 0,30 0,20 – 0,30 Cation trao đổi:     Ca++ 6,0 – 8,0 5,0 – 6,0 Mg++ 3,0 2,0 – 4,0 Na+  , K+ Dung lượng trao đổi (CEC)    ­ đất                11,5­ 12,5 12,0   ­ sét 22,0­ 28,0 25,0 Nguồn: Kết quả do Viện KHKT Nông nghiệp, Sở NN&PTNT xây dựng   Nước tưới  cho ruộng lúa tám xoan phải là nước phù sa, tốt nhất là  nước phù sa sông Ninh Cơ, cường độ nước tưới tối thiểu là 14 lần/vụ lúa tám  xoan. Bảng 7: Yêu cầu nước tưới cho lúa tám xoan Chỉ tiêu Đơn vị Cuối vụ Đầu vụ pH 8,058 8,158 NO2 mg/l 0,0682 0,1484 NH4 mg/l 2,712 0,1986 Tổng Fe mg/l 1,1114 0,915 17
  18. Cặn lơ lửng mg/l 53,4 64,4 Ni mg/l 0,00496 0,00456 Zn mg/l 0,00386 0,00356 Tổng Cr mg/l 0,0091 0,01318 Cu mg/l 0,00486 0,00452 Mn mg/l 0,01866 0,02546 Hg mg/l 0,00082 0,00154 As mg/l 0,01126 0,00992 Pb mg/l 0,0289 0,03472                18
  19. Bảng 8:  Phân vùng sinh thái lúa tám xoan ở huyện Hải Hậu Loại vùng Phân bố Mô tả 1. Đất canh tác lúa chủ yếu là đất vàn và vàn cao, loại đất phổ biến là đất   phù xa sông Hồng trung tính, thành phần cơ giới thịt trung bình và thịt nặng   Tập trung nhiều ở vùng giữa  có glây. của huyện, bao gồm các xã:  2. Vùng được tưới phù xa sông Hồng thường xuyên: 14 đến 18 lần/vụ. I. Vùng rất  Hải   An,   Hải   Toàn,   Hải  3. Đất không nhiếm phèn hay nhiễm mặn, mức độ  mặn nhẹ  chỉ  từ  0.02­ thích hợp  Phong,   Hải   Đường   và   một  0.05% phần các xã: Hải Ninh, Hải  4.  Đất canh tác lúa xa làng ít bị che khuất và ít bị sâu, chuột phá hại. Giang, Hải Tân và Hải Sơn 5.  Hệ thống tưới trực tiếp từ sông Ninh Cơ,  khả năng tiêu ở  mức độ  rất   cao Phân biệt với vùng I bởi sự xuất hiện các địa hình vàn thấp hoặc địa hình   II. Vùng thích  cao, và loại đất phù xa sông Hồng chua nhẹ. Chế  độ  nước tưới bị  cạnh  hợp  tranh bởi hệ thống canh tác cây vụ đông.  1. Đất cao có thể bị hạn cuối vụ. , ruộng canh tác gần khu dân cư và bị che  Phía bắc phân bố   ở  các xã :  khuất nhiều bởi làng, chuột phá hại nhiều. Vùng I Hải   Minh,   Hải   Anh,   Hải  2. Chế độ tưới phù xa bị ảnh hưởng do cây sự phát triển các cây trồng vụ  Long, Hải Sơn đông. Phía   nam   phân   bố   nhiều   ở  1. Loại đất phù sa sông Hồng chua nhẹ chiếm đa số. Vùng II các xã : Hải Ninh, Hải Giang  2. Nhiều đất thấp, lúa dễ bị úng ở cuối vụ. và một phần Hải Phú Phân   bố   các   xã   như   Hải  III. Vùng ít  Châu, Hải Cường, Hải Nam,  1. Vùng tập trung nhiều loại đất phù sa sông Hồng từ chua nhẹ đến chua,  thích hợp Hải Phúc và một phần Hải  2. Đất có thể bị nhiễm phèn, mặn ở cuối vụ Giang, Hải Ninh…. 19
  20. IV. Vùng không  1. Vùng đất cát, ven biển, thành phần cơ giới nhẹ Phần còn lại của Huyện thích hợp        2. Đất bị ảnh hưởng mặn khá nặng 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2