intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình hình thành khái niệm về các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi ODA p2

Chia sẻ: Sfafa Faf | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

100
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Vai trò của ODA được thể hiện ở một số điểm chủ yếu sau: Thứ nhất, ODA là nguồn bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Sự nghiệp CNH, HĐH mà Việt Nam đang thực hiện đòi hỏi một khối lượng vốn đầu tư rất lớn mà nếu chỉ huy động trong nước thì không thể đáp ứng được. Do đó, ODA trở thành nguồn vốn từ bên ngoài quan trọng để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình hình thành khái niệm về các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi ODA p2

  1. kinh tế quốc tế. Một trong những mục tiêu chính trong chiến lược này là thu hút ODA cho phát triển kinh tế. Vai trò của ODA được thể hiện ở một số điểm chủ yếu sau: Thứ nhất, ODA là nguồn bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Sự nghiệp CNH, HĐH mà Việt Nam đang thực hiện đòi hỏi một khối lượng vốn đầu tư rất lớn mà nếu chỉ huy động trong nước thì không thể đáp ứng được. Do đó, ODA trở thành nguồn vốn từ bên ngoài quan trọng để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. Trải qua hai cuộc chiến tranh những cơ sở hạ tầng kỹ thuật của chúng ta vốn đã lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề hầu như không còn gì, nhưng cho đến nay hệ thống kết cấu hạ tầng đã được phát triển tương đối hiện đại với mạng lưới điện, bưu chính viễn thông được phủ khắp tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước, nhiều tuyến đường giao thông được làm mới, nâng cấp, nhiều cảng biển, cụm cảng hàng không cũng được xây mới, mở rộng và đặc biệt là sự ra đời của các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã tạo ra một môi trường hết sức thuận lợi cho sự hoạt động của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Bên cạnh đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật một lượng lớn vốn ODA đã được sử dụng để đầu tư cho việc phát triển ngành giáo dục, y tế, hỗ trợ phát triển ngành nông nghiệp … Thứ hai, ODA giúp cho việc tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực. Một trong những yếu tố quan trọng góp phần đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước đó là yếu tố khoa học công nghệ và khả năng tiếp thu những thành tựu khoa học tiên tiến của đội ngũ lao động. Thông qua các dự án ODA các nhà tài trợ có những hoạt động nhằm giúp Việt Nam nâng cao trình độ khoa học công nghệ và phát triển nguồn nhân lực như: cung cấp các tài liệu kỹ thuật,
  2. tổ chức các buổi hội thảo với sự tham gia của những chuyên gia nước ngoài, cử các cán bộ Việt Nam đi học ở nước ngoài, tổ chức các chương trình tham quan học tập kinh nghiệm ở những nước phát triển, cử trực tiếp chuyên gia sang Việt Nam hỗ trợ dự án và trực tiếp cung cấp những thiết bị kỹ thuật, dây chuyền công nghệ hiện đại cho các chương trình, dự án. Thông qua những hoạt động này các nhà tài trợ sẽ góp phần đáng kể vào việc nâng cao trình độ khoa học, công nghệ và phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam và đây mới chính là lợi ích căn bản, lâu dài đối với chúng ta. Thứ ba, ODA giúp cho việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế . Các dự án ODA mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam thường ưu tiên vào phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng khác nhau trong cả nước. Bên cạnh đó còn có một số dự án giúp Việt Nam thực hiện cải cách hành chính nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước. Tất cả những điều đó góp phần vào việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở Việt Nam. Thứ tư, ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển. Các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào một nước, trước hết họ quan tâm tới khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tại nước đó. Do đó, một cơ sở hạ tầng yếu kém như hệ thống giao thông chưa hoàn chỉnh, phương tiện thông tin liên lạc thiếu thốn và lạc hậu, hệ thống cung cấp năng lượng không đủ cho nhu cầu sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư vì những phí tổn mà họ phải trả cho việc sử dụng các tiện nghi hạ tầng sẽ lên cao. Một hệ thống ngân hàng lạc hậu cũng là lý do làm cho các nhà đầu tư e ngại, vì những chậm trễ, ách tắc trong hệ thống thanh toán và sự thiếu thốn các dịch vụ ngân hàng hỗ trợ cho đầu tư sẽ làm phí tổn đầu tư gia tăng dẫn tới hiệu quả đầu tư giảm sút.
  3. Như vậy, đầu tư của chính phủ vào việc nâng cấp, cải thiện và xây mới các cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng đều hết sức cần thiết nhằm làm cho môi trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn. Nhưng vốn đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng là rất lớn và nếu chỉ dựa vào vốn đầu tư trong nước thì không thể tiến hành được do đó ODA sẽ là nguồn vốn bổ sung hết sức quan trọng cho ngân sách nhà nước. Một khi môi trường đầu tư được cải thiện sẽ làm tăng sức hút dòng vốn FDI. Mặt khác, việc sử dụng vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh doanh có khả năng mang lại lợi nhuận. Rõ ràng là ODA ngoài việc bản thân nó là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho phát triển, nó còn có tác dụng nâng cao trình độ khoa học, công nghệ, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và làm tăng khả năng thu hút vốn từ nguồn FDI góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. 3) Những xu hướng mới của ODA trên thế giới. Trong thời đại ngày nay, dòng vốn ODA đang vận động với nhiều sắc thái mới. Đây cũng chính là một trong những nhân tố tác động tới việc thu hút nguồn vốn ODA. Do đó, nắm bắt được xu hướng vận động mới này là rất cần thiết đối với nước nhận tài trợ. Những xu hướng đó là: Thứ nhất, Ngày càng có thêm nhiều cam kết quan trọng trong qua hệ hỗ trợ phát triển chính thức như: - Giảm một nửa tỷ lệ những người đang sống trong cảnh nghèo khổ cùng cực vào năm 2015. - Phổ cập giáo dục tiểu học ở tất cả các nước vào năm 2015. - Giảm 2/3 tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ em dưới 5 tuổi vào năm 2015. - Hoàn thiện hệ thống y tế chăm sóc sức khoẻ ban đầu, đảm bảo sức khoẻ sinh sản không muộn hơn năm 2015.
  4. - Thực hiện các chiến lược quốc gia và toàn cầu hoá vì sự phát triển bền vững của các quốc gia. Thứ hai, Bảo vệ môi trường sinh thái đang là trọng tâm ưu tiên của các nhà tài trợ. Thứ ba. Vấn đề phụ nữ trong phát triển thường xuyên được đề cập tới trong chính sách ODA của nhiều nhà tài trợ. Phụ nữ đóng một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội được hưởng những thành quả của phát triển, đồng thời phụ nữ cũng góp phần đáng kể vào sự phát triển. Vì thế sự tham gia tích cực của phụ nữ và đảm bảo lợi ích của phụ nữ được coi là một trong những tiêu chí chính để nhìn nhận việc thực hiện tài trợ là thiết thực và hiệu quả. Thứ tư, Mục tiêu và yêu cầu của các nhà tài trợ ngày càng cụ thể. Tuy nhiên ngày càng có sự nhất trí cao giữa nước tài trợ và nước nhận viện trợ về một số mục tiêu như: Tạo tiền đề tăng trưởng kinh tế ; Xoá đói giảm nghèo; Bảo vệ môi trường… Thứ năm, nguồn vốn ODA tăng chậm và cạnh tranh giữa các nước đang phát triển trong việc thu hút vốn ODA đang tăng lên. Vì vậy, Chúng ta cần nắm bắt được những xu thế vận động của dòng vốn ODA để có những biện pháp hữu hiệu thu hút ODA của các nhà tài trợ.
  5. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG, SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÝ VỐN ODA. I) TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG ODA 1) Các nhà tài trợ và lĩnh vực ưu tiên tài trợ cho Việt Nam. Trên thế giới hiện nay có 4 nguồn cung cấp ODA chủ yếu là: Các nước thành viên của DAC; Liên Xô cũ và các nước Đông Âu; Một số nước arập và một số nước đang phát triển. Trong các nguồn này ODA từ các nước thành viên DAC là lớn nhất. Bên cạnh ODA từ các quốc gia thì ODA từ các tổ chức viện trợ đa phương cũng chiếm một khối lượng lớn trong đó bao gồm: Các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc, Liên minh châu âu(EU), các tổ chức phi chính phủ(NGO), các tổ chức tài chính quốc tế( WB, ADB, IMF)… Đối với Việt Nam trước năm 1993 nguồn viện trợ chủ yếu từ Liên Xô và các nước Đông Âu nhưng kể từ khi nối lại quan hệ với cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế năm 1993 thì cho đến nay tại Việt Nam có trên 45 tổ chức tài trợ chính thức đang hoạt động với khoảng 1500 dự án ODA và trên 350 tổ chức phi chính phủ đang có tài trợ cho Việt Nam. Sau đây là các lĩnh vực ưu tiên chủ yếu của một số nhà tài trợ lớn dành cho Việt Nam:
  6. Nhà tài Ưu tiên toàn cầu Ưu tiên ở Việt Nam t rợ Nhật Hạ tầng kinh tế & dịch vụ Hạ tầng kinh tế & dịch vụ CHLB Phát triển kinh tế; cải thiện Hỗ trợ cải cách kinh tế; phát Đức điều kiện sống triển hệ thống GT Tăng trưởng kinh tế; ổn Cứu trợ nạn nhân chiến Mỹ định dân số và sức khoẻ tranh & trẻ em mồ côi Phát triển đô thị; GTVT; Phát triển nhân lực; GTVT; Pháp giáo dục; khai thác mỏ thông tin liên lạc Cơ sở hạ tầng; phát triển Hỗ trợ kinh tế & TC; hỗ trợ Canađa khu vực tư nhân; MT thiết chế & quản lý Nhiều lĩnh vực Xoá đói giảm nghèo; GTVT Anh Thúc đẩy phát triển kinh tế Xoá đói giảm nghèo; WB & tăng phúc lợi. GTVT. Cân bằng về mậu dịch quốc IMF tế; ổn định tỷ giá hối đoái. Hỗ trợ cán cân thanh toán& điều chỉnh cơ cấu. 2) Chiến lược huy động ODA của Việt Nam. Nhận thức được rằng ODA là một nguồn lực có ý nghĩa quan trọng từ bên ngoài và xuất phát từ xu hướng vận động và những ưu tiên của nhà tài trợ chính phủ Việt Nam luôn luôn coi trọng và quan tâm đến việc huy động các nguồn ODA. Trước hết, để duy trì lòng tin đối với các nhà tài trợ nhằm duy trì các nguồn cung cấp ODA đang khai thác chính phủ Việt Nam đã tạo ra một khung pháp lý cho việc khai thác và sử dụng nguồn vốn ODA thông qua việc ban hành các chính sách và các văn bản pháp lý điều tiết các hoạt động liên quan đến ODA. Cụ thể: Trước năm 1993, việc quản lý và sử dụng ODA được điều tiết bởi từng quyết định riêng lẻ của chính phủ đối với từng chương trình, dự án ODA và từng nhà tài trợ cụ thể. Để quản lý vay và trả nợ
  7. nước ngoài một cách có hệ thống nhà nước ban hành nghị định số 58/Cp ngày 30/8/1993 về quản lý và trả nợ nước ngoài, nghị định số 20/CP ngày 20/4/1994 về quản lý nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và yêu cầu đổi mới quản lý từ năm 1997- 1999 chính phủ ban hành nghị định 87/1997/NĐ- CP ngày 5/8/1997 thay thế nghị định 20/CP và nghị định số 90/1998/NĐ-CP ngày 7/1/1998 thay thế cho nghị định 58/CP về quy chế vay và trả nợ nước ngoài đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan của chính phủ, các Bộ, Ngành, Địa phương và các tổ chức kinh tế trong việc quản lý, sử dụng vốn vay nước ngoài. Để hoàn thiện hơn nữa cơ chế quản lý, ngày 4/5/2001 chính phủ đã ban hành nghị định số 17/2001/NĐ-CP về việc ban hành quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thay thế cho nghị định 87 CP nói trên. Các văn bản này đã tạo ra hành lang pháp lý trong việc quản lý và sử dụng vay nợ nước ngoài góp phần thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án sử dụng ODA tạo niềm tin cho các nhà tài trợ và điều đó sẽ tạo thuận lợi cho việc huy động tài trợ của các nhà tài trợ. Bên cạnh đó, để tăng khối lượng nhận viện trợ Việt Nam cũng đã chủ động tìm kiếm các nguồn cung cấp ODA, tăng cường, mở rộng các mối quan hệ với các quốc gia, tổ chức quốc tế, chủ động đưa ra những khó khăn, những lĩnh vực cần được hỗ trợ với các nhà tài trợ và đưa ra những cam kết trong việc quản lý và sử dụng vốn của các nhà tài trợ. 3) Tình hình huy động ODA trong thời gian qua. Kể từ khi cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế chính thức nối lại cung cấp ODA cho Việt Nam thì hàng năm diễn ra hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ quốc tế nhằm thoả thuận số vốn ODA dành cho Việt Nam và cho đến nay đã có 10 lần hội nghị đã được tổ chức. Qua 10 lần hội nghị số vốn cam kết dành cho Việt Nam ngày một tăng và năm 2002 tại hội nghị lần thứ 10 số vốn mà các
  8. nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam là 2,5 tỷ USD mức cao nhất từ trước đến nay. Song điều có ý nghĩa hơn là số vốn được hợp thức hoá bằng các hiệp định ký kết giữa chính phủ Việt Nam với các nhà tài trợ. Chẳng hạn, năm 2002 số vốn này đạt hơn 1571 triệu USD giảm 26% so với kết quả năm 2001. Như vậy, kể từ năm 1993 đến nay tổng số vốn ODA được các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam lên đến 22,43 tỷ USD chưa kể phần tài trợ riêng để thực hiện cải cách kinh tế. Trong đó, tính đến hết năm 2002, tổng số vốn được hợp thức hoá bằng các hiệp định đạt khoảng 16,5 tỷ USD. Số vốn huy động được hàng năm cụ thể như sau:
  9. Năm Vốn cam kết Tốc độ tăng Ghi chú 1993 1.81 * Chưa kể 0,5 tỷ USD hỗ trợ cải cách kinh tế. 1994 1.94 7.18% ** Chưa kể 0,7 tỷ USD hỗ 1995 2.26 16.49% trợ cải cách kinh tế. 1996 2.43 7.52% 1997 2.40 -1.23% 1998 2.20* -8.33% 1999 2.1** 4.5% 2000 2.40 14.28% 2001 2.40 0% 2002 2.50 4.17% Nguồn: Bộ kế hoạch & đầu tư. II) THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ODA 1) Cơ sở pháp lý của việc quản lý và sử dụng ODA Kể từ khi nối lại quan hệ với các tổ chức tài trợ quốc tế từ năm 1993 đến nay Việt Nam đã và đang nhận được sự hỗ trợ ODA từ các nước và các tổ chức quốc tế, trong quá trình tiếp nhận và sử dụng vốn ODA chúng ta đã ban hành những qui định, nghị định liên quan đến quản lý và sử dụng nguồn vốn này làm cơ sở cho việc thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án ODA. Cụ thể: Năm 1993 nhà nước ban hành nghị định số 58/CP ngày 30/8/1993 về quản lý và trả nợ nước ngoài, nghị định số 20/CP ngày 20/4/1994 về quản lý nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức và đây là hai văn bản pháp lý cao nhất của chính phủ trong lĩnh vực quản lý nợ nước ngoài nói chung và quản lý vốn ODA nói riêng trong thời gian này. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và yêu cầu đổi mới trong quản lý từ năm 1997-1999 chính phủ ban hành nghị định 87/1997/NĐ-CP ngày 5/8/1997 thay thế nghị định 20/CP và
  10. nghị định số 90/1998/NĐ-CP thay thế cho nghị định 58/CP về qui chế vay và trả nợ nước ngoài và để hoàn thiện hơn nữa cơ chế quản lý ngày 4/5/2001 chính phủ đã ban hành nghị định số 17/2001/NĐ-CP về việc ban hành qui chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thay thế cho nghị định 87/CP. Các văn bản này đã tạo ra một hành lang pháp lý trong việc quản lý và sử dụng ODA tạo điều kiện cho các nhà tài trợ cung cấp ODA cho Việt Nam và là cơ sở pháp lý để các cơ quan quản lý và thực hiện Việt Nam tổ chức triển khai và thực hiện một cách có hiêụ quả các dự án ODA. 2) Tình hình quản lý và sử dụng ODA. Nguồn vốn ODA đã có mặt ở Việt Nam từ rất lâu, song nguồn vốn này có một thời gian bị gián đoạn từ khi Liên Xô và Đông âu sụp đổ, cho đến cuối năm 1993 với việc bình thường hoá với quỹ tiền tệ quốc tế(IMF), Ngân hàng thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển Châu á(ADB) các nguồn vốn ODA chuyển vào Việt Nam có triển vọng tăng nhanh. Cụ thể trong từng năm như sau: Đơn vị tính: tỷ USD Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Vốn 1.81 1.94 2.26 2.43 2.42 2.2 2.1 2.4 2.356 2.5 cam kết Vốn 0.41 0.72 0.74 0.90 1.00 1.24 1.35 1.65 1.5 1.53 thực hiện Trong tổng số vốn ODA các nhà tài trợ dành cho Việt Nam thì ba nhà tài trợ lớn nhất là Nhật Bản, WB và ADB chiếm trên 50% tổng số. Cụ thể: Nhật Bản 21,25%; WB 18,63%; ADB 10,56% còn lại là của các quốc gia và tổ chức tài trợ khác. Nguồn vốn ODA đã được tập trung hỗ trợ cho các lĩnh vực kinh tế, xã hội ưu tiên của chính phủ, đó là: Năng lượng 24%, giao
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0