intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa chất lượng tín hiệu từ nhà bán lẻ, sự tin tưởng và ý định mua lặp lại sản phẩm rau an toàn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:228

27
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Tiến sĩ Kinh tế "Mối quan hệ giữa chất lượng tín hiệu từ nhà bán lẻ, sự tin tưởng và ý định mua lặp lại sản phẩm rau an toàn" đề xuất và kiểm định mô hình về mối quan hệ giữa chất lượng tín hiệu từ nhà bán lẻ, sự tin tưởng vào nhà bán lẻ, sự tin tưởng vào sự an toàn của rau an toàn và ý định mua lặp lại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa chất lượng tín hiệu từ nhà bán lẻ, sự tin tưởng và ý định mua lặp lại sản phẩm rau an toàn

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO  TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH Đinh Vũ Định MỐI QUAN HỆ GIỮA CHẤT LƯỢNG TÍN HIỆU TỪ  NHÀ BÁN LẺ, SỰ TIN TƯỞNG VÀ Ý ĐỊNH MUA LẶP  LẠI  SẢN PHẨM RAU AN TOÀN LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2022
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO  TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH Đinh Vũ Định MỐI QUAN HỆ GIỮA CHẤT LƯỢNG TÍN HIỆU TỪ  NHÀ BÁN LẺ, SỰ TIN TƯỞNG VÀ Ý ĐỊNH MUA LẶP  LẠI  SẢN PHẨM RAU AN TOÀN Chuyên ngành: Kinh doanh thương mại Mã số: 9340121 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ                               NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA  HỌC:               1. PGS.TS BÙI THANH TRÁNG
  3. Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2022
  4. MỤC LỤC
  5. 5 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TỪ VIẾT  TIẾNG ANH TIẾNG VIỆT TẮT AVE Average Variance Extracted Phương sai trích CFA Confirmatory Factor Analysis Phân tích nhân tố khẳng định CLA Clarity Tính rõ ràng CON Consistency Tính nhất quán CR Composite Reliability Độ tin cậy tổng hợp CRE Credibility Tính tin cậy EFA Exploratory Factor Analysis Phân tích nhân tố khám phá MSV Maximum Shared Variance Phương sai riêng lớn nhất NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn P P­value Giá trị P RMSEA Root Mean Squared Error  Sai số trung bình bình phương gốc Approximation RPI Repurchase intention Ý định mua lặp lại RSQ Retailer’s signal quality Chất lượng tín hiệu từ nhà bán lẻ SEM Structural Equation Modeling Mô hình cấu trúc tuyến tính TSV Trust in the safety of safe  Sự tin tưởng vào sự an toàn của rau an  vegetables toàn TR Trust in retailers Sự tin tưởng vào nhà bán lẻ
  6. 6 DANH MỤC BẢNG BIỂU BẢNG TÊN BẢNG TRANG Bảng 1.1 Tổng hợp số lượng cửa hàng các loại hình bán lẻ hiện đại tại 6 thành phố Hồ Chí Minh và cả nước đến tháng 03 năm 2020 Bảng 2.1 Tổng hợp một số nghiên cứu ứng dụng lý thuyết tín hiệu 43 trong lĩnh vực thực phẩm Bảng 2.2 Tổng hợp một số nghiên cứu có hiện tượng chuyển giao sự 46 tin tưởng trong lĩnh vực thực phẩm Bảng 2.3 Tổng hợp các nghiên cứu về tổng thể các thành phần tạo nên 51 chất lượng tín hiệu Bảng 2.4 Tổng hợp đặc điểm của các thành phần tạo nên chất lượng 54 tín hiệu Bảng 2.5 Tổng hợp các giả thuyết và kỳ vọng của nghiên cứu 79 Bảng 3.1 Tổng hợp các thang đo gốc 91 Bảng 3.2 Thang đo Chất lượng tín hiệu từ nhà bán lẻ (RSQ) 94 Bảng 3.3 Thang đo Sự tin tưởng vào nhà bán lẻ (TIR) 96 Bảng 3.4 Thang đo Sự tin tưởng vào sự an toàn của rau an toàn (TSV) 97 Bảng 3.5 Thang đo Ý định mua lặp lại (RPI) 98 Bảng 4.1 Đặc điểm mẫu khảo sát (N= 502) 103 Bảng 4.2 Thống kê về nơi mua (N= 502) 104 Bảng 4.3 Kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha (N= 502) 105 Bảng 4.4 Kết quả EFA các khái niệm đơn hướng 107 Bảng 4.5 Kết quả EFA khái niệm chất lượng tín hiệu từ nhà bán lẻ 108 (RSQ) Bảng 4.6 Kết quả EFA khái niệm sự tin tưởng vào nhà bán lẻ (TIR) 109 Bảng 4.7 Hệ số tương quan giữa các thành phần chất lượng tín hiệu từ 110 nhà bán lẻ Bảng 4.8 Kết quả kiểm định độ tin cậy, giá trị phân biệt và hội tụ của 111 chất lượng tín hiệu từ nhà bán lẻ Bảng 4.9 Hệ số tương quan giữa các khái niệm 112 Bảng 4.10 Kết quả kiểm định độ tin cậy, giá trị phân biệt và hội tụ của 113 thang đo các khái niệm nghiên cứu Bảng 4.11 Tóm tắt kết quả kiểm định các thang đo 113 Bảng 4.12 Hệ số hồi quy chưa chuẩn hóa 115 Bảng 4.13 Hệ số hồi quy đã chuẩn hóa 116 Bảng 4.14 Kết quả kiểm định ảnh hưởng gián tiếp cụ thể (chưa chuẩn 118 hóa) Bảng 4.15 Hệ số ước lượng (chuẩn hóa) của mối quan hệ gián tiếp, trực 118 tiếp và tổng giữa các khái niệm Bảng 4.16 Tóm tắt các biến phân nhóm (N= 502) 119 Bảng 4.17 Kết quả kiểm định khác biệt giữa mô hình bất biến từng phần 120 và mô hình khả biến theo khu vực mua Bảng 4.18 Giá trị các mối quan hệ trong phân tích đa nhóm theo khu vực 120 mua Bảng 4.19 Kết quả kiểm định khác biệt giữa mô hình bất biến từng phần 121 và mô hình khả biến theo tuổi Bảng 4.20 Giá trị mối quan hệ trong phân tích đa nhóm theo tuổi 121 Bảng 4.21 Kết quả kiểm định khác biệt giữa mô hình bất biến từng phần 122 và mô hình khả biến theo trình độ học vấn
  7. 7 BẢNG TÊN BẢNG TRANG Bảng 4.22 Giá trị các mối quan hệ trong phân tích đa nhóm theo trình độ 123 học vấn Bảng 4.23 Kết quả kiểm định khác biệt giữa mô hình bất biến từng phần 123 và mô hình khả biến theo thu nhập Bảng 4.24 Giá trị các mối quan hệ trong phân tích đa nhóm theo thu 124 nhập Bảng 4.25 Kết quả phân tích Bootstrap (N= 1000) 125
  8. 8 DANH MỤC HÌNH ẢNH HÌNH TÊN HÌNH TRANG Hình 2.1 Quy trình truyền tín hiệu 34 Hình 2.2 Cơ chế hình thành sự tin tưởng trực tiếp và gián tiếp 38 Hình 2.3 Mô phỏng lý thuyết chuyển giao sự tin tưởng 40 Hình 2.4 Các tiêu chuẩn về mức độ an toàn của rau tại Việt Nam 49 Hình 2.5 Mô hình lý thuyết với biến điều tiết 78 Hình 3.1 Quy trình tiến hành nghiên cứu 83 Hình 4.1 Kết quả phân tích CFA - Chất lượng tín hiệu từ nhà bán lẻ 110 Hình 4.2 Kết quả CFA mô hình tới hạn (đã chuẩn hóa) 112 Hình 4.3 Kết quả phân tích SEM (đã chuẩn hóa) 115
  9. 9 TÓM TẮT LUẬN ÁN Luận  án này hướng đến mục tiêu phân tích mối quan hệ  giữa chất lượng tín   hiệu từ nhà bán lẻ, sự tin tưởng của khách hàng (tin tưởng vào nhà bán lẻ, tin tưởng vào  sự  an toàn của rau an toàn) và ý định mua lặp lại sản phẩm rau an toàn. Để  đạt được   mục tiêu này, phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng được sử  dụng kết hợp.   Nghiên cứu định tính được thực hiện với việc phỏng vấn khách hàng đã có trải nghiệm  mua rau an toàn tại các kênh bán lẻ hiện đại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh để xác   định sự  tồn tại các khái niệm, mối quan hệ  giữa chúng và khám phá những điểm mới  trên góc độ người tiêu dùng. Sau đó nghiên cứu tiến hành phỏng vấn sâu những chuyên  gia có kinh nghiệm và kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực marketing và bán lẻ nhằm điều   chỉnh và xây dựng thang đo các khái niệm phù hợp với bối cảnh nghiên cứu hiện tại.   Nghiên cứu định lượng bắt đầu với việc khảo sát 502 khách hàng đã mua rau an toàn tại  các kênh bán lẻ  hiện đại trên địa bàn thành phố  Hồ  Chí Minh nhằm thu thập dữ  liệu.   Phần mềm AMOS 24.0 và mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) được sử  dụng để  kiểm  định mô hình và các giả thuyết. Kết quả  nghiên cứu cho thấy  ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp giữa các khái   niệm nghiên cứu. Về  mối quan hệ  trực tiếp, chất lượng tín hiệu từ  nhà bán lẻ  có tác   động tích cực đến sự  tin tưởng vào nhà bán lẻ, sự tin tưởng vào sự  an toàn của rau an   toàn và ý định mua lặp lại. Sự tin tưởng vào nhà bán lẻ và sự  tin tưởng vào sự  an toàn   của rau an toàn có mối quan hệ  cùng chiều với ý định mua lặp lại. Đồng thời, sự  tin   tưởng vào nhà bán lẻ  có tác động dương đến sự  tin tưởng vào sự  an toàn của rau an  toàn. Về  mối quan hệ  gián tiếp, vai trò trung gian một phần của sự tin tưởng vào nhà   bán lẻ và sự tin tưởng vào sự an toàn của rau an toàn đã được chỉ ra. Cụ thể, chất lượng   tín hiệu từ nhà bán lẻ, sự tin tưởng vào nhà bán lẻ ảnh hưởng tích cực đến sự tin tưởng   vào sự  an toàn của rau an toàn, từ  đó làm gia tăng ý định mua lặp lại của khách hàng.  Ngoài ra, từ việc phân tích đa nhóm, luận án đã bác bỏ ảnh hưởng của các nhóm khách  hàng phân theo thu nhập, khu vực mua, tuổi và trình độ  học vấn. Dựa vào kết quả  đạt  được, tác giả đã đề xuất một số hàm ý quản trị. Từ khóa: Chất lượng tín hiệu, sự tin tưởng, ý định mua lặp lại, rau an toàn
  10. 10 ABSTRACT OF THE THESIS This  study  aims   to   analyze   the   relationships   between   retailer’s   signal   quality,  consumers’ trust (trust in retailers, trust in the safety of safe vegetables) and repurchase  intentions to buy safe vegetables. To reach this goal, qualitative and quantitative methods  are   used   in   combination.   Qualitative   method   was   carried   out   with   interviews   with  customers who have had the experience of buying safe vegetables at modern retailers in Ho  Chi Minh City to determine the existence of concepts, their relationships and discover new  points  from a  consumer perspective.  The study, then  conduct  in­depth interviews  with  experts who have experience and wide knowledge in the field of marketing and retail to  adjust the conceptual scales in accordance with this research context. Quantitative method  started with surveying 502 customers who have bought safe vegetables at modern retailers  in Ho Chi Minh City to collect data. AMOS 24.0 and SEM (Structural Equation Modeling)  were used to test the theorical model and hypotheses. The   result   shows   direct   and   indirect   influences   between   research   concepts.  Regarding the direct relationships, retailer’s signal quality has a positive effect on trust in  retailers, trust in the safety of safe vegetables, and repurchase intention. Trust in retailers  and trust in safety of safe vegetables have positive relationships with repurchase intention.  At the same  time, trust in  retailers  has  a positive effect on trust  in the  safety of safe  vegetables. Regarding the indirect relationships, a partial mediating role of trust in retailers  and trust in the safety of safe vegetables has been shown. Specifically, the retailer’s signal  quality and trust in retailers positively affects trust in the safety of safe vegetables, thereby  increasing consumers’ repurchase intention. In addition, from multi­group analysis, the  thesis has rejected the influence of customer groups by income, purchasing area, age and  education level. Based on these results, author has proposed some managerial implications. Keywords: Signal quality, trust, repurchase intention, safe vegetables
  11. 11 CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI Nghiên cứu này nhằm khám phá mối quan hệ  giữa: chất lượng tín hiệu từ  nhà   bán lẻ, sự tin tưởng vào nhà bán lẻ, sự tin tưởng vào sự  an toàn của rau an toàn và ý   định mua lặp lại của khách hàng. Chương 1 sẽ đề  cập đến những nội dung chính sau­   chỉ  ra vấn đề  nghiên cứu (bối cảnh lý thuyết, bối cảnh thực tiễn); xác định khe hổng   nghiên  cứu;  trình  bày mục  tiêu,  câu  hỏi  nghiên  cứu;  xác   định  đối  tượng,  phạm  vi,   phương pháp nghiên cứu; và tóm tắt những đóng góp mới. 1. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Bối cảnh thực tế 1.1.1. Thực tiễn kinh doanh rau an toàn tại các kênh bán lẻ hiện đại Ở  Việt Nam,  tình trạng  mất an toàn thực phẩm  diễn ra phức tạp  và có chiều  hướng gia tăng. Năm 2018, Ban quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh đã  phát hiện 11.395/41.032 cơ sở được kiểm tra (chiếm tỷ lệ 27,8%) có các sai phạm về an  toàn thực phẩm (Duy Tính, 2019). Thực tế  này đã tạo nên những quan ngại trong việc   tiêu dùng thực phẩm của người dân, đặc biệt là đối với các thực phẩm thiết yếu hàng   ngày như  rau xanh. Sự quan ngại này là hợp lý bởi quy mô sản xuất rau tại Việt Nam  chủ yếu là hộ gia đình nhỏ lẻ, được miễn đăng ký kinh doanh dù các sản phẩm đó vẫn   được lưu thông trên thị  trường (Phạm Vũ Hải và Đào Thế  Anh, 2016). Nhiều vụ  việc  về các loại rau không đảm bảo an toàn, chứa các chất hóa học độc hại cho sức khỏe bị  phát hiện (Trần Ngọc, 2016; Đông Hà và Quỳnh Giang, 2016) đã trở  thành minh chứng  củng cố  thêm sự  lo lắng về  chất lượng rau của người tiêu dùng cũng như  thể  hiện  những bất cập trong việc kiểm tra, kiểm soát chất lượng sản phẩm. Những bất cập này   vô tình trở thành bàn đạp nhen nhóm lên trào lưu tiêu dùng sản phẩm sạch tại các thành   phố lớn và thúc đẩy xu hướng mua rau an toàn tại các kênh bán lẻ hiện đại bởi hi vọng   mua được sản phẩm có chứng nhận chất lượng (Hoang và Nakayasu, 2016). Nói cách  khác, mặt hàng rau an toàn tại các kênh bán lẻ hiện đại trở thành nhu cầu thiết yếu của   người dân, đặc biệt là tại các thành phố  lớn. Rau an toàn là những sản phẩm rau tươi  (bao gồm tất cả các loại rau ăn: lá, quả, hạt, thân, củ, hoa,  các loại nấm thực phẩm...)  được sản xuất trong điều kiện quy định, có dư lượng hóa chất và nhiễm vi sinh vật có  hại trong  mức cho phép, bảo đảm an toàn cho con  người  và môi trường  (Bộ  Nông  nghiệp và Phát triển nông thôn, 2012). Kênh  bán lẻ  hiện đại (siêu thị, cửa hàng thực   phẩm tiện lợi...) được xem là kênh phân phối chính thống của mặt hàng nông sản này. Để đảm bảo an toàn thực phẩm, Chính phủ Việt Nam quy định tất cả sản phẩm  nông sản được bán trong các kênh bán lẻ  hiện đại  phải đảm bảo vệ  sinh an toàn thực  phẩm, có nguồn gốc rõ ràng, an toàn cho sức khỏe người sử dụng,  nếu không có bao bì  đóng gói thì cần chọn lọc, ghi rõ nguồn  gốc  xuất xứ, chất lượng sản  phẩm...  (Bộ  Thương Mại, 2004). Trên thực tế, các sản phẩm rau an toàn thường có chất lượng   không đồng nhất, khó kiểm chứng, kiểm soát, chu kỳ sống ngắn, khiến người tiêu dùng   khó đánh giá các tiêu chí an toàn nếu chỉ  dựa vào hình dáng, kết cấu  sản phẩm (Chen,  2008), buộc họ  phải tham khảo các tín hiệu từ  nhà bán lẻ  để  kỳ  vọng về  chất lượng.   Bởi những thông tin được cung cấp trên bao bì hoặc danh tiếng của cửa hàng, được xem  như  là tín hiệu đảm bảo về  chất lượng thực phẩm (Grunert, 2005; Moser và cộng sự, 
  12. 12 2011). Ở chiều ngược lại, nhiều vụ việc về   các mặt hàng rau an toàn bán tại các kênh  bán lẻ  hiện đại không đảm bảo chất lượng bị  phát hiện ( Chu Khôi, 2015; Thiên Thư,  2016) đã dấy lên sự  nghi ngờ  về  chất lượng thực tế  của sản phẩm, đồng thời khiến   người tiêu dùng khó tin tưởng vào sự  an toàn của rau an toàn và mất niềm tin vào nhà   bán lẻ. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến dự định hành vi tiêu dùng của họ  trong tương   lai. Do đó, để gia tăng hiệu quả kinh doanh nói chung và sản lượng  rau an toàn được bán  ra nói riêng, các kênh bán lẻ  hiện đại cần có  chiến lược phù hợp để  gây dựng sự  tin  tưởng của người tiêu dùng đối với sản phẩm rau an toàn cũng như sự tin tưởng đối với  nhà bán lẻ. Bởi nhận được sự  tin tưởng là điều kiện cần thiết và tiên quyết tạo nên   thành công cho tổ chức (Kim và cộng sự, 2008) và đây là nhân tố có tác động trực tiếp   đến ý định mua lặp lại của khách hàng (Wang và cộng sự, 2014;  Spaid và cộng sự, 2019;  Javed và Wu, 2019;  Ladwein và Romero,  2021;  De Toni, 2018; Lam và cộng sự, 2016;  Suhartanto và cộng sự, 2021...). Mà ý định mua lặp lại được biết đến với vai trò then  chốt trong dự đoán hành vi mua lặp lại, là tiền đề quan trọng trong việc giữ chân khách   hàng và gia tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp (Gupta và Zeithaml, 2006; Wang   và Hsiao, 2012). Nắm bắt được tâm lý này, các nhà bán lẻ có xu hướng sử dụng các tín  hiệu truyền tải thông tin thể  hiện các khía cạnh chất lượng của sản phẩm để  gia tăng  sự tin tưởng và ý định mua lặp lại của khách hàng. Tại Việt Nam, một vài thương hiệu bán lẻ  có kinh doanh rau an toàn nổi tiếng   có thể  kể  đến là Co.op Food, Lotte Mart, VinMart, Bách Hóa Xanh... Những tín hiệu  thường được các nhà bán lẻ  này sử  dụng để  thể  hiện chất lượng sản phẩm như  cách  trưng bày, không gian cửa hàng, thông điệp quảng cáo, giá bán, thông tin trên nhãn dán,   các hoạt động vì cộng đồng... Thông thường, cách sử  dụng gam màu của các thương   hiệu thường tạo nên một tổng thể  thống nhất từ  trang phục nhân viên, trang thiết bị,  biển hiệu,... Điển hình như  VinMart với phông nền nhận diện là màu đỏ, Bách Hóa   Xanh được biết đến với màu xanh lá cây chủ đạo. Việc sử dụng các thông điệp, slogan  quảng bá thường tập trung thể hiện được những khía cạnh chất lượng sản phẩm như  sản phẩm cao cấp đạt tiêu chuẩn Châu Âu, không sử  dụng giống biến đổi gen, rau củ   tươi xanh, đảm bảo tiêu chuẩn VietGap, xuất xứ  rõ ràng... Một số  slogan đã trở  thành  yếu tố  nhận diện thương hiệu của nhà bán lẻ  như  slogan an toàn, tiện lợi, tươi ngon  gắn liền với thương hiệu Co.op Food, slogan  an tâm mua sắm mỗi ngày liên tưởng đến  thương hiệu VinMart. Các nhà bán lẻ  thường chú trọng cách trưng bày, đóng gói sản  phẩm cùng sự sạch sẽ tại cửa hàng nhằm tạo nên không gian mua sắm thoải mái và trải  nghiệm mua sắm thú vị  cho khách hàng. Giá cao cũng được xem là tín hiệu điển hình  thể hiện chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, việc thực hiện những hoạt động chia sẻ  với   cộng đồng ngày càng được các doanh nghiệp lưu tâm. Năm 2020 và năm 2021, thế giới  nói chung và Việt Nam nói riêng đã phải trải qua trận đại dịch Covid­19 mang tính lịch   sử  với những thiệt hại nặng nề  về  tính mạng con người, sự  phát triển kinh tế  và xã  hội. Để đồng hành cùng cộng đồng, các thương hiệu nhà bán lẻ  đã có những động thái  khác nhau như thực hiện những chính sách hỗ trợ tiêu thụ các sản phẩm nông sản sạch  của Co.op Food; ủng hộ  một tấn rau ­ củ  ­ quả  phục vụ người dân của siêu thị  Lotte   Mart hay tiến hành chương trình VinMart tiếp sức tuyến đầu chống dịch  với tổng giá trị  ước tính khoảng 16 tỷ  đồng nhằm ủng hộ vật tư y tế và nhu yếu phẩm đến lực lượng  tuyến đầu chống dịch tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh của chuỗi siêu thị VinMart (Lê  Trần Long, 2021). Như vậy, lựa chọn các tín hiệu phù hợp được xem là bước quan trọng 
  13. 13 trong hoạt động bán hàng của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tín hiệu được truyền tải trong môi trường  luôn biến đổi với thông tin  không hoàn hảo, tín hiệu có thể  bị  làm giả  nhằm đánh lừa người tiêu dùng thông qua  việc truyền tải nội dung sai sự  thật (Heil, 1988) đã tạo nên những khó khăn trong quá  trình tìm hiểu và diễn giải tín hiệu của người tiêu dùng. Việt Nam là đất nước có nền   kinh tế mới chuyển đổi, các quy định, chính sách chưa thực sự hoàn thiện và đang dần  được củng cố. Đây là thị  trường đầu tư  tiềm năng cho những doanh nghiệp biết nắm   bắt thời cơ, xu hướng và khe hổng của thị trường. Song song với đó là những bất cập   về quản lý và kiểm soát thông tin dẫn đến tình trạng thông tin chưa đảm bảo tính minh  bạch và kịp thời, đã tạo nên sự bất cân xứng thông tin rõ nét trong thị trường. Đồng thời,  phần lớn người tiêu dùng Việt vẫn giữ  thói quen mua nông sản tươi  sống tại các chợ  truyền thống bởi sự tiện lợi của chúng (Wertheim­Heck và cộng sự, 2014), cho nên hệ  thống chợ chính thống và chợ tạm trải dài, chiếm ưu thế trong phân phối sản phẩm trở  thành thách thức lớn của các nhà bán lẻ  hiện đại. Cùng với sự  đa dạng về  các yếu tố  nhân khẩu học của khách hàng đã trở thành những rào cản vô hình giảm thiểu hiệu quả  của việc truyền tín hiệu. Hướng đến khắc phục những trở  ngại trên, các nhà bán lẻ  cần bảo đảm chất  lượng của tín hiệu (gọi tắt là chất lượng tín hiệu­ signal quality), bởi nó giúp giảm rủi   ro cảm nhận (Erdem và Swait, 1998), gia tăng chất lượng cảm nhận và là nhân tố  then   chốt để  quá trình truyền tin đạt hiệu quả  cao (Nguyen, 2009).   Như  vậy, để  có chiến  lược phù hợp đối với các sản phẩm rau an toàn, các kiến thức về  mối quan hệ  giữa   chất lượng tín hiệu, sự tin tưởng vào nhà bán lẻ, sự tin tưởng vào sự an toàn của rau an   toàn và ý định mua lặp lại sản phẩm của khách hàng là cần thiết và hữu dụng đối với   các nhà bán lẻ. Bên cạnh đó, việc xem xét có hay không sự  khác nhau giữa các nhóm  khách hàng theo các đặc điểm nhân khẩu học cần được lưu tâm bởi những chính sách   phù hợp cho từng đối tượng sẽ  mang lại hiệu quả  cao hơn trong hoạt động bán hàng  của doanh nghiệp. 1.1.2. Tiềm năng phát triển kinh doanh rau an toàn ở thành phố Hồ Chí  Minh Thị  trường bán lẻ  hiện đại­ kênh phân phối chính thống của mặt hàng rau an  toàn được xem là thị trường tiềm năng tại Việt Nam (Đỗ Nga, 2020). Số lượng các nhà   bán lẻ hiện đại tăng nhanh chóng qua các năm, cung cấp sản phẩm đa dạng đến khách   hàng, góp phần thúc đẩy xu hướng mua hàng phù hợp với sự phát triển của xã hội. Theo   báo cáo ngành bán lẻ  Việt Nam của Q &Me Vietnam Market Research (2020), số lượng   cửa hàng bán lẻ  hiện đại và tốc độ  tăng trưởng của chúng qua các năm là rất cao; đặc   biệt, số lượng cửa hàng tiện lợi từ  năm 2019 đến 2020 tăng khoảng 60%  từ  2.495 lên  5.228 cửa hàng  (Bảng 1.1). Việc mở  rộng số  lượng cửa hàng sẽ  giúp các nhà  bán lẻ  hiện đại có cơ  hội tiếp cận và gia tăng sản lượng rau an toàn được phân phối đến tay   người tiêu dùng. Thành phố Hồ Chí Minh là nơi có tổng số cửa hàng bán lẻ hiện đại lớn nhất cả  nước. Theo Q&Me Vietnam Market Research (2020), tính đến tháng 03 năm 2020, thành  phố  có 95 siêu thị lớn, 26 trung tâm thương mại và 2.048 cửa hàng tiện lợi (Bảng 1.1).   So với cả nước, các cửa hàng tại thành phố Hồ Chí Minh mang thương hiệu Bách Hóa  Xanh chiếm hơn 38%, Satra Foods chiếm 100%, VinMart+ chiếm gần 23%, CoopMart  
  14. 14 chiếm hơn 34%, BigC chiếm khoảng 25%... là những thương hiệu phổ biến kinh doanh   các mặt hàng nông sản sạch nói chung và rau an toàn nói riêng (Bảng 1.1). Cùng sự sôi  động của thị trường bán lẻ hiện đại, thành phố  được biết đến bởi thế  mạnh đông dân  nhất cả nước và là đầu tàu vùng kinh tế trọng điểm khu vực phía Nam. Những điều này   đã tạo cơ  hội cho việc phân phối sản phẩm rau an toàn qua các kênh bán lẻ  hiện đại   trên địa bàn thành phố hứa hẹn nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai.  Do đó, việc lấy bối cảnh không gian thực hiện nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí   Minh là phù hợp và cần thiết. Kết quả  nghiên cứu hướng đến góp phần thúc đẩy sự  phát triển của thị  trường bán lẻ  hiện đại tại thành phố  Hồ  Chí Minh nói riêng và nền   kinh tế Việt Nam trong tương lai nói chung. Bảng 1.1. Tổng hợp số lượng cửa hàng các loại hình bán lẻ hiện đại tại  thành phố Hồ Chí Minh và cả nước đến tháng 03/2020 Cửa Siêu hàng Trung tâm thương mại thị tiện lợi Tên HCM Tổng Tên HCM Tổng Tên HCM Tổng AEON 18 24 7 Eleven 33 33 Vincom 13 77 Citimart Bách Hóa BigC 9 35 463 1.214 AEON Mall 2 5 Xanh Crescent CoopMart 44 128 B’s Mart 109 109 1 1 Mall Emart 1 1 Circle K 212 392 Diamond 1 1 Lanchi Family 0 25 126 147 LotteMart 4 15 Mart Mart Mega 3 19 GS25 54 54 Parkson 2 4 Market Sakuco 3 35 Mini Stop 139 141 Robins 1 2 Satrafoo Takashimay VinMart 16 64 183 183 1 1 ds a SatraMart 1 1 Cheers 39 42 VivoCity 1 1 x x x Vinmart+ 652 2.870 x x x Zakkamar x x x 38 43 x x x t 2.04 Tổng 95 330 Tổng 5.228 Tổng 26 17 8 (Nguồn: Tổng hợp từ Q&Me Vietnam Market Research (2020)) 1.2. Bối cảnh lý thuyết An toàn thực phẩm là khái niệm đã nhận được nhiều sự quan tâm từ thực tiễn và  lý thuyết (Chen, 2008; de Jonge và cộng sự, 2008a, 2008b; Ergönül, 2013; Ngo và cộng  sự, 2020a,b). Theo Grunert (2005), an toàn thực phẩm khách quan thể  hiện rủi ro tiêu   thụ một loại thực phẩm nhất định theo đánh giá của các chuyên gia và nhà khoa học. An   toàn thực phẩm chủ  quan là cảm nhận về  sự  an toàn của thực phẩm trong tâm trí của   người tiêu dùng (Grunert, 2005). Sự khác biệt giữa an toàn sản phẩm khách quan và chủ 
  15. 15 quan là do kiến thức và thông tin của người tiêu dùng bị hạn chế, tình trạng này có thể  được khắc phục bằng cách cung cấp thông tin và giáo dục người tiêu dùng (Grunert,  2005). Điều này đặt ra áp lực buộc các doanh nghiệp cần phải cung cấp thêm các nguồn   thông tin khác nhau để hỗ trợ người tiêu dùng trong việc đưa ra đánh giá về chất lượng   sản phẩm và gia tăng sự tin tưởng của khách hàng về sự an toàn của sản phẩm. Bởi vì,  nhận được sự tin tưởng của khách hàng là điều kiện tiên quyết dẫn đến thành công của   tổ chức (Kim và cộng sự, 2008). Các nghiên cứu trước đã chỉ ra rằng, các tín hiệu gợi ý  chất lượng sản phẩm (gọi tắt là tín hiệu) là nguồn thông tin hiệu quả  và góp phần gia  tăng sự  tin tưởng của khách hàng, đặc biệt là trong bối cảnh thị  trường bất cân xứng  thông tin (Janssen và Hamm, 2012; Ishak và cộng sự, 2016; Le và cộng sự, 2020...). Tuy  nhiên, môi trường thực hiện các tín hiệu luôn biến đổi, đồng thời tín hiệu có thể bị làm  giả nhằm đánh lừa người tiêu dùng thông qua việc truyền tải nội dung sai sự thật (Heil,   1988). Cho nên, việc bảo đảm chất lượng của tín hiệu (gọi tắt là chất lượng tín hiệu) là   cần thiết để quá trình truyền tin đạt hiệu quả cao (Nguyen, 2009). Kết hợp với giá trị thực tiễn như đã phân tích trong bối cảnh thực tế,  nghiên cứu  về  vai trò của chất lượng tín hiệu trong việc xây dựng sự tin tưởng của khách hàng và   thúc đẩy hiệu quả  bán hàng trở  thành nhu cầu cần thiết nhằm hỗ  trợ  cho các doanh   nghiệp trong môi trường thông tin bất cân xứng và phức tạp như hiện nay. Từ nhu cầu   này, luận án xem xét tình hình các nghiên cứu liên quan đến chất lượng tín hiệu, sự tin   tưởng của khách hàng và ý định mua lặp lại tại Việt Nam và trên thế giới. 1.2.1. Nghiên cứu về thành phần chất lượng tín hiệu Chất lượng tín hiệu  (signal  quality/quality of signal) đã được nghiên cứu trong  nhiều lĩnh vực khác nhau và với mỗi điều kiện nghiên cứu, các thành phần của chất  lượng tín hiệu có sự thay đổi nhất định.  Trong lĩnh vực kinh tế học thông tin, Heil và Robertson (1991) đưa ra nhận định,  một tín hiệu có chất lượng khi đảm bảo  tính nhất quán  (consistency),  tính rõ ràng  (clarity) và tính công kích (aggressiveness), đồng thời, danh tiếng (reputation) và cam kết  (commitment) của người gửi tín hiệu cũng được xem xét là các thành phần quan trọng.  Erdem và Swait (1998) đồng ý chất lượng tín hiệu cần đảm bảo nhất quán, rõ ràng và  bổ sung thêm tính tin cậy (credibility). Có kết quả tương tự, Karanges và cộng sự (2018)   cũng đề cập đến ba thuộc tính là tính rõ ràng, tính tin cậy và tính nhất quán. Lại có quan  điểm cho rằng, chất lượng tín hiệu cần hội tụ  5 đặc điểm chính gồm khả  năng quan   sát  (observability),  chi phí  (signal cost),  sự  phù hợp  (fit),  tần  suất  (frequency)  và  tính  nhất quán (Connelly và cộng sự, 2011). Bỏ qua yếu tố chi phí và tính nhất quán, Dixon   (2017)   tập   trung   vào  sự  phù  hợp,  độ   mạnh   của   tín   hiệu/   tính   dễ   phát   hiện  (signal  strength) và tần suất của tín hiện. Trong lĩnh vực chứng khoán, Gao và cộng sự (2008) và Deb (2013) đều cho rằng,  hai yếu tố cơ bản tạo nên chất lượng tín hiệu là tính rõ ràng và tính nhất quán. Ngoài  ra, các thành phần quan trọng khác được đề  cập đến là   cường độ  (intensity)  (Gao và  cộng   sự,   2008)   hoặc  khả   năng   chứng   nhận  (certifiability),  khả   năng   nhận   diện  (visibility) và chi phí tín hiệu (Deb, 2013). Phát triển trong lĩnh vực thương mại điện tử,  các nghiên cứu đề  cao các yếu tố  về   tính phong phú  (richness),  khả  năng tương tác  (interactivity) (Sukoco và Wu, 2011; Huang và cộng sự, 2013), tính chi phí (costly), tính  dễ   xác   nhận  (easy­to­verify)   (Mavlanova   và   cộng   sự,   2012).   Ngoài   ra,   Naujoks  và 
  16. 16 Benkenstein (2020)  cho rằng bên cạnh việc đảm bảo  nhiều  thông tin (informative) thì  một tín hiệu có chất lượng cần phải   đáng  tin cậy  (reliable),  rõ  ràng  (clear),  cụ  thể  (specific), kỹ lưỡng (elaborate) và minh bạch (explicit). Ngoài các lĩnh vực trên, nghiên  cứu của Janney và Folta (2006) được thực hiện trong lĩnh vực công nghệ  sinh học tập  trung xem xét các yếu tố  liên quan đến việc  có thể  quan sát được (observable), không   thể thay đổi (irreversible), được quản lý (governed) và đáng tin cậy (credible). Như  vậy, trên thế  giới, chất lượng tín hiệu thường được xây dựng trong lĩnh   vực kinh tế  học thông tin (Heil và Robertson, 1991; Erdem và Swait, 1998; Karanges và   cộng sự; 2018; Connelly và cộng sự, 2011; Dixon, 2017), lĩnh vực chứng khoán (Gao và  cộng sự, 2008; Deb, 2013; Sukoco và Wu, 2011; Huang và cộng sự, 2013; Mavlanova và   cộng sự, 2012; Naujoks và Benkenstein, 2020), lĩnh vực công nghệ  sinh học (Janney và  Folta, 2006). Tại Việt Nam, rất ít nghiên cứu xác định các thành phần chất lượng tín hiệu.   Một số  nghiên cứu điển hình có thể  kể  đến được thực hiện trong lĩnh vực giáo dục   (Nguyen, 2009;  Dang và Nguyen, 2021) và thương mại xuất – nhập khẩu (Nguyen và   cộng sự, 2014) đều thống nhất rằng tín hiệu có chất lượng khi đảm bảo tính tin cậy,  tính nhất quán và tính rõ ràng. Qua phần lược khảo trên cho thấy, chất lượng tín hiệu là biến thể được tạo nên   từ  nhiều thành phần khác nhau, chưa có sự  thống nhất, thay đổi theo bối cảnh nghiên  cứu và hầu hết các nghiên cứu được thực hiện tại các nước phát triển, trong các lĩnh  vực khác nhau mà chưa nghiên cứu trong lĩnh vực thực phẩm an toàn. Việc xác định các   yếu tố  cấu thành chất lượng tín hiệu trong lĩnh vực thực phẩm là nhu cầu được gợi   mở, có thể được xem là điểm đóng góp mới vào lý thuyết, đặc biệt là tại các nước đang   phát triển. 1.2.2. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa chất lượng tín hiệu và sự tin  tưởng Các tín hiệu như:  nhãn và chứng nhận (Janssen và Hamm, 2012; Ishak và cộng  sự, 2016; Liang, 2016; Le và cộng sự, 2020), xuất xứ, đặc điểm bên ngoài sản phẩm và  đóng gói, thông tin nhà sản xuất  (Ishak và cộng sự,  2016;  Le và cộng sự, 2020),  nhãn  hữu cơ  (Samant và Seo, 2016),  chủng loại, hạn sử  dụng, phương pháp sản xuất, tình  trạng khi mua, thời gian giao hàng, xếp hạng tình trạng bán sản phẩm của nhà bán lẻ  (Sigurdsson   và   cộng   sự,   2020),  giá,   đánh   giá   về   sản   phẩm   từ   người   mua   khác   (Sigurdsson và cộng sự, 2020;  Le và cộng sự, 2020)... đã được chỉ  ra là giúp  giảm sự  không chắc chắn, rút ngắn khoảng cách bất cân xứng thông tin giữa người mua và  người bán. Xuất phát từ  những khó khăn trong quá trình diễn giải tín hiệu, các nghiên cứu   đã tiếp cận khái niệm chất lượng tín hiệu và khẳng định vai trò quan trọng của nó trong  thị  trường thông tin không cân xứng. Một số  nghiên cứu đã đưa ra bằng chứng về  sự  liên hệ giữa các thành phần riêng lẻ của chất lượng tín hiệu và sự tin tưởng (Huang và  cộng sự, 2013; Punyatoya, 2018; Anisimova và cộng sự, 2017;  Busser và Shulga, 2019;  Ngo và cộng sự, 2020b). Cụ  thể,  Huang và cộng sự  (2013)  thực hiện trong  bối cảnh  thương mại điện tử  tại Trung Quốc đã  khảo  sát 245 khách hàng và chứng minh rằng  mức   độ   phong   phú   của   thông   tin   về   sản   phẩm   và   giá   (product/   price   information  richness)  có tác  động tích cực  đến sự  tin tưởng của khách hàng  đối với trang web  
  17. 17 thương mại. Đi sâu khám phá ảnh hưởng của tính tin cậy­ thuộc tính được xem là quan   trọng nhất của của chất lượng tín hiệu (Erdem và Swait, 1998), Punyatoya (2018) vận  dụng lý thuyết tín hiệu trong thị  trường tiêu dùng trực tuyến tại  Ấn Độ  đã khẳng định   tính tin cậy của nhà bán lẻ trực tuyến (online retailer credibility) có mối quan hệ dương   với sự  tin tưởng của khách hàng. Ngược lại, một vài nghiên cứu xem xét những thành   phần khác của chất lượng tín hiệu mà không đề  cập đến tính tin cậy (Anisimova và   cộng sự, 2017; Busser và Shulga, 2019). Anisimova và cộng sự (2017) được thực hiện tại  thị  trường thực phẩm hữu cơ   ở  Úc với bộ  dữ  liệu từ  1.010 khách hàng đã đưa ra kết   luận rằng cảm nhận về  sự  rõ ràng của truyền thông  (communication clarity) có tác  động tích cực đến sự  tin tưởng vào thực phẩm hữu cơ. Tại thị  trường Mỹ,  Busser và  Shulga (2019) khảo sát 492 khách hàng trong lĩnh vực dịch vụ quán cà phê đã chỉ ra rằng,   tính minh bạch của tổ  chức (organizational transparency) và tính xác thực thương hiệu  (brand authenticity) giúp thúc đẩy sự tin tưởng của khách hàng. Theo đó, tính minh bạch  của tổ chức và tính xác thực thương hiệu được tiếp cận theo hướng lý thuyết tín hiệu   có thể xem tương đương với tính rõ ràng và tính nhất quán của tín hiệu và chúng được  đo lường tách rời (Busser và Shulga, 2019). Như vậy, trên thế giới, một số nghiên cứu tập trung chủ yếu tại các quốc gia có  nền kinh tế phát triển đã kiểm định ảnh hưởng của các thành phần riêng lẻ tạo nên chất  lượng tín hiệu trong việc gia tăng sự tin tưởng của khách hàng như: mức độ phong phú  của   thông   tin   (Huang   và   cộng   sự,   2013),   tính   tin   cậy   của   nhà   bán   lẻ   trực   tuyến  (Punyatoya, 2018), sự rõ ràng của truyền thông (Anisimova và cộng sự, 2017) hoặc tính   rõ ràng (tương đương tính minh bạch của tổ chức) và tính nhất quán (tương đương tính   xác thực thương hiệu) (Busser và Shulga, 2019). Tuy nhiên, mối quan hệ giữa tổng thể  khái niệm chất lượng tín hiệu đến các loại tin tưởng cụ  thể  (ví dụ: sự  tin tưởng vào  nhà bán lẻ và sự tin tưởng vào sự an toàn của sản phẩm) chưa được quan tâm. Tại Việt Nam, Ngo và cộng sự  (2020b)­ nghiên cứu được thực hiện trong thị  trường rau an toàn, là nghiên cứu có đề cập đến một khía cạnh của chất lượng tín hiệu   trong mối quan hệ với sự tin tưởng. Ngo và cộng sự (2020b) sử dụng bộ dữ liệu từ việc   khảo sát 361 khách hàng đã chỉ ra rằng tính tin cậy của thương hiệu (brand credibility)   có tác động tích cực đến sự tin tưởng vào thương hiệu sản phẩm đó (brand trust). Tính   tin cậy của thương hiệu được đo lường bởi độ  tin cậy của những thông tin về  sản  phẩm (Ngo và cộng sự, 2020b). Nghiên cứu này chỉ  đo lường  ảnh hưởng của tính tin   cậy mà bỏ  qua các thành phần khác của chất lượng tín hiệu (như  tính nhất quán, rõ   ràng...). Đồng thời, sự tin tưởng được đề  cập là tin tưởng thương hiệu mà không phải  là tin tưởng vào sự an toàn của sản phẩm và nhà bán lẻ. Như vậy, từ việc tổng quan các nghiên cứu tại Việt Nam và trên thế giới có thể   đưa đến kết luận rằng chưa tìm thấy nghiên cứu nào đo lường ảnh hưởng của tổng thể   các thành phần tạo nên chất lượng tín hiệu đến sự  tin tưởng của khách hàng vào nhà   bán lẻ  và sự  tin tưởng vào sự  an toàn của sản phẩm. Do vậy, luận án sẽ  tiến hành   nghiên cứu các mối quan hệ này để bổ sung vào cơ sở lý thuyết. 1.2.3. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa chất lượng tín hiệu và ý định mua  lặp lại Đã có một số  nghiên cứu cung cấp các bằng chứng liên quan đến mối quan hệ  giữa chất lượng tín hiệu và ý định mua lặp lại, tuy nhiên các nghiên cứu chủ yếu được  
  18. 18 thực hiện trong lĩnh vực thương mại điện tử, thường tập trung vào chất lượng của một  tín hiệu cụ thể và bỏ qua vai trò của tính nhất quán. Fang và cộng sự (2014) nghiên cứu  362 khách hàng tại Mỹ  khẳng định chất lượng trang web dễ  sử  dụng, dễ  phát hiện   thông tin và dễ  hiểu giúp gia tăng ý định mua lặp lại của khách hàng. Các nghiên cứu   khác xem xét chất lượng trang web đảm bảo dễ hiểu, hữu ích thông tin, thiết kế trang   web dễ sử dụng, bảo mật quyền riêng tư, dễ đặt hàng và tùy chỉnh (Tandon và cộng sự,  2017­ nghiên cứu 410 khách hàng tại Ấn Độ), chất lượng trang web dễ tìm kiếm, đầy đủ  thông tin, dễ sử dụng (Pee và cộng sự, 2018­ nghiên cứu 213 khách hàng tại Đài Loan) là   các  biến nguyên nhân hình thành ý định mua lặp lại. Matute và cộng sự  (2016) khẳng   định các khía cạnh của truyền miệng trực tuyến, cụ thể là số  lượng, chất lượng  (đầy  đủ, chính xác, đúng thời điểm, phù hợp) và tính tin cậy của các đánh giá của người mua   trước có tác động tích cực đến ý định mua lặp lại của khách hàng. Tập trung vào tính tin   cậy, Erkan và Evans (2016) khảo sát 362 sinh viên tại Anh đã chứng minh chất lượng  thông tin (rõ ràng, dễ hiểu) và tính tin cậy của nguồn thông tin được chia sẻ bởi bạn bè  trên mạng xã hội có tác động gián tiếp đến ý định mua lặp lại sản phẩm.  Leischnig và  cộng sự (2012) cho rằng tính tin cậy của thương hiệu đóng vai trò quan trọng trong việc   gia tăng ý định mua lặp lại của khách hàng tại Đức.  Hsieh và Li (2020) khẳng định độ  tin cậy của nguồn đánh giá có tác động tích cực đến ý định quay lại để tiếp tục mua sản   phẩm. Ngược lại với xu hướng tác động của các nghiên cứu trên, Yeo và cộng sự  (2021) ­ nghiên cứu tại Malaysia, khẳng định không tồn tại mối quan hệ  giữa chất   lượng thông tin được trình bày trên app bán thực phẩm và ý định mua lặp lại của khách  hàng. Tại Việt Nam, đã có nghiên cứu tiếp cận mối quan hệ có sự  liên quan đến chất   lượng tín hiệu và ý định mua lặp lại (Nguyen và cộng sự, 2021). Theo đó, Nguyen và  cộng sự (2021) đã khảo sát 597 cá nhân đã có trải nghiệm mua hàng trực tuyến và đưa ra   kết luận, chất lượng thông tin (information quality) có tác động tương hỗ  với ý định   mua lặp lại. Chất lượng thông tin đề cập đến sự chính xác, đầy đủ, dễ hiểu và kịp thời  của các thông tin về sản phẩm được thể hiện trên trang web (Nguyen và cộng sự, 2021).  Nghiên cứu này được thực hiện trong lĩnh vực thương mại điện tử, chất lượng thông tin  chỉ bao gồm những thông tin được cung cấp trên trang web mua sắm, tính nhất quán của   thông tin và nhất quán trong các hoạt động tiếp thị của doanh nghiệp chưa được đề cập.  Tóm lại, các nghiên cứu chủ yếu thực hiện đối với phương thức mua hàng trực   tuyến, tập trung vào chất lượng của một tín hiệu cụ  thể như  trang web (Fang và cộng   sự, 2014; Tandon và cộng sự, 2017; Pee và cộng sự, 2018) hoặc đánh giá của khách hàng  cũ tại trang web (Matute và cộng sự, 2016) hoặc thông tin từ  bạn bè (Erkan và Evans,  2016) hoặc thông tin được trình bày trên trang mua sắm (Nguyen và cộng sự, 2021; Yeo   và cộng sự, 2021). Trong đó, yếu tố  nhất quán không được các nghiên cứu quan tâm.  Hiện nay, chưa phát hiện nghiên cứu nào có kiểm định  ảnh hưởng của tổng thể  các   thành phần tạo nên chất lượng tín hiệu và ý định mua lặp lại của khách hàng, đặc biệt   là đối với phương thức mua bán trực tiếp tại các quốc gia đang phát triển. Trong đó,  chất lượng tín hiệu được đề  cập là chất lượng của tất cả  các tín hiệu thể  hiện chất   lượng sản phẩm nói chung được khách hàng sử  dụng trong suốt quá trình mua. Như   vậy, mối quan hệ giữa chất lượng tín hiệu và ý định mua lặp lại cần được kiểm định và   nghiên cứu thêm. 1.2.4. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa sự tin tưởng vào nhà bán lẻ và sự 
  19. 19 tin tưởng vào sự an toàn của thực phẩm Theo lý thuyết chuyển giao sự tin tưởng (Trust Transfer Theory), sự tin tưởng là  một khái niệm đa thành phần và nó có thể được chuyển giao từ đối tượng này sang đối   tượng khác, khi giữa các đối tượng có mối liên kết nhất định (Stewart, 2003). Trong lĩnh  vực tiêu dùng, nhà bán lẻ là một thành phần quan trọng trong chuỗi cung ứng sản phẩm,   do đó, nhà bán lẻ và sản phẩm được bày bán trong cửa hàng có mối liên kết chặt chẽ. Các nghiên cứu của De Jong và cộng sự (2008a); Guenzi và cộng sự (2009); Chen  (2013); Beck và Kenning (2015); Ayyub và cộng sự  (2018) và Ngo và cộng sự  (2020a);  Wang  và  cộng  sự   (2021) là  những  nghiên  cứu  liên  quan  mật  thiết   đến hiện  tượng  chuyển giao sự  tin tưởng đối với hai thực thể  là nhà bán lẻ  và sản phẩm. Các nghiên  cứu chủ yếu sử dụng mô hình cấu trúc tuyến tính (structural equation modeling – SEM),  trừ  Guenzi và cộng sự  (2009), Chen (2013) sử  dụng phương pháp PLS hay Beck và  Kenning (2015) sử  dụng phương pháp hồi quy. Dựa vào mối quan hệ  nhân quả, các   nghiên cứu tiếp cận mối quan hệ giữa hai đối tượng này theo hai hướng chính. Hướng   tiếp cận thứ nhất cho rằng sự tin tưởng vào nhà bán lẻ  là biến phụ  thuộc, bị tác động  bởi sự  tin tưởng vào sản phẩm (Guenzi và cộng sự, 2009); Và ngược lại, hướng tiếp  cận thứ hai cho rằng sự tin tưởng vào nhà bán lẻ (hoặc khái niệm liên quan) có tác động  dương đến các khái niệm liên quan với sự  tin tưởng vào sản phẩm (de Jonge và cộng   sự, 2008a; Chen, 2013; Beck và Kenning, 2015; Ayyub và cộng sự, 2018; Ngo và cộng sự,  2020a; Wang và cộng sự, 2021). Đối với các nghiên cứu tiếp cận theo hướng thứ  nhất, sự  tin tưởng vào sản   phẩm giúp gia tăng sự  tin tưởng vào nhà bán lẻ  thường được xem xét đối với các  thương hiệu sản phẩm cụ  thể. Guenzi và cộng sự (2009) khảo sát 393 khách hàng tại  thị  trường Ý có thể  xem là nghiên cứu điển hình. Kết quả  nghiên cứu khẳng định khi  khách hàng tin tưởng vào sản phẩm mang thương hiệu cửa hàng có tác động tích cực   đến sự  tin tưởng đối với cửa hàng bán lẻ  (Guenzi và cộng sự, 2009). Do đó, bản chất  của mối quan hệ này chứa đựng tính thương hiệu.  Ngược lại, các nghiên cứu thuộc hướng tiếp cận thứ hai thường xem xét các sản  phẩm nói chung và bỏ qua yếu tố về thương hiệu. De Jonge và cộng sự (2008a) đã mô  hình hóa các yếu tố tác động đến sự tự tin vào sự an toàn của thực phẩm  (confidence in  the safety of food) thông qua khảo sát số lượng lớn người tiêu dùng tại hai quốc gia là  Hà Lan và Canada (1.136 người). Kết quả nghiên cứu khẳng định, sự tin tưởng vào nhà  bán lẻ (dựa trên đánh giá về năng lực, sự trung thực và quan tâm đến lợi ích xã hội) có   tác động tích cực đến sự tự tin vào sự an toàn của thực phẩm. Sự tự tin vào sự an toàn   của thực phẩm được đo lường theo hai khía cạnh là sự lạc quan ­ sự bi quan và hai khía   cạnh này không loại trừ lẫn nhau mà có thể cùng tồn tại (de Jonge và cộng sự, 2008a). Kế thừa và phát triển nghiên cứu của de Jonge và cộng sự (2008a), Chen (2013)  và Wang và cộng sự (2021) cùng xem xét vai trò của sự tin tưởng vào nhà bán lẻ  trong  việc gia tăng nhận thức về  sự an toàn của thực phẩm (perceptions of food safety). Các  nghiên cứu này đều tiếp cận khái niệm sự tin tưởng vào nhà bán lẻ trên ba khía cạnh là   năng lực, sự trung thực và sự quan tâm lợi ích xã hội (de Jonge và cộng sự, 2008a;  Chen,  2013; Wang và cộng sự, 2021). Chen (2013) tiến hành kiểm định thực tiễn đối với năm  danh mục thực phẩm chế  biến khác nhau (dầu ăn, sản phẩm đậu, thực phẩm đã nấu   chín, sản phẩm từ sữa và thực phẩm cho trẻ sơ sinh) tại thị trường Trung Quốc, trong  
  20. 20 khi Wang và cộng sự (2021) thực hiện trong bối cảnh tiêu dùng thực phẩm tươi sống có   truy xuất nguồn gốc tại thị trường Đài Loan. Các nghiên cứu đều khẳng định khi khách   hàng tin tưởng vào nhà bán lẻ, họ sẽ nhận thức chất lượng  thực phẩm là an toàn. Mức  độ tác động trong kết quả của hai nghiên cứu thể hiện rõ sự khác biệt. Chen (2013) cho  thấy hệ số tác động của mối quan hệ này rất thấp (β= 0,09), ngược lại, Wang và cộng   sự  (2021) lại khẳng định  ảnh hưởng rõ ràng giữa hai khái niệm (β= 0,28) và phản ánh   sự tin tưởng vào nhà bán lẻ là nhân tố có tác động mạnh nhất đến nhận thức sự an toàn  của thực phẩm so với sự tin tưởng vào các thành phần khác (chính phủ, tổ chức chứng   nhận, nhà sản xuất). Cũng nghiên cứu trong lĩnh vực thực phẩm tại thị trường Trung Quốc, Ayyub và  cộng sự  (2018)  khảo sát dữ  liệu từ  420 khách hàng khẳng định  mối quan hệ  tích cực  giữa sự tin tưởng vào nhà bán lẻ đến sự tin tưởng vào thực phẩm hữu cơ. Khái niệm sự  tin tưởng vào thực phẩm hữu cơ được tiếp cận theo hướng khác biệt, không phải là sự  tin tưởng đơn thuần vào chất lượng của sản phẩm  mà  nó  được  đo lường bởi sự  tin  tưởng của người tiêu dùng vào các vấn đề  liên quan đến ngành thực phẩm hữu cơ như  tổ chức chứng nhận, ngành công nghiệp thực phẩm, logo, nhãn dán hữu cơ... (Ayyub và  cộng sự,  2018). Như  vậy, sự  tin tưởng vào thực phẩm hữu cơ   ở  đây thể  hiện sự  tin  tưởng vào ngành công nghiệp thực phẩm hữu cơ chứ không phải tin vào sự an toàn của   sản phẩm hữu cơ đơn thuần. Đi sâu vào nghiên cứu một thành phần của sự tin tưởng­ cụ thể là sự trung thực,  Beck và Kenning (2015) đã chứng minh tồn tại mối quan hệ giữa  sự trung thực của nhà   bán lẻ được cảm nhận (perceived trustworthiness of the retailer) và  sự  trung thực của   sản phẩm được cảm nhận  (perceived trustworthiness of the product) trong thị  trường  nước Đức. Nghiên cứu có hạn chế là chỉ kiểm định một khía cạnh của sự tin tưởng, cỡ  mẫu nhỏ  (142 quan sát), việc đánh giá dựa trên việc trình chiếu hình  ảnh từng sản  phẩm, gồm 7 sản phẩm mới mang nhãn hiệu giả tưởng chưa có mặt trên thị trường. Do   vậy, cảm xúc, sự  gắn kết và trải nghiệm của khách hàng đối với các sản phẩm này  không được xem xét. Trên thế  giới, các nghiên cứu đã cung cấp các bằng chứng về   ảnh hưởng tích  cực của sự tin tưởng vào nhà bán lẻ đến các khái niệm có liên quan với sự tin tưởng vào   sản phẩm như  sự  tự  tin vào sự  an toàn của thực phẩm (de Jonge và cộng sự, 2008a),   hoặc nhận thức về  sự  an toàn của thực phẩm (Chen, 2013; Wang và cộng sự, 2021).  Ayyub và cộng sự (2018) đã chỉ ra mối quan hệ trực tiếp giữa sự tin tưởng vào nhà bán  lẻ và sự tin tưởng vào thực phẩm hữu cơ, nhưng bản chất khái niệm sự  tin tưởng vào  thực phẩm hữu cơ là tin tưởng vào ngành công nghiệp thực phẩm hữu cơ như đã phân  tích ở trên. Do vậy, mối quan hệ giữa sự tin tưởng vào nhà bán lẻ  và sự  tin tưởng vào   sự an toàn của thực phẩm chưa thực sự được làm rõ bởi các nghiên cứu trước. Và các  nghiên cứu chủ yếu được thực hiện ở các nước phát triển.  Tại Việt Nam, các nghiên cứu về  chuyển giao sự  tin tưởng đang còn hạn chế,  Ngo và cộng sự (2020a) là nghiên cứu hiếm hoi xem xét mối quan hệ  tương quan giữa   khái niệm sự  tin tưởng vào hệ  thống cung  ứng nói chung (gồm nhà bán lẻ, nông dân,  chính phủ) đến sự  tin tưởng vào sự  an toàn của rau an toàn. Khác với các nghiên cứu   trên, Ngo và cộng sự (2020a) khảo sát 361 khách hàng đã tiếp cận chất lượng sản phẩm   theo hướng niềm tin của khách hàng, cho nên sự  tin tưởng vào sự  an toàn của rau an   toàn được xem là kỳ vọng rau an toàn an toàn để ăn. Kết quả nghiên cứu không hỗ trợ 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2