intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nâng cao hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:208

93
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án hệ thống hoá và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về Ngân hàng Trung ương và hoạt động của các Ngân hàng thương mại; hiệu quả quản lý của Ngân hàng Trung ương đối với hoạt động của các NHTM; phân tích thực trạng hoạt động của Ngân hàng Trung ương, các Ngân hàng thương mại; hiệu quả quản lý của NHNN đối với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam thời gian qua; chỉ ra các tồn tại, hạn chế ảnh hưởng đến hoạt động an toàn, bền vững của các NHTM.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nâng cao hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam

  1. 1 LỜI NÓI ĐẦU 1- Tính cấp thiết của đề tài Trong hơn 25 năm qua, hoạt động của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam (NHTMVN) đã có những đóng góp đáng kể vào quá trình đổi mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hoạt động của các NHTM không chỉ tiếp tục khẳng định là một kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế, mà còn góp phần ổn định sức mua đồng tiền, cung cấp ngày càng đa dạng phong phú các dịch vụ hiện đại tiện ích cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong nền kinh tế. Đến nay, vốn cung ứng cho nền kinh tế chủ yếu do các NHTM đáp ứng, theo tính toán của một số chuyên gia kinh tế tổng tài sản của hệ thống lên tới khoảng 140% GDP. Cùng với quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, hệ thống các NHTM cũng được cơ cấu lại, số lượng các NHTM VN đã tăng lên. Tính đến cuối năm 2013, có 5 NHTM Nhà nước (trong đó có 4 NHTM đã được cổ phần hóa đó là : Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - VCB, Ngân hàng Công thương Việt Nam - Vietinbank, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - BIDV và Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long - MHB), 34 NHTMCP, 4 ngân hàng liên doanh, 5 ngân hàng có 100% vốn nước ngoài và 50 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Về mạng lưới hoạt động trong cả nước hiện nay, các NHTM NN và NHTMCP đang dẫn đầu so với NHLD và ngân hàng nước ngoài. Hệ thống các ngân hàng nước ngoài chiếm số lượng nhỏ về đầu mối mạng lưới hoạt động, cho thấy còn đang thăm dò thị trường và sẽ mở rộng phát triển trong tương lai. Hiện có 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài với 14 chi nhánh tại các tỉnh, thành phố lớn trên cả nước.
  2. -2- Bên cạnh các kết quả đạt được nói trên hoạt động của các NHTM Việt Nam, cũng còn các tồn tại, hạn chế : tỷ lệ nợ xấu và nợ quá hạn trên tổng dư nợ tăng mạnh; tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu ở một số NHTM chưa đảm bảo theo quy định; tình hình thanh khoản ở một số NHTM có thời điểm còn căng thẳng; tình trạng cạnh tranh chưa lành mạnh giữa các NHTM ngày càng gay gắt; hoạt động còn tiềm ẩn nguy cơ bất ổn, rủi ro có thể xảy ra khi môi trường kinh tế - xã hội trong và ngoài nước biến động bất thường; vấn đề sở hữu chéo giữa các ngân hàng và ngân hàng, giữa ngân hàng và DN… Các tồn tại, hạn chế nói trên do các nguyên nhân khách quan và chủ quan. Ngoài nguyên nhân từ phía bản thân các NHTM (hoạt động quản trị, điều hành còn hạn chế; hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi; ý thức tuân thủ của không ít NHTM chưa cao….) còn có nguyên nhân từ hoạt động quản lý đối với hoạt động của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Mặt dù hoạt động quản lý, giám sát của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các cơ quan có thẩm quyền đối với hoạt động của các NHTM thời gian qua đạt được nhiều thành tích đáng kể, nhưng cũng còn một số bất cập. Để góp phần thúc đẩy các NHTM hoạt động an toàn, lành mạnh, làm tốt vai trò trung gian tài chính, đẩy mạnh huy động nguồn vốn để cung ứng vốn cho nền kinh tế, cần thiết nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước nói chung, trong đó có vai trò quản lý, giám sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN) đối với hoạt động của các NHTM. Xuất phát từ các lý do nói trên, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu : “Nâng cao hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam”.
  3. -3- 2- Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài * Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước - Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về việc quản lý, giám sát hiệu quả của Ngân hàng Trung ương (NHTW) đối với hoạt động của các NHTM, tuy nhiên đều dưới các dạng tài liệu mang tính lý thuyết, chưa gắn với điều kiện thực tế ở Việt Nam. - Đối với nghiên cứu về mô hình quản lý, giám sát của Ngân hàng Trung ương đối với hoạt động của các NHTM : + Để ủng hộ cho mô hình Ngân hàng Trung ương giám sát ngân hàng, các nhà nghiên cứu đưa ra các lý do sau : -> An toàn, lành mạnh và ổn định hệ thống. Thứ nhất là tiếp cận thông tin. NHTW cần có thông tin chính xác và kịp thời về tình trạng và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng như là điều kiện tiên quyết cho việc xây dựng CSTT. Hơn nữa, NHTW cần tiếp cận thông tin về tình trạnh thanh khoản của các ngân hàng để thực hiện chức năng của người cho vay cuối cùng. Ðặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng tài chính, có thông tin kịp thời là hết sức quan trọng vì nó hỗ trợ kịp thời cho NHTW ra quyết định (kết quả nghiên cứu của : Haubrich, 1996; Peek, Rosenren và Tootle, 1999). Thứ hai là tính độc lập. Theo Giddy (1994), Abrams và Taylor (2001), sự độc lập của cơ quan giám sát cho phép họ thực thi hành động. Và những hành động đó là cần thiết cho hệ thống giám sát ngân hàng hiệu quả. Ðặc biệt trong một số nền kinh tế mới nổi và chuyển dịch, theo Taylor (2001, trang 28), thì việc uỷ thác cho NHTW vai trò giám sát ngân hàng là cần thiết để tránh chính trị hoá quy định ngân hàng”. -> Chi phí cho các cơ quan thanh tra giám sát. Theo Abrams và Taylor (2001), NHTW có lợi thế so sánh trong việc tuyển dụng và giữ
  4. -4- chân đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp do chính sách đãi ngộ tốt cũng như môi trường chuyên nghiệp để phát triển. + Những lập luận không ủng hộ việc Ngân hàng Trung ương đảm nhận chức năng giám sát ngân hàng : -> An toàn, lành mạnh và ổn định hệ thống. Thứ nhất là xung đột lợi ích. Theo Goodhart và Schoenmaker (1995), trong trường hợp NHTW vừa đảm nhiệm vai trò giám sát ngân hàng vừa điều hành CSTT, nó có thể mở rộng CSTT quá mức để tránh ảnh hưởng lên lợi nhuận và chất lượng tín dụng. Thứ hai là rủi ro danh tiếng. Nếu NHTW chịu trách nhiệm giám sát ngân hàng và vụ phá sản ngân hàng xảy ra thì CSTT của NHTW cũng sẽ bị ảnh hưởng theo (Haubrich, 1996; Brianlt, 1999). Thứ ba là tiếp cận thông tin. Theo Haubrich (1996), trường hợp NHTW không đảm nhận vai trò giám sát ngân hàng mà chuyển chức năng này sang cho một cơ quan khác thì NHTW vẫn có thể có được thông tin kịp thời và chính xác thông qua các thoả thuận chia sẻ thông tin. Ngoài ra, việc tách bạch vai trò giám sát và điều hành CSTT có thể mang đến lợi ích từ sự “cạnh tranh ý tưởng”. Thứ tư là sự độc lập. Nếu NHTW kiêm luôn vai trò giám sát ngân hàng thì việc tập trung nhiều quyền lực thường dễ đe doạ tính độc lập của nó bởi sự can thiệp chính trị. Một số nghiên cứu thực nghiệm ủng hộ cho việc nên tách bạch NHTW ra khỏi chức năng giám sát ngân hàng. Ðiển hình như các nhà nghiên cứu Goodhart và Schoenmaker (1995), hai tác giả tìm thấy rằng việc chống lạm phát sẽ tốt hơn nhiều nếu NHTW được độc lập với vai trò giám sát ngân hàng. Ngoài ra, Miller và Schmidt (2002) sử dụng dữ liệu của hệ thống ngân hàng Mỹ để kiểm tra giả thuyết rằng NHTW với việc truy cập cơ sở dữ liệu mật về giám sát có thể nâng cao khả năng dự báo và do đó tăng cường nổ lực CSTT. Nghiên cứu chỉ ra rằng không có bằng chứng thực nghiệm nào ủng hộ cho cái gọi là “truy cập thông tin”.
  5. -5- Trái ngược với một số lập luận trên, một số nghiên cứu thực nghiệm khác lại ủng hộ cho sự kết hợp giữa NHTW và giám sát ngân hàng. Peek, Rosengren và Tootle (1999) tìm thấy rằng tiếp cận thông tin kịp thời giúp tăng cường tính chính xác khả năng dự báo tình hình kinh tế vĩ mô của NHTW. Ngoài ra, Goodhart và Schoenmaker (1995) sử dụng dữ liệu của 104 ngân hàng phá sản trong 24 nước trong suốt thập kỷ 1980 và tìm thấy rằng chỉ số ít ngân hàng bị phá sản trong những nước mà CSTT và giám sát ngân hàng đều do NHTW đảm nhận. [13] Các nghiên cứu nói trên về mô hình quản lý, giám sát của Ngân hàng Trung ương đối với hoạt động của các NHTM cho thấy khoảng trống trong nghiên cứu là chưa đưa ra được mô hình thể chế quản lý, giám sát hoàn hảo, lý tưởng cho toàn thế giới. - Về “25 nguyên tắc cơ bản về giám sát hệ thống ngân hàng hiệu quả” của Uỷ ban Basel (Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng - Basel Committee on Banking supervision – BCBS, được thành lập bởi một nhóm các NHTW và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ) đưa ra, dựa trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm của các nước trên toàn cầu. Nhằm tạo điều kiện phổ biến kinh nghiệm quốc tế và đúc kết lại thành 25 nguyên tắc cơ bản trong việc giám sát hoạt động ngân hàng hiệu quả. Nội dung gồm 25 nguyên tắc cơ bản và được chia thành 7 nhóm sau : (Nhóm 1) Nguyên tắc 1 : Các tiền đề để giám sát ngân hàng hiệu quả; (Nhóm 2) Các nguyên tắc 2 - 5 : Cấp phép và cơ cấu; (Nhóm 3) Các nguyên tắc 6 - 15 : Quy chế và yêu cầu về giám sát thận trọng; (Nhóm 4) Các nguyên tắc 16 - 20 : các phương pháp giám sát ngân hàng liên tục; (Nhóm 5) Nguyên tắc 21 : các yêu cầu về thông tin; (Nhóm 6) Nguyên tắc 22: quyền lực của thanh tra ngân hàng; (Nhóm 7) Các nguyên tắc 23 - 25: hoạt động thanh tra ngân hàng xuyên quốc gia.
  6. -6- Mục tiêu của Ủy ban là thu hẹp khoảng cách giám sát quốc tế trên hai nguyên lý cơ bản là : (1) không ngân hàng nước ngoài nào được thành lập mà thoát khỏi sự giám sát; và (2) việc giám sát phải tương xứng. Trong số 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát hệ thống ngân hàng hiệu quả nói trên, hiện nay Việt Nam chỉ mới đáp ứng một số nguyên tắc, số còn lại chưa được nghiên cứu áp dụng. * Tình hình nghiên cứu ở trong nước Ở trong nước, giai đoạn trước đây nước ta chưa hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, cũng đã có các công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà nước trên các lĩnh vực : tiền tệ, tín dụng, Quỹ tín dụng Nhân dân, thị trường chứng khoán, thương mại, bảo hiểm, các Tổng công ty ….; nhưng chưa có công trình nghiên cứu về quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với các hoạt động của các NHTM ở Việt Nam kể từ sau giai đoạn nước ta hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực (từ đầu năm 2007). - Đề tài nghiên cứu khoa học của Trần Đình Ty và Nguyễn Văn Cường “Quản lý nhà nước đối với tiền tệ, tín dụng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, đã cung cấp những vấn đề lý luận cơ bản, chỉ ra mặt được và hạn chế về tiền tệ, tín dụng ở Việt Nam, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước đối với tiền tệ, tín dụng ở Việt Nam. Nhưng khoảng trống trong nghiên cứu là chưa nghiên cứu về hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam. - Trong Luận án tiến sĩ Kinh tế năm 2011, về “Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam”, TS Lê Ngọc Lân đã hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng và vai trò quản lý nhà nước đối với tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường; luận giải về sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với
  7. -7- hoạt động tín dụng của NHTM, nội dung và công cụ quản lý nhà nước đối với hoạt động tín dụng của NHTM; đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng và quản lý hoạt động tín dụng tại Việt Nam giai đoạn từ 2005 – 2010; kinh nghiệm quản lý hoạt động tín dụng của một số nước; tác giả cũng xác định phạm vi quản lý nhà nước đối với hoạt động tín dụng ngân hàng theo các nội dung và yêu cầu cụ thể của tình hình hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nhằm thực hiện tốt hơn chức năng quản lý nhà nước của NHNN Việt Nam đối với hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, khoảng trống trong nghiên cứu là hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam - Báo cáo nghiên cứu “Chiến lược tổng thể phát triển ngành dịch vụ tới năm 2020 (CSSSD) và tầm nhìn tới năm 2025” (có nội dung chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng) trong khuôn khổ Dự án Hỗ trợ thương mại Đa biên giai đoạn III (EU-Việt Nam MUTRAP III) và nghiên cứu bởi một nhóm các chuyên gia quốc tế và chuyên gia Việt Nam đã phân tích tổng thể những thách thức và đưa ra các khuyến nghị để vượt qua các thách thức trong việc phát triển dịch vụ nói chung và dịch vụ ngân hàng nói riêng. Báo cáo nghiên cứu đã chỉ rõ các điều kiện tiên quyết để thúc đẩy tăng trưởng của lĩnh vực ngân hàng, đó là : (i) ổn định vĩ mô là điều kiện cần thiết cho sự tăng trưởng và bền vững của lĩnh vực ngân hàng; (ii) môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự tăng trưởng của dịch vụ ngân hàng; (iii) áp dụng công nghệ thông tin hiện đại là nền tảng cho việc phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại; (iv) nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện cần thiết để phát triển dịch vụ ngân hàng; (v) củng cố việc bảo vệ quyền của người cấp tín dụng và thành lập cơ chế phá sản hiệu quả là yếu tố quan trọng trong việc củng cố lòng tin vào hệ thống ngân hàng và đóng góp vào sự phát triển của dịch vụ ngân hàng [10]. Khoảng trống trong
  8. -8- nghiên cứu của Báo cáo là hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam. - Theo Kỷ yếu Hội thảo khoa học (12/2008) do Ngân hàng thương mại cổ phần Liên Việt phối hợp với trường Đại học Ngân hàng TP.HCM tổ chức với chủ đề “Tác động CSTT đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại Việt Nam”, cũng chỉ mới nghiên cứu một nội dung đó là : CSTT có vai trò quan trọng trong việc điều tiết, tác động đến hoạt động của các NHTM; đặc biệt khi có lạm phát cao do tác động từ bên ngoài (khủng hoảng tài chính - tiền tệ) và các yếu tố nội tại của nền kinh tế, NHTW phải thực hiện CSTT thắt chặt để kiềm chế lạm phát. Việc thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát vào năm 2008 đã có những tác động tích cực góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, những diễn biến kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước, sự tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, cũng như điều hành CSTT của NHNN đã tác động đến hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam, như : thiếu thanh khoản, lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng cao, lãi suất huy động vốn tăng cao nhưng lãi suất cho vay nằm trong giới hạn của lãi suất cơ bản và Luật Dân sự. Khoảng trống trong nghiên cứu là hoạt động của các NHTM không chỉ chịu sự tác động của chính sách tiền tệ, mà còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác trong đó có sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước. - Trong luận án “Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” (2003), tác giả Ngô Quốc Kỳ nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của NHTM, trên cơ sở đánh giá một cách khách quan thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động của NHTM ở Việt Nam; đề xuất phương hướng và những giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của NHTM trong nền
  9. -9- kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam từ sau năm 2002. Khoảng trống trong nghiên cứu là việc tác động, điều chỉnh hoạt động của các NHTM không chỉ là pháp luật, mà còn là : việc hoạch định, điều hành chính sách tiền tệ; hoạch định chiến lược phát triển các NHTM; hoạt động thanh tra, giám sát… - Có các đề tài và bài viết nghiên cứu về sự cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dịch vụ ngân hàng, nhằm tạo điều kiện cho việc phát triển dịch vụ ngân hàng và tạo cơ sở pháp lý cho công tác quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; vấn đề này chỉ là một nội dung của quản lý nhà nước đối với hoạt động của các NHTM. Nghiên cứu của Đoàn Thái Sơn (2008) “Thực trạng và định hướng hoàn thiện pháp luật về dịch vụ ngân hàng” cho thấy : quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng, thì việc xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về dịch vụ ngân hàng đã góp phần đáng kể làm thay đổi căn bản về cả số lượng và chất lượng dịch vụ của các NHTM. Về cơ bản, Luật các TCTD và các văn bản hướng dẫn thi hành luật này đã tạo ra một khuôn khổ pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho hoạt động cung cấp dịch vụ của các NHTM và hoạt động quản lý của NHNN. Tuy nhiên, do sự thay đổi nhanh chóng của hoạt động cung cấp dịch vụ ngân hàng, cần thiết phải hoàn thiện khung pháp lý về dịch vụ ngân hàng để hỗ trợ cho các NHTM phát triển các dịch vụ ngân hàng, đồng thời tạo cơ sở pháp lý phù hợp cho hoạt động quản lý, giám sát của NHNN. Nghiên cứu trên của Đoàn Thái Sơn về khuôn khổ pháp lý đối với dịch vụ ngân hàng chưa chỉ ra được hệ thống văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh đã được các cấp có thẩm quyền ban hành gần đây.
  10. -10- - Đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát của nhà nước đối với thị trường bảo hiểm ở Việt Nam” của nhóm tác giả Học viện Tài chính, do Hoàng Trần Hậu làm chủ nhiệm đề tài, nghiên cứu lý luận về thị trường bảo hiểm và quản lý, giám sát của Nhà nước đối với thị trường bảo hiểm; phân tích thực trạng hoạt động của thị trường và thực tế hoạt động quản lý, giám sát thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian qua; chỉ ra các nguy cơ, rủi ro tiềm ẩn đe dọa sự phát triển an toàn của thị trường và trước những xu hướng phát triển thị trường, từ đó đề tài đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát trong thời gian tới. Đề tài nói trên chỉ nghiên cứu về hiệu quả quản lý, giám sát của Nhà nước đối với thị trường bảo hiểm, nhưng không nghiên cứu đối với hiệu quả quản lý của NHNN đối với hoạt động của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Nói chung, qua thông tin tác giả có được, chưa có công trình nghiên cứu tổng thể về hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Các luận án, đề tài công trình khoa học, bài viết chỉ nghiên cứu một khía cạnh hoặc một nội dung trong quản lý đối với hoạt động của Ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Do đó, đề tài nghiên cứu : “Nâng cao hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam” là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách tổng quát về nâng cao hiệu quả quản lý của NHNNVN đối với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam. 3- Mục đích nghiên cứu của đề tài - Hệ thống hoá và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về Ngân hàng Trung ương và hoạt động của các Ngân hàng thương mại; hiệu quả quản lý của Ngân hàng Trung ương đối với hoạt động của các NHTM.
  11. -11- - Phân tích thực trạng hoạt động của Ngân hàng Trung ương, các Ngân hàng thương mại; hiệu quả quản lý của NHNN đối với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam thời gian qua; chỉ ra các tồn tại, hạn chế ảnh hưởng đến hoạt động an toàn, bền vững của các NHTM. - Nêu định hướng, quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của NHNN Việt Nam đối với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam thời gian đến. 4- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu. Đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu là hiệu quả quản lý của NHTW đối với hoạt động của các NHTM. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài. (i) Quản lý nhà nước đối với hoạt động của các NHTM được thực hiện bởi nhiều cơ quan quản lý khác nhau, nhưng tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu ở hoạt động quản lý của NHNN đối với hoạt động của các NHTM (chủ yếu đi sâu hoạt động huy động vốn và tín dụng của NHTM). Đề tài này chỉ tập trung vào mục tiêu quản lý nhằm đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng mà không bao hàm mục tiêu của chính sách tiền tệ (ii) Thực trạng hiệu quả quản lý của NHNN đối với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam giai đoạn 2005 - đến cuối năm 2013. Tuy nhiên, nhằm để củng cố các kết quả phân tích hoặc để làm rõ thêm hiệu quả hoạt động quản lý của NHTW và hoạt động của các NHTM, tác giả có sử dụng số liệu trong các giai đoạn trước đó; (iii) Đề xuất định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý của NHNN Việt Nam đối với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam thời gian đến. 5- Phương pháp nghiên cứu đề tài Phương pháp chủ yếu được vận dụng trong quá trình nghiên cứu là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời có kết hợp với các phương pháp cụ thể như : thống kê, phân tích, so sánh…. Đề tài
  12. -12- còn vận dụng các quan điểm lý luận của Đảng và Nhà nước Việt Nam về định hướng quản lý của NHNN đối với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam. 6- Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Làm sáng tỏ các luận cứ khoa học về hiệu quả quản lý của NHTW đối với hoạt động của các NHTM. - Làm rõ việc nâng cao hiệu quả quản lý của NHNN đối với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam. - Góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của NHNN đối với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam trong thời gian tới. 7- Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được trình bày gồm 3 chương. Chương I Lý luận cơ bản về hiệu quả quản lý của Ngân hàng Trung ương đối với hoạt động của các Ngân hàng thương mại. Chương II Thực trạng hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam . Chương III Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam.
  13. -13- CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1- Tổng quan về Ngân hàng Trung ương và hoạt động của các Ngân hàng thương mại 1.1.1- Ngân hàng Trung ương Hệ thống ngân hàng của các nước trên thế giới đã hình thành từ thế kỷ thứ XVI, nhưng NHTW ra đời từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. [14] Chức năng đầu tiên trước đây của NHTW là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM và cho vay đối với Chính phủ. Khi nền kinh tế phát triển, thì hệ thống tài chính ngân hàng cũng phát triển theo, ngược lại khi nền kinh tế bất ổn thì hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động sẽ khó khăn và kém an toàn. Nền kinh tế bất ổn, lạm phát gia tăng có nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân thuộc về yếu tố tiền tệ. Do đó, NHTW được bổ sung chức năng ổn định giá trị đồng nội tệ và bảo đảm cho hệ thống tài chính - ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh. [1] Quá trình phát triển cho thấy NHTW ngày càng có vai trò, vị trí quan trọng trong nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Chính vì thế mà ngày nay nhiều nước không ngừng quan tâm việc củng cố, tăng cường vai trò, vị trí của NHTW theo hướng hiện đại. 1.1.1.1- Mục tiêu của Ngân hàng Trung ương Hoạt động của bất kỳ NHTW nào trên thế giới cũng nhằm theo đuổi một số mục tiêu bao gồm : (i) Lạm phát thấp và ổn định; (ii) Tăng trưởng kinh tế; (iii) Tạo công ăn việc làm; (iv) Đảm bảo an toàn hệ thống tài chính - ngân hàng….Tuy nhiên, lý luận và thực tiễn của hầu hết các nước cho thấy NHTW không thể đạt được đồng thời cùng một lúc tất cả các mục tiêu trên.
  14. -14- Cụ thể, (i) nếu NHTW theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và tạo nhiều công ăn việc làm, thất nghiệp thấp thì chỉ số lạm phát sẽ có xu hướng tăng lên, ít nhất là trong trung và dài hạn; và khi lạm phát tăng lên, sẽ tác động đến nền kinh tế, ảnh hưởng đến tính ổn định, an toàn của hệ thống tài chính ngân hàng. (ii) Bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước biến đổi. Do đó, khi có nhiều mục tiêu đòi hỏi NHTW phải thận trọng và linh hoạt trong việc lựa chọn mục tiêu và xác định thứ tự ưu tiên mục tiêu. NHTW với nhiều mục tiêu là mô hình NHTW truyền thống. Xu hướng ngày nay, NHTW hiện đại chỉ theo đuổi mục tiêu duy nhất và cũng là mục tiêu cuối cùng. NHTW hiện đại với mục tiêu duy nhất (mục tiêu cuối cùng) có ưu điểm hơn so với mô hình NHTW với nhiều mục tiêu, đó là : (i) NHTW sẽ lựa chọn công cụ CSTT phù hợp tác động để đạt được mục tiêu này; (ii) sẽ đánh giá cụ thể được hiệu quả hoạt động của NHTW thông qua điều hành CSTT nhằm đạt được mục tiêu duy nhất; (iii) tạo điều kiện cho NHTW tập trung vào mục tiêu duy nhất này. [34] Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là để đạt được mục tiêu cuối cùng, NHTW không thể tác động một cách trực tiếp mà là tác động gián tiếp thông qua các công cụ CSTT. Mục tiêu cuối cùng thường là mục tiêu trung hạn và có một độ trễ nhất định (từ 6 tháng đến 12 tháng). Hiện nay mục tiêu cuối cùng của CSTT được NHTW các nước lựa chọn đó là ổn định giá cả, lạm phát thấp và ổn định, từ đó sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế tạo công việc làm; và một tác động tích cực quan trọng đó là với mục tiêu cuối cùng đạt được giá cả ổn định, lạm phát thấp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của Ngân hàng Trung ương đối với hoạt động của hệ thống NHTM. Trong quá trình truyền dẫn CSTT để đạt được mục tiêu cuối cùng này, NHTW phải sử dụng các mục tiêu trung gian. Mục tiêu trung gian là các biến số tiền tệ có quan hệ với các biến số kinh tế vĩ mô (Tăng trưởng
  15. -15- kinh tế, ổn định giá cả,…). Chỉ tiêu sử dụng làm mục tiêu trung gian gồm : lượng tiền cung ứng; lãi suất thị trường; tổng khối lượng tín dụng; tỷ giá… Mục tiêu hoạt động (hay mục tiêu công cụ) là các biến tiền tệ mà NHTW kiểm soát và dự báo trước được tác động thông qua việc sử dụng các công cụ CSTT nhằm đạt được mục tiêu trung gian, từ đó tác động đến mục tiêu cuối cùng. Mục tiêu hoạt động được chia ra : mục tiêu hoạt động là giá cả tiền tệ và mục tiêu hoạt động là khối lượng tiền tệ. Mục tiêu hoạt động là giá cả tiền tệ có nghĩa là những thay đổi tạm thời của cung và cầu tiền cơ bản chỉ nhằm đạt được mục tiêu là đảm bảo lãi suất ngắn hạn trên thị trường xoay quanh lãi suất mục tiêu. Mục tiêu hoạt động là khối lượng tiền tệ, NHTW không điều tiết thay đổi của cầu tiền cơ bản và bỏ qua những tác động của lãi suất mà chỉ quan tâm đến tiền cơ bản có phù hợp với mục tiêu hay không [1]. Quan hệ giữa các mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng được tóm tắt trong bảng 1.1 dưới đây : Bảng 1.1 Quan hệ giữa mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ Mục tiêu hoạt động Mục tiêu trung gian Mục tiêu cuối cùng - Giá cả tiền tệ. - Tổng tiền cung ứng. - Ổn định giá cả. - Khối lượng tiền tệ. - Lãi suất thị trường - Tăng trưởng kinh tế, ... … tạo công việc làm. … 1.1.1.2- Chức năng của Ngân hàng Trung ương - Phát hành tiền và điều tiết lượng tiền cung ứng. NHTW giữ độc quyền phát hành tiền giấy và tiền kim loại. Để đảm bảo giá trị tiền tệ ổn định việc phát hành tiền phải tuân thủ theo các nguyên tắc nhất định. NHTW còn tham gia và kiểm soát việc tạo tiền trong hệ thống các NHTM, thông qua quá trình cho vay, thanh toán bằng chuyển khoản. NHTW không chỉ thực
  16. -16- hiện chức năng phát hành tiền mà còn thực hiện việc điều tiết lượng tiền cung ứng, thực hiện CSTT quốc gia. - Ngân hàng Trung ương là Ngân hàng của các ngân hàng. Chức năng này thể hiện ở chỗ : NHTW mở tài khoản, bảo quản dự trữ tiền tệ và là trung tâm thanh toán cho các ngân hàng; là người cho vay cuối cùng đối với NHTM; được thực hiện các biện pháp khẩn cấp cần thiết để đối phó khi xảy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ. - Ngân hàng Trung ương là Ngân hàng của Nhà nước. Thực hiện chức năng này NHTW quản lý, giám sát hệ thống ngân hàng, TCTD đảm bảo an toàn, lành mạnh (Được phân tích chi tiết trong chương này). 1.1.1.3- Vị thế của Ngân hàng Trung ương Trong điều kiện các nước hội nhập kinh tế thế giới và khu vực nói chung và thị trường tài chính - tiền tệ nói riêng ngày càng sâu rộng, để NHTW có thể thực hiện tốt chức năng của mình, đòi hỏi phải nâng cao vị thế của NHTW. Vị thế của NHTW được nâng lên, khi được quy định rõ trong Luật NHTW : địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của NHTW; trách nhiệm quyền hạn của NHTW (trong mối quan hệ với Chính phủ và Quốc hội) đối với việc hoạch định, điều hành CSTT quốc gia và đối với việc ổn định hệ thống tài chính. Tuy mức độ độc lập của NHTW các nước có khác nhau, nhưng nhìn chung xu hướng NHTW của các nước trên thế giới ngày càng trở nên độc lập hơn với Chính phủ và Quốc hội. Tính độc lập được thể hiện thông qua ba hình thức : (i) độc lập về nhân sự, (ii) độc lập về chính sách, và (iii) độc lập về tài chính. - Độc lập về nhân sự. Thông qua hình thức này, Thống đốc NHTW được quyền quyết định các vấn đề về nhân sự (bổ nhiệm, miễn nhiệm, tuyển dụng, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật, chế độ trả lương ….) thuộc
  17. -17- quyền quản lý của mình. Đối với nhân sự chủ chốt của NHTW và các thành viên của Hội đồng CSTT Quốc gia do Quốc hội và Chính phủ quyết định. Để đảm bảo CSTT thể hiện quan điểm của các thành phần trong nền kinh tế, cơ cấu Hội đồng CSTT Quốc gia thường bao gồm đại diện Quốc hội, Chính phủ, NHTW, chuyên gia kinh tế tài chính ngân hàng, doanh nghiệp, đại diện Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư...Tỷ lệ phần lớn các thành viên của Hội đồng là người của NHTW và Chủ tịch Hội đồng thường là Thống đốc NHTW. Hội đồng CSTT Quốc gia luôn được đổi mới và có tính kế thừa, hàng năm có một tỷ lệ nhất định thành viên mới. Các thành viên mới này được chỉ định hoặc bầu bổ sung bởi các nhiệm kỳ Quốc hội, Chính phủ. Nhằm nâng cao tính độc lập của NHTW, nhiệm kỳ của Thống đốc NHTW và các nhân sự chủ chốt thường lệch pha hoặc được kéo dài hơn so với nhiệm kỳ của các thành viên Quốc hội và Chính phủ, để tránh áp lực chính trị. Thống đốc NHTW và các thành viên Hội đồng CSTT Quốc gia có trách nhiệm báo cáo các hoạt động của mình theo định kỳ hoặc đột xuất theo yêu của Ủy ban đặc trách của Quốc hội và Chính phủ. Đối với các nước Thống đốc NHTW không phải là thành viên của Chính phủ, do đó không phải báo cáo giải trình trước Quốc hội. Chỉ có Quốc hội mới được quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm để thay thế Thống đốc NHTW trong trường hợp Thống đốc NHTW không hoàn thành nhiệm vụ. Còn Thủ tướng Chính phủ (đứng đầu Chính phủ) không có quyền phế truất trực tiếp, nhưng có quyền đề nghị Quốc hội bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Thống đốc NHTW.[1]
  18. -18- - Độc lập về chính sách. Nhiều nước mục tiêu cuối cùng của CSTT thường được quy định trong Luật và do Quốc hội quyết định. Đối với mục tiêu trung gian (tổng tiền cung ứng, lãi suất thị trường) và việc sử dụng các công cụ CSTT, giao cho NHTW quyết định để nâng cao tính độc lập về chính sách của NHTW. Để đạt được mục tiêu trung gian, bước kế tiếp NHTW xác định mục tiêu hoạt động (có thể lấy lãi suất thị trường liên ngân hàng làm định hướng…). Mục tiêu hoạt động thường do Hội đồng CSTT Quốc gia (bao gồm các thành phần nói trên) quyết định thông qua các cuộc họp định kỳ và là căn cứ cho NHTW được chủ động linh hoạt trong điều hành các công cụ CSTT. Từ đó tác động đến lãi suất thị trường, không chỉ góp phần đạt được mục tiêu cuối cùng, mà còn góp phần đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống các NHTM. - Độc lập về tài chính. Sự chi tiêu, vay nợ quá mức của Chính phủ từ NHTW, sẽ khó khăn cho NHTW trong việc đạt được mục tiêu ổn định giá cả. Do đó, NHTW cần được độc lập về mặt tài chính. Độc lập về mặt tài chính sẽ cho phép NHTW được chủ động trong việc quyết định phạm vi và mức độ tài trợ cho chi tiêu của Chính phủ một cách trực tiếp hay gián tiếp thông qua con đường tín dụng của NHTW. Với dự toán tài chính được Cơ quan có thẩm quyền phê duyệt (hoặc Hội đồng quản trị của NHTW hoặc một Ủy ban trong đó có đại diện của Quốc hội và đại diện Chính phủ), Thống đốc NHTW được quyền quyết định chi tiêu theo dự toán tài chính đã được phê duyệt. Như vậy với dự toán tài chính được phê duyệt, NHTW không phải phụ thuộc vào sự cấp phát tài chính của Chính phủ (thông qua Bộ Tài chính).
  19. -19- 1.1.2- Hoạt động của các Ngân hàng thương mại 1.1.2.1- Khái niệm Ngân hàng thương mại Thuật ngữ "ngân hàng" đã có từ lâu. Trải qua quá trình phát triển, quan niệm về ngân hàng và hoạt động ngân hàng có nhiều thay đổi. Với các dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng và phát triển, nên các nước phân chia ra các dạng ngân hàng khác nhau để có phương thức quản lý phù hợp. Do đó, quan niệm về ngân hàng thay đổi theo sự phát triển về kinh tế, pháp luật và tập quán của từng quốc gia. Đến nay có nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng : - Theo pháp luật nước Mỹ : “Bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu (bằng cách ký phát séc hay bằng việc rút tiền điện tử) và cấp tín dụng đối với tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một ngân hàng”. - Theo Đạo luật Ngân hàng của Pháp ngày 03/06/1942 quy định : "Được xem là ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào làm nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc hình thức khác, những khoản tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, nghiệp vụ tín dụng hay nghiệp vụ tài chính". - Tại Ấn Độ, NHTM được coi là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ và đầu tư. - Theo Ngân hàng thế giới (Wordbank) : “Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi chủ yếu dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn hoặc tiền gửi được rút ra với một thông báo ngắn hạn (tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và các khoản tiết kiệm)”; các ngân hàng bao gồm : các NHTM chỉ tham gia vào các hoạt động nhận tiền gửi, cho vay ngắn - trung - dài hạn; các Ngân hàng đầu tư tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán và bảo lãnh phát hành; các Ngân hàng địa ốc cung cấp tài chính cho lĩnh vực phát triển nhà
  20. -20- ở và các loại khác. Ngoài ra, tại một số nước còn có ngân hàng đa năng, kết hợp hoạt động NHTM với hoạt động ngân hàng đầu tư và cả dịch vụ bảo hiểm. - Theo quy định Luật các TCTD số 47/2010/QH12 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16 tháng 6 năm 2010 : Ngân hàng là loại hình TCTD có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng bao gồm : nhận tiền gửi; cấp tín dụng; cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm NHTM, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã. NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng (nhận tiền gửi; cấp tín dụng; cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản) và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật nhằm mục tiêu lợi nhuận. Từ một số định nghĩa trên đây của một số nước về ngân hàng có thể rút ra : - NHTM là tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ với chức năng trung gian tín dụng; huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội và sử dụng nguồn vốn huy động được để cấp tín dụng; - NHTM là loại hình DN tài chính đặc biệt, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và thanh toán; là một định chế tài chính trung gian và quan trọng nhất trong hệ thống các TCTD; - Ngoài các lĩnh vực hoạt động truyền thống (huy động, cấp tín dụng, trung gian thanh toán) thì các NHTM hiện đại còn cung cấp các danh mục tài chính đa dạng nhất.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0