Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Ngân hàng thương mại Việt Nam và con đường hội nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)
lượt xem 5
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài là Ngân hàng trung ương là cơ quan tổ chức việc điều hành chính sách tiền tệ, lấy nhiệm vụ giữ ổn định giá trị đồng tiền làm mục tiêu chủ yếu và chi phối căn bản các chính sách điều hành cụ thể đối với hệ thống các ngân hàng cấp 2.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Ngân hàng thương mại Việt Nam và con đường hội nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)
- Trang 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM NGUYỄN THỊ THU HÀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ CON ĐƯỜNG HỘI NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO) NGÀNH TÀI CHÍNH TIỀN TỆ- NGÂN HÀNG MÃ SỐ 60.31.12 Cán bộ hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Nguyễn Tấn Hoàng Tp.HCM, tháng 12/2006
- Trang 2 MỤC LỤC Mở đầu PHẦN 1: LÝ THUYẾT ...............................................................................................1 1.1 Giới thiệu chung về Ngân hàng Thương mại Việt Nam ......................................... .......................................................................................................................................1 1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển NHTM ..............................................................1 1.1.2 Giới thiệu về NHTM ............................................................................................4 1.1.2.1 Khái niệm ..........................................................................................................4 1.1.2.2 Phân loại ............................................................................................................5 1.1.2.3 Nghiệp vụ của ngân hàng thương mại...............................................................6 1.2 NHTM Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới ............................................................8 1.2.1 NHTM cùng với nền kinh tế Việt Nam trên bước đường hội nhập .....................8 1.2.2 Sự cần thiết hội nhập WTO của hệ thống NHTM Việt Nam………………..…11 1.2.3 Trình tự các bước chuẩn bị cho sự hội nhập của NHTM………………………12 1.2.4 Các bài học kinh nghiệm của hệ thống ngân hàng các nước khi tham gia hội nhập tài chính quốc tế………………………………………………………………………15 1.3 Giới thiệu chung về tổ chức thương mại thế giới…………………………………19 1.3.1 Khái quát………………………………………………………………………..19 1.3.2 Các chức năng của WTO……………………………………………………….20 1.3.3 Cơ cấu của WTO………………………………………………………………..20 1.3.4 Những nguyên tắc, luật lệ cơ bản của WTO……………………………………21 1.3.5 Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam……………………………………….26 PHẦN 2: THỰC TRẠNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI……………………….31 2.1 Tình hình hoạt động của các NHTM Việt Nam…………………………………..31 2.2 Sự chuẩn bị của hệ thống NHTM Việt Nam cho sự hội nhập……………………48 2.2.1 Chính phủ phê duyệt đề án cơ cấu lại hệ thống NHTMQD nhằm từng bước lành mạnh hoá tình hình tài chính của các NH này………………………………………..48 2.2.2 Tiến hành cổ phần hoá các ngân hàng quốc doanh……………………………..51 2.2.3 Đối với các NHTMCP………………………………………………………….51 2.2.4 Nâng cao tiềm lực tài chính……………………………………………………52 2.2.5 Từng bước hiện đại hoá dịch vụ cung cấp……………………………………..53
- Trang 3 2.2.6 Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và chính sách quản lý hoạt động NH….55 2.3 Cơ hội cho các ngân hàng nội địa khi gia nhập WTO……………………………55 2.4 Những khó khăn và thách thức đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam………….61 2.4.1 Gián tiếp………………………………………………………………………..62 2.4.2 Trực tiếp………………………………………………………………………..62 PHẦN 3 : GIẢI PHÁP………………………………………………………………68 3.1 Giải pháp từ Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước………………………………..68 3.1.1 Về phía Chính phủ………………………………………………………………68 3.1.2 Về phía Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ……………………………………….68 3.2 Giải pháp từ chính các ngân hàng………………………………………………..70 3.2.1 Tăng cường năng lực tài chính………………………………………………….70 3.2.2 Đa dạng hoá dịch vụ cung cấp, đa dạng hoá đối tượng khách hàng…………….71 3.2.3 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán…………………….71 3.2.4 Xác định khách hàng mục tiêu………………………………………………….72 3.2.5 Nâng cao năng lực quản trị điều hàng…………………………………………..72 3.2.6 Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên bán hàng………………………………73 3.2.7 Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách ngân hàng……………….74 3.2.8 Tăng cường chất lượng hoạt động………………………………………………74 Kết luận - -
- Trang 4 Phần 1: LÝ THUYẾT 1.1 Giới thiệu chung về ngân hàng thương mại Việt Nam 1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển NHTM Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam gắn liền với lịch sử phát triển của từng thời kỳ cách mạng và công cuộc xây dựng Đất nước. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong kiến dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Hệ thống tiền tệ, tín dụng ngân hàng được thiết lập và bảo hộ bởi thực dân Pháp thông qua Ngân hàng Đông Dương. Ngân hàng Đông Dương vừa đóng vai trò là ngân hàng Trung ương trên toàn cõi Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia), vừa là ngân hàng thương mại. Ngân hàng này là công cụ phục vụ đắc lực chính sách thuộc địa của chính phủ Pháp và làm giàu cho tư bản Pháp. Vì thế, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cuộc Cách mạng Tháng 8 lúc bấy giờ là phải từng bước xây dựng nền tiền tệ và hệ thống ngân hàng độc lập tự chủ. Nhiệm vụ đó đã trở thành hiện thực khi bước sang năm 1950, công cuộc kháng chiến chống Pháp ngày một tiến triển mạnh mẽ với những chiến thắng vang dội trên khắp các chiến trường và mở rộng vùng giải phóng. Sự chuyển biến của cục diện cách mạng cũng đòi hỏi công tác kinh tế, tài chính phải được củng cố và phát triển theo yêu cầu mới. Trên cơ sở chủ trương chính sách mới về tài chính - kinh tế mà Đại hội Đảng lần thứ II (tháng 2/1951) đã đề ra, ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam - Ngân hàng của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á để thực hiện 5 nhiệm vụ cấp bách: Phát hành giấy bạc, quản lý Kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ra đời là kết quả nối tiếp của quá trình đấu tranh xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bước phát triển mới, thay đổi về chất trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ở nước ta. Năm 1960, Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để phù hợp với hiến pháp 1946. Những năm sau khi Miền Nam giải phóng 1975, việc tiếp quản Ngân hàng Quốc gia Việt Nam cộng hoà và các Ngân hàng tư bản tư nhân dưới chế độ Nguỵ quyền Sài Gòn đã mở đầu cho quá trình nhất quán hoạt động ngân hàng toàn quốc theo cơ chế hoạt động ngân hàng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Tháng 7 năm 1976, đất nước được thống nhất về phương diện Nhà nước, nước Cộng hoà Xã hội
- Trang 5 Chủ nghĩa Việt Nam ra đời. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia ở miền Nam được hợp nhất vào NHNN Việt Nam, tạo thành hệ thống Ngân hàng Nhà nước duy nhất của cả nước. Hệ thống tổ chức thống nhất của NHNN bao gồm: Ngân hàng Trung ương đặt trụ sở chính tại thủ đô Hà Nội, các Chi nhánh Ngân hàng tại các tỉnh, thành phố và các ngân hàng cơ sở tại các huyện, quận trên phạm vi cả nước. Căn cứ vào những biến đổi quan trọng về tình hình và nhiệm vụ cách mạng cũng như về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam có thể được chia làm 4 thời kỳ như sau: Thời kỳ 1951 - 1954: Trong thời kỳ này, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập và hoạt động độc lập tương đối trong hệ thống tài chính, thực hiện trọng trách đầu tiên theo chủ trương của Đảng và nhà nước là: Phát hành giấy bạc ngân hàng, thu hồi giấy bạc tài chính; Thực hiện quản lý Kho bạc Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân sách;Phát triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá, tăng cường lực lượng kinh tế quốc doanh và đấu tranh tiền tệ với địch. Thời kỳ 1955 - 1975: Đây là thời kỳ cả nước kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc xây dựng và chiến đấu, vừa ra sức chi viện cho cách mạng giải phóng miền Nam; mọi hoạt động kinh tế xã hội phải chuyển hướng theo yêu cầu mới. Trong thời kỳ này, Ngân hàng Quốc gia đã thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau; - Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật giá, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế. - Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh khôi phục và phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Miền Bắc và giải phóng Miền Nam. Thời kỳ 1975 - 1985: Là giai đoạn 10 năm khôi phục kinh tế sau chiến tranh giải phóng và thống nhất nước nhà, là thời kỳ xây dựng hệ thống ngân hàng mới của chính quyền cách mạng; tiến hành thiết lập hệ thống ngân hàng thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống ngân hàng của chế độ cũ ở miền Nam. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam của chính quyền Việt Nam cộng hoà (ở miền Nam) đã được quốc hữu hoá và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát hành các loại tiền mới của nước
- Trang 6 CHXHCN Việt Nam, thu hồi các loại tiền cũ ở cả hai miền Nam - Bắc vào năm 1978. Đến cuối những năm 80, hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt động như là một công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị trường. Sự thay đổi về chất trong hoạt động của hệ thống ngân hàng- chuyển dần sang hoạt động theo cơ chế thị trường chỉ được bắt đầu khởi xướng từ cuối những năm 80, và kéo dài cho tới ngày nay. Thời kỳ 1986 đến nay: từ năm 1986 đến nay đã diễn ra nhiều sự kiện quan trọng, đánh dấu sự chuyển biến căn bản của hệ thống Ngân hàng Việt Nam thể hiện qua một số "cột mốc" có tính đột phá sau đây: + Từ năm 1986 đến năm 1990: Thực hiện tách dần chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Cơ chế mới về hoạt động ngân hàng đã được hình thành và hoàn thiện dần - Tháng 5/1990, hai pháp lệnh Ngân hàng ra đời (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ) đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp - Trong đó lần đầu tiên đối tượng nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của mỗi cấp được luật pháp phân biệt rạch ròi: + Ngân hàng Nhà nước thực thi nhiệm vụ Quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; Thực thi nhiệm vụ của một Ngân hàng Trung ương - là ngân hàng duy nhất được phát hành tiền; Là ngân hàng của các ngân hàng và là Ngân hàng của Nhà nước; NHTW là cơ quan tổ chức việc điều hành chính sách tiền tệ, lấy nhiệm vụ giữ ổn định giá trị đồng tiền làm mục tiêu chủ yếu và chi phối căn bản các chính sách điều hành cụ thể đối với hệ thống các ngân hàng cấp 2. + Cấp Ngân hàng kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong toàn nền kinh tế quốc dân do các Định chế tài chính Ngân hàng và phi ngân hàng thực hiện. Cùng với quá trình đổi mới cơ chế vận hành trong hệ thống ngân hàng là quá trình ra đời hàng loạt các ngân hàng chuyên doanh cấp 2 với các loại hình sở hữu khác nhau gồm Ngân hàng thương mại quốc doanh, cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài, Hợp tác xã tín dụng, QTDND, công ty tài chính...Trong thời gian này, 4 ngân hàng thương mại quốc doanh lớn đã
- Trang 7 được thành lập gồm: 1) Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam; 2) Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam; 3) Ngân hàng Công thương Việt Nam; 4) Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. + Từ năm 1991 đến nay: Thực hiện chủ trương đường lối chính sách của Đảng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hệ thống ngân hàng Việt Nam không ngừng đổi mới và lớn mạnh, đảm bảo thực hiện được trọng trách của mình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế đất nước trong thiên niên kỷ mới. Những dấu ấn dưới đây liên quan trực tiếp và thúc đẩy quá trình đổi mới mạnh mẽ hoạt động Ngân hàng: Năm 1993: Bình thường hoá các mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế (IMF, WB, ADB) Năm 1995: Quốc hội thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu đối với hoạt động ngân hàng; thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo. Năm 1997: Quốc hội khoá X thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng (ngày 2/12/1997) và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998; Thành lập Ngân hàng phát triển Nhà Đồng bằng Sông cửu long (Quyết định số 769/TTg, ngày 18/9/1997). Năm 1999: Thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (ngày 9/11/1999). Năm 2000: Cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMNN và cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMCP. Năm 2002: Tự do hoá lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng - Bước cuối cùng tự do hoá hoàn toàn lãi suất thị trường tín dụng ở cả đầu vào và đầu ra. Năm 2003: Tiến hành cơ cấu lại theo chiều sâu hoạt động phù hợp với chuẩn quốc tế đối với các Ngân hàng thương mại; Thành lập NH chính sách xã hội trên cơ sở Ngân hàng phục vụ người nghèo để tiến tới tách bạch tín dụng chính sách với tín dụng thương mại theo cơ chế thị trường. 1.1.2 Giới thiệu về ngân hàng thương mại: 1.1.2.1 Khái niệm: Ngân hàng thương mại (NHTM) là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với các công ty, xí nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân, bằng cách nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, rồi sử dụng số vốn đó để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên. Như vậy có thể nói rằng
- Trang 8 NHTM là một loại định chế tài chính trung gian quan trọng vào loại bậc nhất trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế tài chính trung gian này mà các nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội sẽ được huy động, tập trung lại, đồng thời sử dụng vốn đó để cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế, cá nhân để phục vụ phát triển kinh tế- xã hội Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng có số lượng lớn và rất phổ biến trong nền kinh tế. Sự có mặt của NHTM trong hầu hết các mặt hoạt động của nền kinh tế xã hộI đã chứng minh rằng ở đâu có một hệ thống NHTM phát triển thì ở đó sẽ có sự phát triển với tốc độ cao của nền kinh tế Nghị định của Chính phủ số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của nhà nước” 1.1.2.2 Phân loại ngân hàng thương mại: Căn cứ hình thức sở hữu - NHTM quốc doanh: là ngân hàng kinh doanh bằng vốn cấp phát của ngân sách nhà nước - NHTM cổ phần: là những ngân hàng hoạt động như công ty cổ phần, nguồn vốn ban đầu do các cổ đông đóng góp - NHTM liên doanh: có vốn được góp bởi một bên là ngân hàng Việt Nam, một bên là ngân hàng nước ngoài, có trụ sở đặt tại Việt Nam và hoạt động theo luật pháp Việt Nam - Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: là ngân hàng được thành lập theo vốn và luật pháp nước ngoài, được phép mở chi nhánh tại Việt Nam và chi nhánh này hoạt động theo luật pháp Việt Nam Dựa vào sản phẩm: - Ngân hàng bán buôn: số lượng sản phẩm cung cấp cho khách hàng không nhiều nhưng giá trị từng sản phẩm là rất lớn. Khách hàng chủ yếu của ngân hàng này là các công ty, xí nghiệp quy mô lớn, các tập đoàn kinh tế - Ngân hàng bán lẻ: số lượng sản phẩm mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng rất nhiều nhưng giá trị từng sản phẩm không lớn, phần lớn ngân hàng này cho vay để
- Trang 9 sản xuất vấn đề tiêu dùng hoặc sản xuất với quy mô nhỏ hộ gia đình. Vì vậy, khách hàng chủ yếu là cá nhân và các doanh nghiệp vừa, nhỏ - Ngân hàng vừa bán buôn vừa bán lẻ Căn cứ lĩnh vực hoạt động: - Ngân hàng chuyên doanh: hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực nào đó như công nghiệp, nông nghiệp, xuất nhập khẩu… hoặc một vài nghiệp vụ ngân hàng như ngân hàng cầm cố bất động sản, ngân hàng đầu tư bất động sản… Do nhu cầu khách hàng ngày càng đa dạng nên loại ngân hàng này đang có xu hướng chuyển sang kinh doanh tổng hợp để bảo toàn và thu hút khách hàng - Ngân hàng đa năng, kinh doanh tổng hợp: là loại ngân hàng hoạt động ở mọi lĩnh vực kinh tế và thực hiện bất kỳ nghiệp vụ nào cho phép của một NHTM 1.1.2.3 Nghiệp vụ NHTM: Nghiệp vụ nguồn vốn: Là nghiệp vụ hình thành nên các nguồn vốn hoạt động của ngân hàng - Vốn điều lệ và các quỹ + Vốn điều lệ: là nguồn vốn ban đầu khi ngân hàng mới bắt đầu đi vào hoạt động. Vốn điều lệ phải đạt mức tối thiểu theo quy định của pháp luật (mỗi loại hình ngân hàng pháp luật quy định mức riêng). Vốn điều lệ có thể tăng lên nhờ cấp bổ sung hoặc phát hành cổ phiếu bổ sung, hoặc được kết chuyển từ quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ theo quy định của luật pháp mỗi nước + Các quỹ của ngân hàng: được hình thành khi ngân hàng đi vào hoạt động, bao gồm các quỹ trích từ lãi ròng hàng năm của ngân hàng như: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, các quỹ dự phòng (tài chính, trợ cấp mất việc làm), quỹ đầu tư phát triển, quỹ khác (khen thưởng, phúc lợi)… - Vốn huy động: là nguồn vốn chủ yếu sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng, nó chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh của NHTM. Nguồn vốn huy động gồm có: + Tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng + Tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức và cá nhân + Tiền gửi tiết kiệm của dân cư + Nguồn vốn huy động qua phát hành trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi…
- Trang 10 - Vốn đi vay: + Vay ngân hàng nhà nước dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá; cầm cố, tái cầm cố các thương phiếu; vay lại theo hợp đồng tín dụng + Vay của các NHTM khác qua thị trường liên ngân hàng, hợp đồng mua lại + Vay của các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế - Nguồn vốn khác: vốn tiếp nhận từ ngân sách nhà nước để thực hiện các chương trình, dự án theo kế hoạch tập trung của nhà nước, vốn chiếm dụng của khách hàng trong quá trình thực hiện dịch vụ không dùng tiền mặt Nghiệp vụ sử dụng vốn (nghiệp vụ có): - Thiết lập dự trữ: các NHTM không sử dụng toàn bộ nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh, phải dành một phần dự trữ thích hợp nhằm đáp ứng những yêu cầu sau: + Thực hiện dự trữ bắt buộc theo quy định của ngân hàng nhà nước + Thực hiện các lệnh rút tiền và thanh toán chuyển khoản của khách hàng + Chi trả các khoản tiền gửI đến hạn, chi trả lãi + Đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý trong ngày của khách hàng + Thực hiện các khoản chi tiêu hàng ngày tại ngân hàng Dự trữ của ngân hàng có thể tồn tại dưới hình thức tiền mặt, tiền gửi tại ngân hàng khác và các chứng khoán có tính thanh khoản cao - Cấp tín dụng: bao gồm cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn, chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá, cho thuê tài chính và bảo lãnh - Đầu tư: NHTM sử dụng các nguồn vốn ổn định để thực hiện các hình thức đầu tư nhằm kiếm lời và chia sẻ rủi ro với nghiệp vụ tín dụng, bao gồm: + Góp vốn, liên doanh, mua cổ phần của các công ty, các tổ chức tín dụng khác + Mua chứng khoán và các giấy tờ có giá trị để hưởng lợi tức và chênh lệch giá - Sử dụng vốn cho các mục đích khác như: mua sắm thiết bị, dụng cụ phục vụ cho hoạt động kinh doanh, xây dựng trụ sở ngân hàng, hệ thống kho bãi và các chi phí khác Dịch vụ ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác: Đây là các dịch vụ mà khi ngân hàng cung cấp cho khách hàng sẽ nhận được các khoản hoa hồng và lệ phí như: - Dịch vụ ngân quỹ - Dịch vụ ủy thác
- Trang 11 - Tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt cho khách hàng - Nhận quản lý tài sản quý giá theo yêu cầu khách hàng - Kinh doanh vàng bạc, đá quý, ngoại tệ - Mua bán hộ chứng khoán, phát hành hộ cổ phiếu, trái phiếu cho các công ty - Tư vấn về tài chính, đầu tư Các nghiệp vụ trên của ngân hàng thương mại không thể tách rời, độc lập nhau mà chúng có mối quan hệ tương hỗ với nhau trong quá trình kinh doanh của ngân hàng 1.2 Ngân hàng thương mại Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới 1.2.1 Ngân hàng thương mại cùng với nền kinh tế Việt Nam trên bước đường hội nhập Những thành tựu và những tiến bộ của khoa học công nghệ trong khoảng 50 - 60 năm trở lại đây của nhân loại đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác giữa các quốc gia trên thế giới làm cho lực lượng sản xuất được quốc tế hoá, xã hội hoá cao độ trên quy mô quốc tế. Ðể thích ứng với xu thế này, tất cả các nước trên thế giới đều thực hiện điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa nền kinh tế, thậm chí với ngay cả những nền kinh tế được xem là "đóng cửa" nhất thế giới như CHDCND Triều Tiên hiện cũng đã có những bước đi mở cửa nền kinh tế (như thành lập các khu công nghiệp, mậu dịch với Hàn Quốc dọc biên giới). Cùng với việc mở cửa nền kinh tế, các hàng rào thuế quan được hạ thấp xuống, các biện pháp phi thuế quan (như cấm, hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu, các biện pháp quy định số lượng (hạn ngạch) được nới lỏng và đi đến xoá bỏ, đã làm cho việc trao đổi hàng hoá, luân chuyển vốn, lao động và công nghệ trên thị trường thế giới diễn ra sôi động. Các hoạt động kinh tế bao gồm sản xuất và tiêu thụ hàng hoá vượt ra khỏi biên giới của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và diễn ra trên phạm vi thị trường toàn cầu, đời sống kinh tế thế giới được quốc tế hoá cao độ. Ðó chính là quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế là một phương thức chủ yếu. Hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện ở các biện pháp mở cửa thị trường, tự do hoá nền kinh tế của một quốc gia hoặc việc tham gia của quốc gia này vào các cam kết thoả thuận hợp tác kinh tế thương mại song phương (giữa hai nước với nhau), khu vực (tham gia vào một tổ chức hợp tác giữa các nước trong cùng một khu vực địa lý, ví dụ như ASEAN, EU, Bắc Mỹ, Nam Á...), đa phương ở phạm vi toàn cầu như tham
- Trang 12 gia vào Tổ chức thương mại thế giới - WTO. Mục tiêu bao trùm, lớn nhất và nhất quán của việc hội nhập kinh tế quốc tế, dù ở cấp độ đơn phương của một quốc gia hay tham gia các định chế khu vực hay toàn cầu đều hướng tới việc tự do hoá thương mại và đầu tư ở tầm quốc gia, khu vực và thế giới. Nắm bắt được xu thế khách quan của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới, Việt Nam đã tiến hành các chính sách đổi mới kinh tế, mở cửa và cải cách nền kinh tế. Trong quá trình này, hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một bộ phận không thể tách rời của quá trình đổi mới và chủ động hội nhập là một chủ trương lớn của Việt Nam. Ngày nay, nếu chiếc xe máy đã trở thành một vật dụng thông thường của mỗi người dân thành thị thì chiếc tivi cũng đã trở thành một vật dụng bình thường trong mỗi gia đình ở nông thôn Việt Nam. Chúng ta có thể thấy rõ rằng, phần lớn khối lượng tài sản vật chất, tiện nghi trong mỗi gia đình cũng như mức sống và các dịch vụ học hành, khám chữa bệnh, văn hoá, thể thao...của người dân chủ yếu được nâng cao trong khoảng 10 - 15 năm trở lại đây. Ðó chính là những thành tựu mà quá trình mở cửa, hội nhập nền kinh tế Việt Nam với thế giới đem lại. - Tháng 7/1995, Việt Nam được kết nạp làm thành viên của Hiệp hội các nước Ðông Nam Á (ASEAN) và tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA). - Năm 1996, Việt Nam trở thành nước tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á- Âu (ASEM) - Năm 1997, Việt Nam là thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC) - Việt Nam đã thiết lập quan hệ thương mại với hơn 150 nước trên thế giới. Việt Nam đã ký kết 87 hiệp định thương mại song phương, trong đó có hiệp định lớn nhất là Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ - Việt Nam đã ký kết hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 48 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Mỗi năm, thu hút hàng tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. - Hiện tại, Việt Nam đã đến đích trên con đường trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới. Ngày 28/11/2006, Quốc hội đã thông qua Nghị định thư gia nhập WTO như vậy sau 30 ngày Việt Nam sẽ chính thức trở thành thành viên WTO. Ngân hàng là một trong những ngành chịu sức ép nhiều nhất như kinh doanh chứng khoán, ngân hàng, phân phối và hỗ trợ vận tải biển
- Trang 13 Cùng với cải cách kinh tế và mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng trở thành tiêu điểm và nhân tố ảnh hưởng quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và quá trình trình quản lý của các cơ quan nhà nước. Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành những xung lực cho quá trình đổi mới và phát triển của nền kinh tế và hệ thống tài chính Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng thể hiện ở sự hội tụ quốc tế tương đồng trên các giác độ thể chế, chính sách; hoạt động và tư duy, nhận thức. Trong những năm qua và các năm tới đây ngành Ngân hàng Việt Nam tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng là “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, đồng thời “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, WTO…”. Trong năm 2005, Việt Nam ký kết được 13 chương trình, dự án do WB và ADB tài trợ với tổng trị giá gần 1,2 tỷ USD và đàm phán thêm 5 dự án nữa với trị giá 550 triệu USD, nâng tổng số khoản vay từ các tổ chức này lên 108 chương trình, dự án với tổng trị giá cam kết vốn vay hơn 9 tỷ USD. Tổng số vốn giải ngân của các chương trình, dự án kể trên trong năm 2005 đạt trên 350 triệu USD. Hầu hết các khoản vay này dành để đầu tư cho các dự án quốc gia trên các lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, văn hoá, xã hội, y tế, giáo dục, môi trường có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG) và phát triển bền vững (tăng trưởng kinh tế nhanh, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia,…). Ngoài ra, NHNN tiếp nhận dự án hỗ trợ kỹ thuật của Tổ chức CIDA Canada gần 7 triệu USD để hỗ trợ cho quá trình phát triển NHNN trở thành NHTW hiện đại. Cách đây 5 năm, thẻ ATM, thẻ tín dụng hay thẻ thanh toán vẫn còn là xa lạ với hầu hết người dân, nhưng cho đến hiện giờ thẻ ATM được sử dụng rộng rãi, thanh toán lương cho người lao động bằng chuyển khoản trở nên phổ biến ở các công ty. Đó là một trong những lợi ích mà hội nhập quốc tế mang lại, mang lại những tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực ngân hàng. Ngân hàng thương mại cổ phần ACB được tạp chí The
- Trang 14 Asian banker- một tạp chí uy tín trong lĩnh vực tài chính trao tặng danh hiệu “ngân hàng bán lẻ xuất sắc nhất Việt nam năm 2005” trong tổng cộng 120 ngân hàng và tổ chức tài chính của 17 quốc gia thuộc khu vực Châu Á- Thái bình dương ứng cử. Phần nào nói lên được sự trưởng thành và lớn mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hội nhập Tổ chức Thương mại thế giới là một dấu mốc lớn trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng, mở ra một chân trời mới với nhiều tiềm năng xen lẫn những thách thức ở phía trước. 1.2.2 Sự cần thiết hội nhập WTO của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam Hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới, là điều kiện tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế quốc gia đi vào quỹ đạo chung của thế giới thông qua việc tận dụng được dòng chảy vốn khổng lồ cùng với công nghệ tiên tiến. Đẩy mạnh hội nhập ngân hàng, xây dựng hệ thống ngân hàng vững mạnh trở thành kênh dẫn nhập vốn hàng đầu, là “bà đỡ” tốt nhất cho nền kinh tế đang cần vốn như Việt Nam đang từng bước chuyển dịch cơ cấu vốn theo định hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Trong quá trình hội nhập quốc tế, các NHTM không chỉ thực hiện vai trò quan trọng phân phối lại vốn đầu tư, mà còn là nơi chuyển tải thông tin kinh tế, thậm chí là nơi xuất phát những thay đổi và những rối loạn về kinh tế vĩ mô. Bằng chứng cụ thể là hệ thống ngân hàng yếu kém, mở rộng tín dụng quá mức, nợ khó đòi gia tăng là một trong những nguyên nhân tiềm ẩn thúc đẩy cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, và trì hoãn phục hồi kinh tế. Khi một hệ thống tài chính thiếu lành mạnh thì nguồn vốn FDI, ODA sẽ bị sút giảm, phân bổ và sử dụng không hiệu quả các nguồn vốn gây tác động tiêu cực đến kinh tế quốc gia, đó chính là sự lãng phí nguồn vốn, hiệu quả đầu tư thấp, kéo theo tệ nạn tham nhũng gây rối loạn kinh tế. Trước bối cảnh hội nhập tài chính quốc tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi can thiệp các cơ quan chính quyền, tình trạng tài chính yếu kém, khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện, công nghệ ngân hàng tụt hậu so với các nước, nợ khó đòi cao, môi trường kinh tế vĩ mô chưa ổn định đã đặt hệ thống ngân hàng vào tình thế rủi ro khá cao. Vì vậy lĩnh vực ngân hàng cần nhanh chóng hội nhập cùng với hệ thống ngân hàng khu vực và thế giới, xây dựng hệ thống ngân hàng có năng lực cạnh tranh vững mạnh đáp ứng đầy đủ yêu cầu về vốn và cung ứng sản phẩm dịch vụ cho nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập. Vào WTO để tạo áp lực
- Trang 15 NHTM Việt Nam tự cải cách mình, nâng cao vị thế cạnh tranh. Việt Nam cần phải đưa ra những cải cách hợp lý về thể chế và pháp lý, công cuộc cải cách này trong xu thế hội nhập quốc tế là quá trình phức tạp và không thể hoàn thành trong một sớm một chiều. Tuy nhiên cái giá phải trả do cải cách chậm trễ và của việc duy trì hệ thống ngân hàng yếu kém chính là: tăng trưởng chậm, bỏ qua những thời cơ thuận lợi để phát triển kinh tế và hạn chế khả năng tận dụng được lợi ích từ hội nhập tài chính quốc tế. 1.2.3 Trình tự các bước chuẩn bị cho sự hội nhập của NHTM: Từ nhận thức được sự cần thiết hội nhập tài chính quốc tế của hệ thống ngân hàng thương mại, các ngân hàng thay vì ngồi chờ đợi cơn lũ các nhà đầu tư nước ngoài với tiềm lực tài chính mạnh tràn về để rồi sẽ bị nó cuốn phăng ra khỏi sân chơi rộng lớn này, thì các ngân hàng này phải chủ động tự thay da đổi thịt để có thể đứng vững trước cuộc cạnh tranh khốc liệt ngay trên sân nhà - Các ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường hợp tác để tạo ra sức mạnh tổng hợp của hệ thống ngân hàng Việt Nam, nhưng vẫn đảm bảo phát huy được các lợi thế của mỗi ngân hàng Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, việc xác định đúng năng lực và vị thế của mình cũng như của các đối tác liên minh chiến lược, các đối thủ cạnh tranh hiện hữu và tiềm năng có ý nghĩa quan trọng đối với sự thành công trong hoạt động ngân hàng, “biết người biết ta trăm trận trăm thắng”. Trước hết, mỗi ngân hàng cần tập trung xây dựng và thực hiện chiến lược, kế hoạch và chính sách tăng cường năng lực cạnh tranh của mình, đặc biệt là các năng lực thiết yếu: tài chính, công nghệ, quản trị ngân hàng và nguồn nhân lực chất lượng cao. Vấn đề không chỉ tạo ra và gia tăng năng lực từng mặt nêu trên mà điều quan trọng hơn là phải sử dụng hợp lý, có hiệu quả từng yếu tố cũng như kết hợp sử dụng tốt tất cả các yếu tố này; riêng đối với nguồn nhân lực chất lượng cao, do có vai trò quyết định đối với năng lực cạnh tranh của ngân hàng, vì vậy, các ngân hàng cần gia tăng và sử dụng hợp lý hơn nguồn kinh phí dành để đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhằm đáp ứng các yêu cầu mới. Cần xuất phát từ tầm nhìn và chiến lược phát triển để xác định đúng cơ cấu, lựa chọn đúng các đối tượng và lĩnh vực cần tập trung đào tạo ở trong và ngoài nước nhằm cập nhật và nâng cao kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ ngân hàng hiện đại cho cán bộ ngân hàng.
- Trang 16 Mặt khác, mỗi ngân hàng cần xác định và tìm cách trả lời chính xác các câu hỏi như: trong từng lĩnh vực và mỗi thị trường cụ thể, có thể và nên lựa chọn sản phẩm và phân khúc thị trường nào để có thể giành và phát huy ưu thế; Để chuẩn bị các điều kiện có thể cạnh tranh với các đối thủ là các ngân hàng nước ngoài có nhiều thế mạnh hơn, các ngân hàng trong nước vừa cần tập dượt cạnh tranh với nhau vừa phải hợp tác để giải quyết các vấn đề có chung mối quan tâm và lợi ích như hợp tác xây dựng và khai thác kết cấu hạ tầng kỹ thuật ngành, kể cả trong việc đào tạo nguồn nhân lực, chia sẻ kinh nghiệm quản trị kinh doanh ngân hàng - Đổi mới và nâng cao công nghệ Hiện nay, các ngân hàng thương mại đã thấy sự cấp thiết và đang từng bước cố gắng hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và coi đây là một trong những trụ cột chính để nâng cao năng lực cạnh tranh và đảm bảo sự phát triển bền vững. Nhiều hệ thống công nghệ và phần mềm tiên tiến cần được áp dụng để xử lý các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. Công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý và lưu trữ hệ thống dữ liệu khổng lồ một các chính xác, nhanh chóng nhằm nâng cao tính hiện đại của dịch vụ ngân hàng cung cấp - Xác định tầm nhìn và xây dựng chiến lược phát triển bền vững của mỗi ngân hàng Đưa ra mục đích, phương hướng hành động cho một thời gian dài (ít ra là trên 10 năm) được thể hiện những bản sắc riêng có của ngân hàng, đồng thời, phù hợp với những xu hướng phát triển trong tương lai; Quan điểm và chính sách của ngân hàng trong việc phục vụ lợi ích của các nhóm khách hàng; Đưa ra các nguyên tắc để có thể xây dựng cơ chế theo dõi, giám sát, điều chỉnh và đánh giá hiệu quả công việc theo các phương hướng hành động đã được hoạch định. Một trong những mục tiêu chủ yếu của chiến lược phát triển của mỗi ngân hàng cần xác định rõ ràng là cải thiện và nâng cao lên mức độ cần đạt tới về năng lực cạnh tranh của ngân hàng mình trong tương quan so sánh với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. - Lựa chọn và xây dựng mô hình ngân hàng hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế; tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm quốc tế, phát huy bản sắc vốn có của mỗi ngân hàng Trải nghiệm qua quá trình phát triển hàng trăm năm, ở các nước trên thế giới đã hình thành nên các mô hình tổ chức hoạt động ngân hàng khác nhau nhưng đã và đang
- Trang 17 được hướng tới những chuẩn mực tiên tiến và thông lệ tốt của các ngân hàng hiện đại. Có thể hiểu ngân hàng hiện đại là những ngân hàng đạt trình độ cao về công nghệ, tổ chức quản lý và hoạt động ngân hàng nhờ áp dụng các thành tựu mới của khoa học và công nghệ liên quan. Do tính đa dạng, phức tạp của các sản phẩm dịch vụ và hoạt động ngân hàng; sự chênh lệch về trình độ và đặc thù phát triển khác nhau của các nước, không thể có một mô hình chung, duy nhất có thể áp dụng cho mọi ngân hàng trên tất cả các nước; vì vậy, mỗi ngân hàng cần phải dành nhân lực và thời gian để nghiên cứu lựa chọn, xây dựng một mô hình tiên tiến, phù hợp với các điều kiện cụ thể của quốc gia và ngân hàng mình. Trên cơ sở này, khi nghiên cứu tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, không được áp dụng máy móc mô hình của bất kỳ ngân hàng nào mà chủ yếu cần xác định đúng các yếu tố mang tính phổ biến, bắt buộc và tìm cách áp dụng; bên cạnh đó, mỗi ngân hàng cần tìm ra và cố gắng phát huy những thế mạnh riêng có và cần được bổ sung vào những nét chung, mang tính phổ biến để làm cho mô hình tổ chức ngân hàng thực phong phú, đa dạng, vừa phù hợp với xu hướng chung nhưng vẫn có hàm chứa các bản sắc riêng và chính điều này mới mang lại năng lực cạnh tranh đích thực cho mỗi ngân hàng. - Đổi mới tư duy và cách thức quản lý hoạt động thị trường tài chính - tiền tệ trong điều kiện mới Trước những thay đổi trong môi trường kinh doanh ngân hàng khi hội nhập, việc quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như sự quản trị, điều hành của mỗi ngân hàng cũng cần có những đổi mới mạnh mẽ và cơ bản: các cơ quan quản lý nhà nước cần dành cho thị trường nhiều quyền tự do và tạo môi trường thuận lợi trong khuôn khổ luật pháp được thiết lập, giảm thiểu cách quản lý quá chi tiết, can thiệp sâu; Qui trình, chất lượng soạn thảo, ban hành các quyết định quản lý về hoạt động ngân hàng sẽ phải được tuân thủ chặt chẽ, đầy đủ hơn; Tiến hành nghiên cứu sâu đối với thực tiễn hoạt động và phát triển của các thị trường và các ngân hàng thương mại để kịp thời có những cơ chế, chính sách quản lý cho phù hợp và không ngừng cải thiện, hoàn thiện các điều kiện pháp lý cho môi trường kinh doanh ngân hàng rõ ràng, minh bạch và thuận lợi hơn; Đối với lãnh đạo của các tổ chức tín dụng (nhất là các tổ chức tín dụng nhà nước), cần tập trung thực hiện các giải pháp nhằm thực sự tạo nên năng lực đủ sức cạnh tranh sòng phẳng với các đối thủ khác trên thị trường. - Thâm nhập và tham gia cạnh tranh trên các thị trường khu vực và quốc tế
- Trang 18 Cùng với việc mở cửa nền kinh tế, thu hút các luồng vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ nước ngoài, các ngân hàng sẽ phải từng bước thâm nhập, mở rộng sang một số thị trường lựa chọn ở các nước khu vực và thế giới. Thứ nhất, các ngân hàng cần bám sát và hỗ trợ tích cực hơn cho các doanh nghiệp trong hoạt động xuất - nhập khẩu hoặc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đồng thời tìm hiểu luật pháp liên quan ở từng nước, khu vực để xây dựng chiến lược và cách thức thâm nhập, mở rộng hoạt động (nếu đã có) cho phù hợp. Các ngân hàng Việt Nam cũng có thể mở văn phòng đại diện, chuẩn bị để tiến tới mở chi nhánh ở nước ngoài. 1.2.4 Các bài học kinh nghiệm của hệ thống ngân hàng các nước khi tham gia hội nhập tài chính quốc tế Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hệ thống tài chính– ngân hàng cạnh tranh và mở cửa là những hệ thống hỗ trợ hiệu quả cho phát triển và tăng trưởng kinh tế. Cạnh tranh sẽ làm cho hệ thống ngân hàng vững mạnh, hiệu quả và lành mạnh hơn. Do vậy, các nước đang phát triển nói chung mong muốn hội nhập quốc tế, hội nhập WTO để phát triển và cải cách hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao khả năng thu hút và phân bổ các nguồn lực, tạo thuận lợi cho các tổ chức kinh tế có thể tiếp cận các dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao hơn nhưng với chi phí thấp hơn. Về mặt chính sách nhằm khuyến khích hội nhập WTO, chính phủ các nước thường thực hiện mở cửa tiếp cận thị trường, đối xử quốc gia, xây dựng môi trường chính sách trong nước hỗ trợ cho cạnh tranh, từng bước cho phép các ngân hàng nước ngoài cạnh tranh trong một sân chơi công bằng và tạo thuận lợi cho các tổ chức tín dụng trong nước thâm nhập thị trường quốc tế, đồng thời chính phủ các nước cũng áp dụng các tiêu chuẩn thông lệ tốt nhất của quốc tế liên quan đến hoạt động ngân hàng làm cho thương mại và luân chuyển vốn quốc tế tự do hơn. Mức độ hội nhập đạt được trên thực tế tuỳ thuộc vào sự phản hồi của các ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng trong nước đối với các cơ hội do sự thay đổi chính sách tạo ra. Hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng được thể hiện thông qua: mức độ sở hữu nước ngoài trong các ngân hàng trong nước; thị phần dịch vụ ngân hàng của các ngân hàng nước ngoài; phạm vi áp dụng các tiêu chuẩn, qui chế và quy định theo thông lệ quốc tế; và phạm vi dịch vụ ngân hàng cung cấp cho các hội gia đình và doanh nghiệp là người cư trú. Cụ thể: - Các nước phát triển:
- Trang 19 Mở cửa hội nhập ngành ngân hàng diễn ra sau khi các nước đã phát triển một hệ thống tài chính – ngân hàng ở mức độ nhất định. Các nước phát triển tiến hành hội nhập quốc tế với các đặc điểm như sau: thị trường vốn tương đối phát triển và thường được tự do hoá trước khi mở cửa hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng thương mại quốc doanh thường được tổng công ty hoá trước khi tư nhân hoá. Đối với một số ngân hàng vẫn thuộc sở hữu nhà nước, chính phủ sẽ thành lập một pháp nhân độc lập thay mặt chính phủ đóng vai trò cổ đông. Quá trình tư nhân hoá các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước không cần các đối tác chiến lược vì đa số các ngân hàng ở các nước phát triển đã có đủ nội lực để hoạt động theo sở hữu tư nhân. - Một số nước châu Á sau khủng hoảng tài chính: Ở các nước này, hội nhập nhìn chung mới diễn ra gần đây, phần lớn là do yêu cầu phải cải cách lại hệ thống ngân hàng đã bị tổn thất nghiêm trọng. Quá trình hội nhập của các nước này có một số đặc điểm chung: các ngân hàng bị sụp đổ và yếu kém được sáp nhập và một số bị quốc hữu hoá khi chính phủ phải đứng ra xử lý các khoản nợ của ngân hàng. Các ngân hàng này được tư nhân hoá ngay khi đã hồi phục thông qua việc cấp vốn bổ sung và bán danh mục nợ xấu. Các ngân hàng nước ngoài được mời làm đối tác chiến lược để tiếp quản điều hành các ngân hàng yếu kém. Đồng thời Chính phủ các nước này cũng mở rộng phạm vi dịch vụ mà các ngân hàng nước ngoài được phép cung cấp và thực hiện cải cách mạnh mẽ trong lĩnh vực thanh tra, giám sát an toàn theo hướng làm cho ngân hàng trung ương độc lập hơn. Một số tách riêng vai trò thanh tra, giám sát và chính sách tiền tệ bằng cách thành lập cơ quan thanh tra riêng. Ngoài ra, các nước cũng tăng cường và áp dụng nghiêm túc các luật điều chỉnh về quyền sở hữu của các ngân hàng. - Một số nước Đông Âu chuyển đổi: Các nước thuộc Đông Âu cũ nhìn chung đều nhanh chóng hội nhập hệ thống tài chính của mình. Tại một số nước, quá trình hội nhập được thực hiện thông qua việc áp dụng một cách dập khuôn toàn bộ hệ thống ngân hàng mới theo nền kinh tế thị trường thay thế cho hệ thốngngân hàng một cấp trước đây. Ngoài ra, nhiều nước Đông Âu tăng cường các hoạt động hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng với kỳ vọng sớm đáp ứng được các tiêu chuẩn để ra nhập EU. Các bước hội nhập phổ biến nhất đối với các nước này là: kiên quyết giảm sở hữu nhà nước trong các ngân hàng; Cho phép người nước ngoài mua cổ phần chi phối trong các ngân hàng đã từng là ngân hàng
- Trang 20 thương mại quốc doanh các nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu quan tâm mua lại các ngân hàng hoạt động yếu kém và không muốn thành lập các ngân hàng mới khó cạnh tranh với các ngân hàng trong nước. Các nước với các ngân hàng thương mại quốc doanh được tư nhân hoá sớm đã thu được nhiều lợi ích bao gồm: Các luồng tiết kiệm trong nước tăng lên, lòng tin của dân chúng vào hệ thống ngân hàng và chính phủ tăng lên, các chương trình cải cách cơ cấu kinh tế hiệu quả hơn. Ngân hàng nước ngoài hầu như được quyền tự do tối đa đã đem vào cả ba thứ mà hệ thống ngân hàng trong nước rất cần đó là nguồn vốn, trình độ quản lý và công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, việc Chính phủ cho phép nhà đầu tư nước ngoài chiếm quyền sở hữu quá nhiều trong các ngân hàng không phải là hay khi mà họ chi phối hoạt động của các ngân hàng này. Vào năm 2002, Ba Lan, một trong những nước mà các ngân hàng nước ngoài chiếm thị phần ít nhất cũng lên đến 60%, trong khi Hungary hay Estonia lên đến 99%. - Trung Quốc: Trung Quốc là trường hợp điển hình thực hiện hội nhập quốc tế khu vực ngân hàng thông qua các cam kết trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Tiến trình hội nhập quốc tế của Trung Quốc được tiến hành từng bước và được hỗ trợ bằng các chương trình cải cách nhằm củng cố khu vực ngân hàng và các khu vực tài chính khác, đồng thời với quá trình cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Phương pháp hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng của Trung Quốc bao gồm tự do hoá các hạn chế đối với sự tham gia và hoạt động của các ngân hàng nước ngoài thông qua việc cho phép thành lập “mới” các ngân hàng 100% vốn nước ngoài và cho phép mua các cổ phần thiểu số mang tính chất đối tác chiến lược trong các ngân hàng thương mại quốc doanh trung bình hoặc lớn hơn nhưng không được quyền chi phối. Các ngân hàng thương mại quốc doanh lớn sẽ thu hút các luồng vốn quốc tế thông qua việc phát hành cổ phiếu lần đầu trên các thị trường quốc tế và có thể bán cho các đối tác chiến lược. Quá trình cải cách này được tiến hành đồng thời với các biện pháp tăng cường công tác thanh tra, giám sát (thiết lập một cơ quan thanh tra ngân hàng độc lập) nhằm phát triển các thị trường vốn, cải thiện các công cụ và điều hành chính sách kinh tế vĩ mô. Khi Trung Quốc bắt đầu vào WTO họ cũng không tránh khỏi những lo sợ tương tự Việt Nam. Nhưng đến nay, khi hầu hết các cam kết mở cửa đã có hiệu lực, một kết quả vượt quá kỳ vọng đối với ngành ngân hàng Trung Quốc đã xảy ra. Nhìn vào các bản tin tài chính tiền tệ thế giới trong một năm trở lại đây sẽ thấy rằng, về góc độ vĩ
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng tới sự lựa chọn điểm đến của người dân Hà Nội: Nghiên cứu trường hợp điểm đến Huế, Đà Nẵng
0 p | 491 | 38
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của chính sách tiền tệ lên các yếu tố kinh tế vĩ mô
145 p | 293 | 31
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Kinh nghiệm điều hành chính sách tiền tệ của Thái Lan, Indonesia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
193 p | 104 | 27
-
Luận án Tiễn sĩ Kinh tế: Chiến lược kinh tế của Trung Quốc đối với khu vực Đông Á ba thập niên đầu thế kỷ XXI
173 p | 171 | 24
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hiệu quả kinh tế khai thác mỏ dầu khí cận biên tại Việt Nam
178 p | 227 | 20
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp tỉnh Long An
253 p | 63 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 210 | 17
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế chính trị: Vai trò Nhà nước trong thu hút đầu tư phát triển kinh tế biển ở thành phố Hải Phòng
229 p | 16 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế phát triển: Phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân ở Việt Nam
217 p | 11 | 10
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ trên địa bàn thành phố Hà Nội
216 p | 15 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hữu hiệu của kiểm soát nội bộ tại các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú du lịch các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam
265 p | 15 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại các doanh nghiệp khai thác than thuộc Tập đoàn công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam
232 p | 14 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu tác động của thay đổi công nghệ đến chuyển dịch cơ cấu lao động trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo ở Việt Nam
217 p | 10 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế học: Bất bình đẳng trong sử dụng dịch vụ y tế ở người cao tuổi
217 p | 5 | 4
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế quốc tế: Ứng dụng thương mại điện tử trên nền tảng di động tại doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
217 p | 9 | 4
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế chính trị: Vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với liên kết du lịch - Nghiên cứu tại vùng Nam Đồng bằng sông Hồng
224 p | 12 | 3
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế học: Tác động của đa dạng hóa xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế - Bằng chứng thực nghiệm từ các nước đang phát triển
173 p | 13 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn