Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Tổ chức kế toán trách nhiệm tại các đơn vị trực thuộc Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn
lượt xem 11
download
Nội dung của luận án gồm 3 chương với các nội dung cơ sở lý luận về tổ chức kế toán trách nhiệm trong doanh nghiệp; thực trạng tổ chức kế toán trách nhiệm tại các đơn vị trực thuộc Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn; hoàn thiện tổ chức kế toán trách nhiệm tại các đơn vị trực thuộc Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Tổ chức kế toán trách nhiệm tại các đơn vị trực thuộc Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của cán bộ hướng dẫn khoa học. Kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào. Tôi xin cam đoan rằng những phần kế thừa, tham khảo cũng như tham chiếu đều được trích dẫn đầy đủ và nghi rõ nguồn tham khảo cụ thể trong danh mục các tài liệu đã được tham khảo. Hà Nội, ngày…..tháng……năm…… Tác giả luận án Cao Thị Huyền Trang 1
- 2
- LỜI CẢM ƠN Tác giả xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Tuấn Anh và PGS.TS Nguyễn Thị Hồng Nga đã tận tình hướng dẫn Tác giả trong suốt quá trình thực hiện Luận án. Tác giả xin bày tỏ sự cảm ơn tới các Thầy, Cô Khoa Kế toán – Học Viện Tài Chính đã giúp đỡ Tác giả trong quá trình học tập và nghiên cứu. Tác giả xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình và quý báu của các nhà quản lý, bộ phận kế toán, phòng nhân sự, phòng kế hoạch… tại các công ty là các đơn vị trực thuộc Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước giải khát Sài Gòn trong quá trình Tác giả khảo sát, thu thập tài liệu, phiếu điều tra. Cuối cùng, Tác giả bày tỏ sự cảm ơn tới Ban lãnh đạo Khoa Kế toán – Kiểm toán trường ĐH Công nghiệp Hà Nội, những người thân trong gia đình đã tạo điều kiện, động viên, giúp đỡ Tác giả trong suốt quá trình học tập và thực hiện Luận án. 3
- MỤC LỤC 4
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BSC Thẻ điểm cân bằng CBCNV Cán bộ công nhân viên CP Biến độc lập: Chi phí tổ chức KTTN CL Biến độc lập: Chiến lược kinh doanh của DN NT Biến độc lập: Nhận thức về KTTN của NQTDN CPBH Chi phí bán hàng CPQLDN Chi phí quản lý doanh nghiệp CPTM Cổ phần thương mại CT Biến độc lập: Sự cạnh tranh của môi trường kinh doanh DN Doanh nghiệp EBIT Lợi nhuận trước thuế và lãi vay EVA Giá trị kinh tế gia tăng GĐ Giai đoạn HCTH Hành chính – tổng hợp HĐQT Hội đồng quản trị KTQT KTQT KTTC Kế toán tài chính KTTN KTTN NQTDN Nhà quản trị doanh nghiệp PC Biến độc lập: Sự phân cấp quản lý PX Phân xưởng QM Biến độc lập: Quy mô doanh nghiệp RI Lợi nhuận còn lại ROI Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước giải khát Sài SABECO Gòn SG – HN Sài gòn – Hà nội SXC Sản xuất chung TC Biến phụ thuộc: Tổ chức KTTN trong DN TCKT Tài chính – kế toán TNHH Trách nhiệm hữu hạn TTTN Trung tâm trách nhiệm DANH MỤC SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ 5
- 6
- DANH MỤC BẢNG BIỂU 7
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây kế toán quản trị (KTQT) nói chung và các công cụ KTQT nói riêng nhận được nhiều sự quan tâm, chú ý và nghiên cứu của các học giả nhiều nước trên thế giới. KTQT được nghiên cứu cả về học thuyết lẫn thực hành tại các doanh nghiệp, đặc biệt là tại những nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi, nơi mà có sự chênh lệch tương đối về trình độ phát triển của nền kinh tế và trình độ của quản trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc nghiên cứu và áp dụng KTQT tại các quốc gia này trong đó có Việt Nam còn khá nhiều hạn chế do những nghiên cứu học thuật trong lĩnh vực này còn chưa nhiều và chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của các nhà quản trị doanh nghiệp. Do đó, cần có những nghiên cứu mang tính chất hệ thống, có khoa học về tổ chức KTQT trong các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng trở nên gay gắt. Dưới tác động mạnh mẽ của kỷ nguyên số, nhiều cơ hội và thách thức đang đặt ra cho doanh nghiệp Việt Nam. Các chuyên gia kinh tế, nhà quản lý đều cho rằng, nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ và sâu rộng với khu vực và thế giới. Hệ quả của các hiệp định thương mại tự do đặt ra nhiều cơ hội và thách thức lớn, nếu không cải thiện năng lực cạnh tranh, nguy cơ thua trên sân nhà của doanh nghiệp Việt Nam là rất cao. Nâng cao năng lực cạnh tranh không chỉ là nhu cầu cấp thiết, liên tục và lâu dài mà còn là nội dung sống còn của doanh nghiệp và nền kinh tế. Để các doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển bền vững, ngoài sự hỗ trợ từ các cơ quan nhà nước và xã hội, các doanh nghiệp cần phải tự thay đổi, nâng cao những nội lực của chính mình, trong đó, doanh nghiệp cần xây dựng được một hệ thống các công cụ quản lý hữu hiệu nhằm đưa ra các quyết định kinh doanh một cách nhanh chóng, chính xác và linh hoạt. Một trong những công cụ quản lý đắc lực hiện nay trong quá trình quản lý, điều hành và kiểm soát hoạt động kinh doanh của nhà quản trị doanh nghiệp chính là hệ thống KTQT, trong đó KTTN là một nội dung quan trọng. KTTN nhằm mục đích tạo ra hệ thống thông tin tài chính và phi tài 8
- chính có liên quan về những hoạt động thực tế và được lập kế hoạch, giúp nhà ̉ ̣ ̉ ̣ ộng cua nh quan tri kiêm soát và đánh giá hoat đ ̉ ưng b ̃ ộ phạn trong doanh nghi ̂ ẹp, ̂ đồng thơi đánh giá trách nhi ̀ ẹm quan lý cua nhà quan tri các câp. T ̂ ̉ ̉ ̉ ̣ ́ ừ đó, giúp các nhà ̉ ̣ quan tri các câp có nh ́ ưng thông tin h ̃ ưu ích trong vi ̃ ẹc ra quyêt đ ̂ ́ ịnh để đạt được ̣ muc tiêu chung. Đồng thơi KTTN cung thúc đ ̀ ̃ ẩy, khuyên khích các nhà quan tri phát ́ ̉ ̣ ̆ lực quan huy nang ̉ lý cuả mình góp phân ̀ nâng cao hiẹu ̂ quả quan lý ̉ cuả doanh nghiẹp. KTTN có vai trò quan trong trong công tác quan lý cua doanh nghi ̂ ̣ ̉ ̉ ẹp nhung ̂ ̛ vân còn là n ̃ ọi dung tuong đ ̂ ̛ ̛ ối mơi không chi trong th ́ ̉ ực tê mà ca trong nghiên c ́ ̉ ứu đối vơi Vi ́ ẹt Nam, m ̂ ạc dù KTQT nói chung và KTTN nói riêng đã đ ̆ ược các nước ́ ơi đ trên thê gi ́ ề cập và phát triên trong nhi ̉ ều thập kỷ qua. Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) là một đơn vị có nhiều công ty thành viên, phạm vi hoạt động trải rộng, cơ chế quản lý tài chính đối với các công ty thành viên cũng khá đa dạng nên việc kiểm soát và đánh giá thành quả quản lý của từng đơn vị, bộ phận, cá nhân ở các công ty và toàn bộ Tổng công ty vẫn còn những bất cập cần tiếp tục phải hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu quản lý trong giai đoạn hiện nay. Từ nhiều năm nay, dù đã có nhiều thương hiệu thất bại, nhưng các hãng bia nước ngoài vẫn tiếp tục đổ bộ vào thị trường Việt Nam. Do đó, với ngành công nghiệp đồ uống, thị trường dường như chịu tác động trực tiếp nhất của các chính sách mở cửa thị trường. Đến nay, thị trường bia rượu nước giải khát Việt Nam đã có sự tham gia của rất nhiều hãng đồ uống nước ngoài khiến cho sự cạnh tranh thị phần càng thêm gay gắt. Để tồn tại và phát triển đòi hỏi Tổng công ty phải có những chính sác, chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh, trong đó phụ thuộc rất nhiều yếu tố như giá cả, chất lượng, chính sách marketing,..Bên cạnh các chiến lược nhằm nâng cao năng lực sản xuất, tăng chất lượng sản phẩm thì Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước giải khát Sài Gòn cần khai thác hiệu quả các công cụ quản lý kinh tế quản lý phù hợp. Mọt trong ̂ nhưng công cu quan lý và kiêm soát qu ̃ ̣ ̉ ̉ ản lý hiẹu qua hi ̂ ̉ ẹn nay cho các doanh nghi ̂ ẹp̂ là hệ thông KTTN. Có th ́ ể nói việc tổ chức mang tính chất hệ thống và khoa học KTTN, nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc tổ chức KTTN và tại các đơn vị trực thuộc Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước giải khát Sài Gòn là cần thiết. 9
- Nhằm mục đích hệ thống hóa cơ sở lý luận về tổ chức KTTN trong các doanh nghiệp, kết hợp với những vấn đề thực tiễn liên quan đến đặc điểm quản lý, sản xuất kinh doanh tại các đơn vị thành viên trực thuộc Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước giải khát Sài Gòn, tác giả đã lựa chọn đề tài "Tổ chức kế toán trách nhiệm tại các đơn vị trực thuộc Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước giải khát Sài Gòn" làm đề tài nghiên cứu của mình nhằm hoàn thiện tổ chức KTTN tại các DN này. 2. Tổng quan nghiên cứu Hiện nay đã có rất nhiều nghiên cứu đã được công bố trên thế giới và tại Việt Nam liên quan đến KTTN, KTTN không chỉ được nghiên cứu ở mặt lý thuyết mà còn được nghiên cứu ứng dụng vào một số ngành cụ thể. Mỗi quốc gia có môi trường kinh doanh, môi trường văn hóa, hệ thống pháp lý, trình độ quản lý, cơ sở vật chất, khoa học công nghệ kỹ thuật khác nhau nên trình độ phát triển KTTN cũng khác nhau. Mỗi công trình nghiên cứu đưa ra một góc nhìn khác nhau về KTTN, sau đây là tổng quan một số công trình liên quan đến đề tài nghiên cứu. 2.1. Những nghiên cứu về nội dung tổ chức KTTN trong doanh nghiệp Nội dung tổ chức KTTN trong các doanh nghiệp vẫn đang là một vấn đề chưa có sự thống nhất trong giới các nhà nghiên cứu. Sau đây là một vài quan điểm nổi bật có liên quan Theo Gordon (1963) tổ chức KTTN bao gồm bốn nội dung chính: Xác định các trung tâm chi phí và lợi nhuận; xây dựng quy tắc xác định giá bán của hàng hóa, dịch vụ và quy tắc phân bổ chi phí cho các trung tâm trách nhiệm; thiết lập hệ thống quy định hành chính về quyền hạn và trách nhiệm của nhà quản lý các cấp; đưa ra một cấu trúc phần thưởng liên quan đến kết quả điều hành của nhà quản lý các cấp. Theo Corr and Parris (1976) KTTN bao gồm: Chỉ định trách nhiệm cho các nhà quản lý các cấp; xây dựng chi phí tiêu chuẩn cho các trung tâm trách nhiệm; kết hợp chi phí tiêu chuẩn và một mức độ hoạt động để xây dựng dự toán. Như vậy, so với nghiên cứu trước đó của Gordon (1963), nghiên cứu này không nhấn mạnh đến sự 10
- khác biệt giữa các loại trung tâm trách nhiệm mà chỉ đề cập đến việc chỉ định trách nhiệm cho các nhà quản lý, đồng thời nghiên cứu này cũng không đề cập đến cấu trúc phần thưởng liên quan đến hiệu suất quản lý. Nghiên cứu của Sethi (1977) chỉ ra rằng tổ chức KTTN tập trung vào ba nội dung chính: Thiết lập trung tâm trách nhiệm (Chi phí / Lợi nhuận); thiết kế hệ thống tài khoản phù hợp nhằm thu thập thông tin liên quan đến các trung tâm trách nhiệm; xây dựng hệ thống dự toán theo các trung tâm trách nhiệm; đánh giá hiệu suất quản lý thông qua phân tích chênh lệch thực tế và dự toán. Nghiên cứu này có nhiều sự tương đồng với nghiên cứu của Gordon (1963), tuy nhiên nghiên cứu này đề cập sâu hơn đến việc xây dựng dự toán theo các trung tâm trách nhiệm và đánh giá hiệu suất quản lý bằng việc so sánh các kết quả thực tế và dự toán. Theo Harris (1977), tổ chức KTTN bao gồm: xác định trách nhiệm của nhà quản lý về từng khoản mục doanh thu và chi phí; mỗi nhà quản lý xây dựng dự toán các khoản thu nhập và chi phí thuộc trách nhiệm của mình; nhà quản lý cấp cao sẽ xem xét và sửa đổi ngân sách. Theo Allen (1984), các bước để tổ chức một hệ thống trách nhiệm hiệu quả bao gồm: xác định trách nhiệm và thẩm quyền của nhà quản lý các cấp; xác định mối quan hệ giữa các trung tâm trách nhiệm; xây dựng dự toán ngân sách theo các trung tâm trách nhiệm. So với các nghiên cứu trước đó, những nghiên cứu này chưa có sự khác biệt trong việc đưa ra các nội dung tổ chức KTTN, ngoại trừ sự khác biệt trong nhận diện các loại trung tâm trách nhiệm. Theo Hansen Don R. (2005), tổ chức KTTN được xác định bởi bốn yếu tố quan trọng là: Tổ chức phân công trách nhiệm; tổ chức thiết lập các tiêu chuẩn hiệu suất; tổ chức đánh giá hiệu suất; tổ chức hệ thống phần thưởng. Trên cơ sở các yếu tố này hệ thống KTTN có thể ba loại: dựa trên chức năng, dựa trên hoạt động và dựa trên chiến lược hệ thống kế toán. Nghiên cứu này về cơ bản có sự thống nhất với các nghiên cứu trước về các nội dung tổ chức KTTN, tuy nhiên có sự khác biệt trong việc đưa ra ba loại KTTN khác nhau để triển khai các nội dung KTTN. Và một số nghiên cứu đi vào chi tiết hơn về các nội dung KTTN như: Nghiên cứu của Sollenberger (1990) cho rằng tổ chức KTTN có sáu nội dung, bao gồm: xác định các trung tâm chi phí; thiết lập hệ thống tài khoản để mã hóa dữ liệu kế toán; 11
- thiết lập mục tiêu quản lý để tạo tiêu chí và mức độ đánh giá hiệu suất; thiết lập trách nhiệm quản lý; xác định quy trình xây dựng ngân sách liên quan đến trách nhiệm của nhà quản lý các cấp; xem xét các chênh lệch ngân sách để sửa đổi kế hoạch. Một hệ thống được thiết kế tốt kết hợp các nhiệm vụ lập kế hoạch và kiểm soát. Tác giả Gharayba (2011) cho rằng tổ chức KTTN bao gồm: Phân chia cơ cấu tổ chức bên trong công ty thành các trung tâm chịu trách nhiệm; ủy quyền cho người quản lý trung tâm trách nhiệm với quyền hạn rõ ràng và xác định trách nhiệm về kết quả thực hiện cuối cùng của trung tâm trách nhiệm của họ; phân bổ chi phí và doanh thu cho các trung tâm chịu trách nhiệm, xác định giá chuyển đổi giữa các trung tâm trách nhiệm; lập dự toán ngân sách theo các trung tâm trách nhiệm; sử dụng ngân sách để kiểm soát và đánh giá hiệu suất thông qua so sánh hiệu suất thực tế với kế hoạch thực hiện của từng trung tâm trách nhiệm; chuẩn bị các báo cáo phân tích sai lệch về hiệu suất thực tế của kế hoạch; thiết lập một hệ thống ưu đãi liên quan đến kết quả của các trung tâm trách nhiệm. Các nghiên cứu này có góc nhìn cụ thể, chi tiết hơn về các nội dung tổ chức KTTN và đặc biệt các nghiên cứu này nhấn mạnh đến kỹ thuật kế toán trong KTTN. Theo Tác giả Nguyễn Thị Minh Phương (2013), Tổ chức kế toán trách nhiệm tổ chức thực hiện các nội dung KTTN khác nhau theo các loại trung tâm trách nhiệm, tuy nhiên về cơ bản bao gồm: nhận diện các trung tâm trách nhiệm; đưa ra các chỉ tiêu, phương pháp đánh giá các trung tâm trách nhiệm và cuối cùng là xây dựng hệ thống báo cáo đánh giá các trung tâm trách nhiệm. Nghiên cứu này có cách tiếp cận tương đối khác so với các nghiên cứu trước và cho rằng tổ chức KTTN là vận dụng các phương pháp kế toán, tài chính để thực hiện các nội dung KTTN. Nguyễn Hữu Phú (2014) đưa ra ba nội dung chính đề tổ chức kế toán trách nhiệm trong doanh nghiệp: thứ nhất là xác định trung tâm trách nhiệm trong doanh nghiệp; thứ hai là đưa ra hệ thống chỉ tiêu đánh giá các trung tâm trách nhiệm; thứ ba là tổ chức hệ thống báo cáo kế toán trách nhiệm. Xét về nội dung tổ chức KTTN, nghiên cứu này không có sự khác biệt so với nghiên cứu trước đó. Có thể thấy nội dung tổ chức KTTN đã được rất nhiều học giả nghiên cứu nhận định. Thông qua tổng quan, có những quan điểm cho rằng KTTN chỉ bao gồm ba nội dung chính như chỉ định trách nhiệm cho nhà quản lý các cấp; xây dựng chi 12
- phí tiêu chuẩn cho các trung tâm trách nhiệm; kết hợp chi phí tiêu chuẩn và một mức độ hoạt động để xây dựng dự toán (Corr and Parri, 1976; Harris, 1977; Allen, 1984). Có một số tác giả thì cho rằng nội dung tổ chức KTTN không chỉ dùng lại ở ba nội dung kể trên mà còn bao gồm một số nội dung khác liên quan đến việc đánh giá hiệu suất quản lý theo các trung tâm trách nhiệm và xây dựng hệ thống khen thưởng theo hiệu suất quản lý (Gordon, 1963; Sethi, 1977; Hansen Don R., 2005; Sollenberger, 1990; Gharayba, 2011; Nguyễn Thị Minh Phương, 2013; Nguyễn Hữu Phú, 2014). Như vậy, cần tổng hợp và làm sáng tỏ hơn lý luận về nội dung tổ chức KTTN. 2.2. Những nghiên cứu về nhận diện và phân loại các trung tâm trách nhiệm trong doanh nghiệp Có thể thấy rằng, trong các nghiên cứu đã đưa ra có sự khác biệt trong quan điểm nhận diện, đặc điểm, phân loại, số lượng trung tâm trách nhiệm, có thể kể ra một số nghiên cứu điển hình sau: Theo Gordon (1963), tổ chức KTTN trong doanh nghiệp bắt đầu từ việc nhận diện các trung tâm trách nhiệm, có hai loại TTTN là trung tâm chi phí và lợi nhuận. Tác giả Sethi (1977) cũng đồng nhất quan điểm này. Tuy nhiên, theo Harris (1977), tổ chức TTTN là xác định trách nhiệm của nhà quản lý về từng khoản mục doanh thu và chi phí. Một số các nghiên cứu sau đó của các Tác giả Sollenberger (1990), Liao (1973), Tác giả Melumad. N và cộng sự (1992), Tác giả Garrison và cộng sự (2010),...lại cho rằng có ba loại trung tâm trách nhiệm bao gồm: trung tâm chí phí, trung tâm lợi nhuận và trung tâm đầu tư. Nghiên cứu của Liao (1973) đã chỉ ra bản chất của KTTN là sự tích lũy chi phí và doanh thu theo các trung tâm trách nhiệm. Người quản lý của mỗi trung tâm trách nhiệm sẽ phải chịu trách nhiệm về hiệu quả mà các quyết định của họ mang lại. Hệ thống trung tâm lợi nhuận được xem như là một giải pháp lý tưởng cho các vấn đề tạo ra bởi sự tăng trưởng của DN. Tác giả Nahum Melumadvà cộng sự (1992) chỉ ra rằng trung tâm trách nhiệm là một cách thức quản trị phổ biến của các tổ chức lớn. Có ba loại trung tâm trách nhiệm quen thuộc là trung tâm lợi nhuận, trung tâm chi phí và trung tâm đầu tư. 13
- Điểm chung cho các loại trung tâm trách nhiệm khác nhau là các quyền ra quyết định được giao cho nhà quản lý TTTN với các hướng dẫn để tối ưu hóa một số chỉ tiêu hiệu suất tài chính như chi phí, lợi nhuận hoặc doanh thu. Người quản lý trung tâm có quyền quyết định đối với các quyết định nội bộ. Dowd (2001) đã chỉ ra sự không đồng nhất của các sản phẩm càng cao và công nghệ sản xuất càng đa dạng thì mức độ tách sản phẩm càng cao (chia nhỏ sản phẩm cho mục đích thu thập và báo cáo chi phí), có nhiều trung tâm chi phí và tài khoản chi phí hơn. Có nghĩa là càng có sự kết hợp sản phẩm thì việc sử dụng KTTN càng nhiều, càng có nhiều công nghệ sản xuất được sử dụng thì càng có nhiều trung tâm chi phí. Nghiên cứu này chỉ tập trung nghiên cứu yếu tố ảnh hưởng đến việc nhận diện và nhân loại trung tâm chi phí. Schoute (2008) khảo sát 125 doanh nghiệp để điều tra mối quan hệ giữa bốn nhân tố: cơ hội đầu tư của doanh nghiệp, quy mô, đa dạng hóa và cường độ vốn với trung tâm đầu tư. Kết quả cho thấy việc sử dụng các trung tâm đầu tư (trái ngược với các trung tâm lợi nhuận) có mối quan hệ cùng chiều với quy mô và cường độ vốn của các công ty nghiên cứu, tuy nhiên có mối quan hệ ngược chiều với đa dạng hóa thị trường của họ, tức là cơ hội tăng trưởng của họ. Tuy nhiên, những kết quả này khác nhau giữa các công ty sản xuất và phi sản xuất. Nghiên cứu này đề cập đến các nhân tố ảnh hưởng đến việc nhận diện, phân loại và sử dụng trung tâm chi phí và trung tâm đầu tư. Tác giả Garrison và cộng sự (2010) cho rằng các tổ chức phi tập trung cần các hệ thống kế toán trách nhiệm nhằm liên kết các nhà quản lý cấp thấp bằng việc gắn liền quyền ra quyết định với trách nhiệm giải trình về kết quả của các quyết định đó. Khái niệm trung tâm trách nhiệm được sử dụng cho bất kỳ bộ phận nào của tổ chức mà người quản lý có quyền kiểm soát và chịu trách nhiệm về chi phí, lợi nhuận hoặc vốn đầu tư. Có ba loại trung tâm trách nhiệm chính là trung tâm chi phí, trung tâm lợi nhuận và trung tâm đầu tư. Theo Freeman và cộng sự (2004), Kế toán trách nhiệm phân chia một tổ chức lớn thành các bộ phận nhỏ hơn để dễ dàng quản lý hơn, đó chính là các trung tâm trách nhiệm. Mô hình trung tâm trách nhiệm là một phương tiện hiệu qu ả để đạt 14
- được kiểm soát tài chính trong nhiều ngành công nghiệp. Có bốn loại trung tâm trách nhiệm, bao gồm: Trung tâm chi phí, trung tâm doanh thu, trung tâm lợi nhuận và trung tâm đầu tư. Trung tâm tâm trách nhiệm có thể đượ c chỉ định dựa trên các yếu tố dưới sự kiểm soát của ngườ i quản lý. Một số Tác giả khác cũng đồng tình với quan điểm trên khi cho rằng có bốn loại trung tâm trách nhiệm là rung tâm chi phí, trung tâm doanh thu, trung tâm lợi nhuận và trung tâm đầu tư như: Al Adam và cộng sự ( 2006); Al Hanini, E. (2013) Tác giả Trần Văn Dung (2002) nghiên cứu về KTQT chi phí phí sản xuất và giá thành tại một số doanh nghiệp đại diện cho các doanh nghiệp sản xuất ở Việt Nam. Tác giả đã đề xuất xây dựng trung tâm chi phí cho các doanh nghiệp sản xuất, theo hai dạng trung tâm chi phí là trung tâm chính và trung tâm phụ. Cách phân chia trung tâm trách nhiệm của Tác giả căn cứ từ chức năng hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp. Trong đó, trung tâm chính thực hiện nhiệm vụ chính của doanh nghiệp như: quá trình mua hàng, quá trình sản xuất sản phẩm, quá trình tiêu thụ và cung cấp sản phẩm ra bên ngoài. Trung tâm phụ là trung tâm quản lý và điều hành SXKD trong doanh nghiệp như: bộ phận hành chính, quản trị, kinh doanh, nhân sự. Tác giả Lê Đức Toàn (2002) nghiên cứu về tổ chức mô hình KTQT đã đưa ra đề xuất tổ chức thành bốn loại trung tâm trách nhiệm: Trung tâm chi phí, trung tâm doanh thu, trung tâm lợi nhuận và trung tâm đầu tư. Tác giả đưa ra đề xuất các chỉ tiêu đánh giá trách nhiệm trung tâm chi phí và trung tâm đầu tư: Trung tâm chi phí được đánh giá thông qua định mức chi phí, dự toán chi phí và tỷ lệ chi phí trên doanh thu; trung tâm đầu tư được đánh giá thông qua tỷ lệ hoàn vốn và lợi nhuận giữ lại. Nghiên cứu này đã bao quát được các loại trung tâm trách nhiệm khác nhau tuy nhiên mới chỉ đề xuất được một số chỉ tiêu đánh giá hiệu suất quản lý cho trung tâm chi phí và trung tâm đầu tư mà chưa đưa ra cho trung tâm doanh thu và trung tâm lợi nhuận. Nguyễn Thị Minh Phương (2013) chỉ ra sau khi doanh nghiệp có sự phân cấp quản lý rõ ràng, tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng thông tin, quan điểm đánh giá trách nhiệm trung tâm trong tổ chức, cần xác định về số lượng trung tâm trách nhiệm: số 15
- lượng trung tâm trách nhiệm 2, 3 hay 4 loại trung tâm là tùy thuộc vào quy mô sản xuất, cơ cấu quản lý và mức độ phân cấp quản lý của doanh nghiệp, đảm bảo chức năng kiểm soát và đánh giá trách nhiệm quản lý của các nhà quản trị các cấp trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Với những doanh nghiệp có quy mô lớn, nên xây dựng 4 loại trung tâm trách nhiệm, còn những doanh nghiệp quy mô sản xuất và hoạt động nhỏ hơn nên tổ chức 3 hoặc 2 loại trung tâm. Tác giả cho rằng trung tâm doanh thu chỉ là trung tâm trung gian giữa trung tâm chi phí và lợi nhuận. Trong quá trình xác lập số lượng và loại trung tâm trách nhiệm cần cân nhắc giữa chi phí bỏ ra và lợi ích thu được. So với các nghiên cứu trước, nghiên cứu này chỉ ra quan điểm rất rõ ràng về số loại, số lượng trung tâm trách nhiệm được thiết lập trong các doanh nghiệp và nhận định điều này phụ thuộc vào đặc điểm riêng biệt của từng doanh nghiệp. Theo Tác giả Nguyễn Ngọc Quang (2014), trung tâm trách nhiệm là một bộ phận trong tổ chức hoạt động mà nhà quản trị bộ phận chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của bộ phận mình đối với nhà quản trị cấp cao. Trong doanh nghiệp, dựa trên cơ sở phân cấp tài chính mà phát sinh nhiều loại trung tâm trách nhiệm khác nhau như trung tâm chi phí, trung tâm doanh thu, trung tâm lợi nhuận, trung tâm đầu tư. Như vậy, Thông qua các nghiên cứu trên có thể thấy rằng: Tổ chức nhận diện và phân loại trung tâm trách nhiệm phải cụ thể, dễ hiểu và không chồng chéo, mỗi người quản lý của mỗi trung tâm trách nhiệm sẽ phải chịu trách nhiệm về hiệu quả mà các quyết định của họ mang lại, cũng như hiệu quả hoạt động của trung tâm trách nhiệm, số loại và số lượng trung tâm trách nhiệm trong một doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Trong các nghiên cứu đã tổng quan ở trên, có quan điểm cho rằng có ba loại trung tâm trách nhiệm: trung tâm đầu tư, trung tâm lợi nhuận, trung tâm chi phí; một số nghiên cứu lại chỉ ra có bốn loại trung tâm trách nhiệm: trung tâm đầu tư, trung tâm lợi nhuận, trung tâm doanh thu, trung tâm chi phí trong đó bao gồm trung tâm chi phí chính và trung tâm chi phí phụ. Do đó, để nhận diện và phân loại các trung tâm trách nhiệm tại các DN cần căn cứ vào đặc điểm hoạt động sản xuất kinh danh của 16
- từng doanh nghiệp để xác định loại trung tâm trách nhiệm, số lượng trung tâm trách nhiệm cho phù hợp với từng doanh nghiệp khác nhau. 2.3. Những nghiên cứu về việc tổ chức xây dựng dự toán theo các trung tâm trách nhiệm trong DN Okwo và cộng sự (2005) đã khảo sát việc ứng dụng KTTN trong khu vực công, nghiên cứu đã kiểm tra khái niệm KTTN, Các bước thực hiện KTTN, trung tâm trách nhiệm, đánh giá hiệu suất và kế toán dự toán trong khu vực công. Kết luận đã chỉ ra rằng dự toán là một điều kiện tiên quyết cho một hệ thống KTTN hiệu quả. Như vậy nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của nội xây dựng dự toán khi xây dựng hệ thống KTTN, tuy nhiên chưa đi vào làm rõ các nội dung để xây dựng hệ thống dự toán. Trong nghiên cứu của Moses Nyakuwanika (2012), nhóm tác giả đã đặt vấn đề đưa ra các chiến lược nhằm đảm bảo sự hiệu quả của hệ thống KTTN trong Bộ Y tế và phúc lợi trẻ em (MOHCW) ở tỉnh Mashonaland phía Tây của Zimbabwe. Nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát nhân viên từ 14 trạm trong tỉnh. Kết quả khảo sát cho thấy rằng các phòng ban đã hoạt động với hệ thống bắt buộc, không có sự phối hợp trong việc lập kế hoạch và kiểm soát. Ngoài ra kết quả khảo sát cũng cho biết rằng các báo cáo hiệu suất đã được sử dụng để đánh giá công tác quản lý và các báo cáo hiệu suất không được gửi đến cho các nhà quản lý bộ phận một cách thường xuyên. Nghiên cứu đưa ra khuyến nghị rằng cần có sự tham gia của các nhà quản lý bộ phận vào việc xây dựng dự toán và đề xuất của họ nên được thực hiện và kết hợp trong dự toán tổng thể. Al Hanini, E. (2013) nghiên cứu đã đưa ra một số đề xuất như sau: các trung tâm trách nhiệm cần thiết lập mục tiêu và thiết lập dự toán ngân sách của các trung tâm trách nhiệm theo từng mục tiêu chuyên biệt phù hợp với chuyên môn và khả năng tiềm tàng của họ. Theo Tác giả Đoàn Xuân Tiên (2009), Hệ thống dự toán sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có liên quan mật thiết đến các quá trình kinh doanh cơ bản như: quá trình mua hàng, quá trình sản xuất, quá trình tiêu thụ sản phẩm. Mỗi quá trình 17
- có yêu cầu quản lý khác nhau, do đó chỉ tiêu dự toán phải được xây dựng riêng cho từng quá trình. Các chỉ tiêu dự toán cũng có mối quan hệ ràng buộc nhau, tạo thành hệ thống các chỉ tiêu dự toán. Thông qua nghiên cứu có thể thấy rằng khi xây dựng hệ thống dự toán theo các trung tâm trách nhiệm cần phải xây dựng theo các chỉ tiêu khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm của từng loại trung tâm trách nhiệm, tuy nhiên cần có sự gắn kết chặt chẽ giữa các chỉ tiêu này. Tác giả Nguyễn Ngọc Quang (2014) cho rằng hệ thống dự toán sản xuất kinh doanh hằng năm bao gồm các bảng dự toán riêng biệt, được lập chi tiết tới từng bộ phận, từng sản phẩm, dịch vụ, từng thời hạn để hoàn thành nên dự toán tổng thể của doanh nghiệp. Các dự toán có mỗi quan hệ chặt chẽ, mật thiết, qua lại với nhau nhằm thực hiện mục tiêu chung của doanh nghiệp. Như vậy theo Tác giả, hệ thống dự toán phải được lập chi tiết theo từng trung tâm trách nhiệm, từng sản phẩm, hàng hóa, từng thời hạn hoàn thành, từ đó xây dựng thành dự toán tổng thể. Thông qua các nghiên cứu về lập dự toán theo các trung tâm trách nhiệm, có thể thấy rằng: Hệ thống dự toán theo các trung tâm trách nhiệm là một nội dung quan trọng trong tổ chức kế toán trách nhiệm, trong đó dự toán theo các trung tâm trách nhiệm cần phải được xây dựng theo từng mục tiêu chuyên biệt phù hợp với chuyên môn và khả năng tiềm tàng của các trung tâm trách nhiệm. Tuy nhiên, các nghiên cứu chưa đi vào làm rõ nội dung, phương pháp xây dựng hệ thống dự toán theo các trung tâm trách nhiệm. 2.4. Những nghiên cứu về tổ chức thu nhận, xử lý dữ liệu và đánh giá trách nhiệm quản lý, cung cấp thông tin theo các trung tâm trách nhiệm. Kellog (1962) cho rằng việc thiết kế các hệ thống KTTN nên được hướng dẫn bởi các quy tắc tương tự như áp dụng cho kế toán chi phí: xác định tài khoản để các mục chi phí có thể được ghi lại nhanh chóng trong tài khoản thích hợp mà không cần phân tích chi tiết; mỗi tài khoản phải đại diện cho một nhóm chi phí để thuận lợi cho việc phân tích; tất cả các khoản chi phí phải được ghi lại chi tiết theo trách nhiệm của bộ phận và cá nhân cụ thể. Nghiên cứu này đi sâu vào việc thu nhận, xử lý và phân tích thông tin cho trung tâm chi phí mà chưa đề cập đến các loại trung tâm trách nhiệm khác. 18
- Một số nghiên cứu nhấn mạnh đến đặc điểm thông tin cần thu nhận và xử lý chỉ là thông tin có thể kiểm soát được theo các trung tâm trách nhiệm như : Sethi (1977) nhận định KTTN hoạt động hiệu quả theo hai nguyên tắc cơ bản: Thứ nhất, cơ cấu tổ chức phải được phân chia rõ ràng mà không bị trùng lặp. Thứ hai, các chi phí có thể kiểm soát và không được kiểm soát phải được tách biệt rõ ràng. Antle & Demski (1988) cho rằng việc áp dụng KTTN trong tổ chức cần nắm vững nguyên tắc cơ bản nhất, đó là chỉ nên đánh giá kết quả quản lý thông qua những gì mà họ kiểm soát. KTTN có hai khía cạnh là kiểm soát và thông tin, cần có sự cân đối giữa hai khía cạnh này trong quá trình thực hiện. Shih (1997 ) đã điều tra cách các công ty thiết kế hệ thống đánh giá hiệu suất cho các nhà quản lý nhà máy tại các công ty sản xuất lớn của Canada. Nghiên cứu cho rằng những người quản lý này có thể được đánh giá chủ yếu về kiểm soát chi phí hoặc lợi nhuận. Tác giả Mojgan (2012) cho rằng hệ thống KTTN được thiết kế để báo cáo và tích luỹ chi phí theo mức trách nhiệm cá nhân. Mỗi khu giám sát chỉ được tính phí với chi phí chịu trách nhiệm và chi phí mà nó có quyền kiểm soát. Tuy nhiên các nghiên cứu này chưa đưa ra định hướng xử lý, phân tích các thông tin được thu nhận như thế nào. Một số nghiên cứu liên quan đến việc cung cấp thông tin kế toán trách nhiệm như: Tác giả Phạm Văn Dược (2010) nghiên cứu hệ thống báo cáo đánh giá trách nhiệm quản lý trong doanh nghiệp thương mại. Từ việc thiết lập hệ thống trung tâm trách nhiệm nhằm cung cấp thông tin phục vụ kiểm soát, đánh giá trách nhiệm quản trị của các cấp quản lý đến việc xây dựng hệ thống báo cáo đánh giá trách nhiệm quản lý trong doanh nghiệp thương mại. Nghiên cứu đã xác định một số điều kiện thực hiện cũng như một số giải pháp trong quy trình xây dựng hệ thống báo cáo đánh giá trách nhiệm quản lý trong các doanh nghiệp thương mại. Tác giả Trần Văn Tùng (2010) nghiên cứu xác định một số điều kiện để thực hiện quy trình xây dựng hệ thống báo cáo đánh giá trách nhiệm quản trị trong các công ty niêm yết như: xác định rõ động cơ, mục tiêu chung và xây dựng mô hình tổ chức quản lý phù hợp; có bộ máy phân cấp quản lý rõ ràng, từ đó hình thành những trung tâm trách nhiệm cụ thể; xây dựng hệ thống định mức liên quan đến các chỉ tiêu của các báo 19
- cáo trách nhiệm; lựa chọn và sử dụng các phương pháp phân bổ chi phí gián tiếp và phân tích báo cáo bộ phận; định giá sản phẩm, dịch vụ chuyển giao nội bộ. Tác giả Nguyễn Thị Minh Phương (2013), Tổ chức kế toán trách nhiệm vận dụng hệ thống phương pháp bao gồm: hệ thống phương pháp dự toán, hệ thống phương pháp cung cấp các thông tin thực hiện của các trung tâm trách nhiệm, hệ thống phương pháp phân tích, đánh giá trách nhiệm của các trung tâm trách nhiệm để thực hiện các nội dung kế toán trách nhiệm theo các trung tâm trách nhiệm. Như vậy có thể thấy rằng trong nghiên cứu này Tác giả đề cập việc thu nhận, xử lý, phân tích thông tin kế toán trách nhiệm như là một kỹ thuật kế toán để thực hiện các nội dung KTTN. Thông qua các nghiên cứu trên có thể thấy rằng khi thu nhận, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin theo các trung tâm trách nhiệm cần thực hiện theo một số nguyên tắc như: Các chi phí có thể kiểm soát và không được kiểm soát phải được tách biệt rõ ràng; cần xây dựng hệ thống tài khoản chi tiết để có thể thu thập, xử lý thông tin theo các trung tâm trách nhiệm; chỉ nên đánh giá kết quả quản lý thông qua những gì mà họ kiểm soát. Nội dung thực hiện đã đưuọc đề cập trong các nghiên cứu, tuy nhiên các nghiên cứu chưa đưa được quy trình thu nhận, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin theo các trung tâm trách nhiệm 2.5 Một số nghiên cứu về tổ chức xây dựng hệ thống khen thưởng theo trách nhiệm quản lý Hiện nay, hệ thống khen thưởng trong các DN Việt Nam không được coi như là một phần của hệ thống kế toán. Tuy nhiên, tại một số quốc gia phát triển hệ thống khen thưởng được coi là một phần quan trọng trong hệ thống KTTN trong DN, việc xây dựng hệ thống khen thưởng theo trách nhiệm quản lý sẽ giúp gia tăng hiệu quả hoạt động của các nhà quản lý doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ tổ chức nói chung. Có thể kể ra một số nghiên cứu điển hình về tổ chức xây dựng hệ thống khen thưởng theo trách nhiệm quản lý như sau: Theo Gross và cộng sự (2004), hệ thống khen thưởng là một phần quan trọng trong chiến lược nguồn nhân lực của tổ chức. Mô hình phần thưởng truyền thống 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng tới sự lựa chọn điểm đến của người dân Hà Nội: Nghiên cứu trường hợp điểm đến Huế, Đà Nẵng
0 p | 491 | 38
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của chính sách tiền tệ lên các yếu tố kinh tế vĩ mô
145 p | 293 | 31
-
Luận án Tiễn sĩ Kinh tế: Chiến lược kinh tế của Trung Quốc đối với khu vực Đông Á ba thập niên đầu thế kỷ XXI
173 p | 171 | 24
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hiệu quả kinh tế khai thác mỏ dầu khí cận biên tại Việt Nam
178 p | 227 | 20
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp tỉnh Long An
253 p | 63 | 18
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phân tích tác động của thiên tai đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát tại Việt Nam
209 p | 184 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 210 | 17
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế chính trị: Vai trò Nhà nước trong thu hút đầu tư phát triển kinh tế biển ở thành phố Hải Phòng
229 p | 16 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế phát triển: Phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân ở Việt Nam
217 p | 11 | 10
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ trên địa bàn thành phố Hà Nội
216 p | 15 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hữu hiệu của kiểm soát nội bộ tại các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú du lịch các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam
265 p | 15 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại các doanh nghiệp khai thác than thuộc Tập đoàn công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam
232 p | 14 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu tác động của thay đổi công nghệ đến chuyển dịch cơ cấu lao động trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo ở Việt Nam
217 p | 10 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế học: Bất bình đẳng trong sử dụng dịch vụ y tế ở người cao tuổi
217 p | 5 | 4
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế quốc tế: Ứng dụng thương mại điện tử trên nền tảng di động tại doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
217 p | 9 | 4
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế chính trị: Vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với liên kết du lịch - Nghiên cứu tại vùng Nam Đồng bằng sông Hồng
224 p | 12 | 3
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế học: Tác động của đa dạng hóa xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế - Bằng chứng thực nghiệm từ các nước đang phát triển
173 p | 13 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn