Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn: Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái
lượt xem 49
download
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 4 chương: Chương 1 Tổng quan về đề tài nghiên cứu, Chương 2 Khuynh hướng văn xuôi sinh thái Việt Nam sau năm 1975, Chương 3 Cảm hứng phê phán từ điểm nhìn phê bình sinh thái, Chương 4 Kiến lập cảm quan đạo đức sinh thái.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn: Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT CON NG¦êI Vµ Tù NHI£N TRONG V¡N XU¤I VIÖT NAM SAU N¡M 1975 Tõ GãC NH×N PH£ B×NH SINH TH¸I Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 62.22.01.02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Lê Lưu Oanh
- HÀ NỘI 2015
- LỜI CẢM ƠN LuËn án ®îc hoµn thµnh díi sù híng dÉn khoa häc cña PGS - TS Lª Lu Oanh. Chóng t«i xin ch©n thµnh c¶m ¬n PGS cïng tËp thÓ c¸c nhµ khoa häc thuéc chuyªn ngµnh LÝ luËn v¨n häc, Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi ®· gióp ®ì chóng t«i trong qu¸ tr×nh nghiªn cøu. Ngêi viÕt còng xin c¶m ¬n sù gióp ®ì, chia sÎ cña b¹n bÌ, ®ång m«n vµ nh÷ng ngêi th©n trong thêi gian thùc hiÖn luËn án. LuËn án ®îc viÕt b»ng niÒm yªu thÝch ®Æc biÖt víi vÊn ®Ò nghiªn cøu, tuy nhiªn kh«ng tr¸nh khái nh÷ng thiÕu sãt, chóng t«i mong nhËn ®îc nh÷ng nhËn xÐt, gãp ý tõ b¹n ®äc. T¸c gi¶ Trần Thị Ánh Nguyệt
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được hoàn thành với sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của nhiều nhà khoa học. Các số liệu, kết quả được trình bày trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận án Trần Thị Ánh Nguyệt
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghiên cứu văn học sau khi “trở về chính mình” với những lí thuyết nh ư chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hình thức, phê bình mới… chủ yếu quan tâm đến những phương diện nội tại của tác phẩm dường như nhiều khi trở nên tự thu hẹp, khó tiếp cận với những vấn đề đương đại rộng lớn. Mặt khác, các trường phái nghiên cứu văn học hiện nay với những mối bận tâm về con người: phê bình phân tâm học, phê bình Marxism , lí thuyết tiếp nhận… trên thực tế đã đạt được nhiều thành tựu nhưng có lẽ “đang trong giai đoạn thác ghềnh và thỉnh thoảng mất phương hướng” [150, xvii]. Cần phải tìm một hướng đi khác cho nghiên cứu văn học. Do vậy hiện nay, bên cạnh những hướng nghiên cứu văn học trước đó vẫn đang có những tìm tòi mới mẻ và đạt được nhiều thành tựu thì cũng xuất hiện sự chuyển hướng văn hóa trong nghiên cứu văn học, xuyên qua văn học để quan sát sự đổi thay văn hóa, nghiên cứu ý thức văn hóa được thể hiện như thế nào trong văn học, nghiên cứu ý thức về xã hội, ý thức về môi trường thể hiện trong văn học. Thế kỉ XXI là thế kỉ mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng con người phải đối mặt với nhiều nguy cơ sinh thái nhất. Trong xã hội hiện đại, cùng với tốc độ đô thị hóa và sự ỷ lại vào khoa học kĩ thuật con người đang ngày càng quay lưng với tự nhiên, khai thác quá mức, khiến cho tự nhiên ngày càng cạn kiệt. Thiên nhiên trả thù con người không phải chỉ bằng các thảm họa, thiên tai, mà đáng sợ hơn, trả thù bằng sự biến mất của chính nó. Cái “dây chuyền sống” huyền diệu của tạo hóa đang ngày càng bị phá hủy. Phê bình sinh thái (ecocritisim) nổi lên khi vấn đề biến đổi khí hậu, sự xuống cấp về môi trường không còn là vấn đề của mỗi quốc gia dân tộc nữa, nó ảnh hưởng đến sự sống. Văn học quan tâm đến sự sống cho nên khúc ngoặt của phê bình sinh thái xét đến cùng lại liên quan đến bản thể của văn học. Trên thế giới, khởi phát từ Anh – Mĩ, phê bình sinh thái đang là một trào lưu năng động hiện nay, thu hút sự quan tâm ngày càng nhiều hơn các nước ngoài phương Tây. Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tình trạng biến
- đổi khí hậu, nước biển dâng, mưa bão, lũ lụt... Sống ở vùng đất nhạy cảm với những đổi thay của môi trường, hẳn nhiên điều đó sẽ ánh xạ vào tác phẩm, nhất là với nhà văn đa cảm, trắc ẩn. Ý thức sinh thái này đã được nhiều tác giả văn xuôi sau năm 1975 đề cập đến: sự hủy hoại môi sinh dẫn tới việc mất cân bằng tự nhiên; quá trình đô thị hóa, nền kinh tế thị trường khiến con người rời xa môi trường sinh thái, con người trở thành nạn nhân, công cụ của thương mại… Do vậy văn học có khuynh hướng tìm về biểu hiện mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, có một tư duy sinh thái trong việc nhận diện, phân tích và thể hiện những nỗi đau môi trường, số phận con người trong cuộc khủng hoảng môi sinh cũng như hướng con người sống có trách nhiệm với thiên nhiên, biết hòa mình vào tự nhiên để được thanh thản, cân bằng trong cuộc sống…Từ hướng nghiên cứu này, có một cách tiếp cận riêng trên con đường khám phá một trong những hấp dẫn của văn học Việt Nam sau 1975 và qua đó kết nối văn học với những vấn đề thiết cốt của nhân loại về trách nhiệm của con người trong khủng hoảng môi sinh. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài luận án là Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái. Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên chúng tôi hiểu như sau: Thứ nhất, từ cái nhìn sinh thái, chúng tôi xem xét mối quan hệ giữa con người và những yếu tố tự nhiên. Phê bình sinh thái cảnh tỉnh về nguy cơ của khủng hoảng sinh thái. Do vậy, đề tài xem xét quan hệ con người với thực thể tự nhiên để phân tích số phận con người trong cuộc khủng hoảng môi sinh, đồng thời chỉ ra những căn nguyên của những thảm họa môi trường. Mặt khác, vấn đề tự nhiên bao giờ cũng có mối liên hệ với xã hội. Do vậy, luận án cũng xem xét sự kết nối tính sinh thái với các vấn đề xã hội để thấy hành trình bóc lột tự nhiên có mối liên hệ với hành trình bất công xã hội. Từ đó, phê bình sinh thái đặt ra nhiều vấn đề về sự bất công môi trường, về nông thôn và thành thị, những vấn đề áp bức phụ nữ, vấn đề giai cấp... Từ thực trạng suy thoai môi tr ́ ương c ̀ ần thức tỉnh ý thức sinh thái và tao ra nh ̣ ưng goc nhin khac vê s ̃ ́ ̀ ́ ̀ ự sông ma co thê cung câp nên ́ ̀ ́ ̉ ́ ̀ ̉ ̣ ức va kiên th tang đao đ ̀ ́ ức cho cach hiêu đung đăn vê t ́ ̉ ́ ́ ̀ ương quan giưa cac tôn tai ̃ ́ ̀ ̣ trên trai đât. ́ ́ Thứ hai, từ cái nhìn sinh thái dưới góc độ văn học, chúng tôi "đọc" các mã
- văn học thể hiện ý thức sinh thái trên các phương diện chủ đề, motif cốt truyện, nhân vật, cảm hứng, ngôn ngữ và giọng điệu. Từ đó chỉ ra những đặc điểm của văn học sinh thái như là một xu hướng văn học có tầm quan trọng xã hội thẩm mĩ và chứa đựng bên trong những nhân tố cách tân văn học. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Dựa trên phê bình sinh thái AnhMĩ, hướng tiếp cận nảy sinh trong thời đại khủng hoảng môi trường, đề tài chỉ ra những điểm có thể vận dụng lí thuyết phê bình sinh thái để nghiên cứu dựa trên văn xuôi hư cấu sau năm 1975, chủ yếu là truyện ngắn và tiểu thuyết làm đối tượng khảo sát chính. Từ đó để thấy sự phản ứng của văn học trước những khủng hoảng sinh thái đang diễn ra. 3. Nhiệm vụ của luận án Khảo sát các tác phẩm văn xuôi sinh thái sau năm 1975; phân tích các tác phẩm dưới góc nhìn của phê bình sinh thái Đưa ra một cái nhìn toàn cảnh về văn học sinh thái Việt Nam sau năm 1975 Khảo sát những bình diện khác nhau của khuynh hướng văn xuôi sinh thái 4. Phương pháp nghiên cứu Ngoài những phương pháp được sử dụng như những thao tác thường xuyên trong nghiên cứu văn học như thống kê – phân loại, phân tích, tổng hợp, so sánh (đồng đại, lịch đại), chúng tôi sử dụng các phương pháp sau: 4.1. Phương pháp luận Vận dụng "cảm quan nhìn lại" của phê bình sinh thái làm tiền đề để nhận thức mối quan hệ giữa con người và tự nhiên xung quanh như một thực thể của chỉnh thể sinh thái. Sự nhận thức lại này sẽ giúp chúng ta nhận diện rõ hơn mối quan hệ giữa tự nhiên và văn hóa. Phương pháp liên ngành: Phê bình sinh thái là một hướng nghiên cứu liên ngành, kết hợp văn học với khoa học, phân tích tác phẩm văn chương để rút ra những cảnh báo môi trường. Luận án vận dụng những kiến thức của các ngành khoa học (sinh thái học, dân tộc học, sử học, triết học, chính trị, đạo đức...), một số loại hình nghệ thuật khác (điện ảnh, âm nhạc…) để hiểu và lý giải một số quan điểm của các tác phẩm.
- 4.2. Các phương pháp nghiên cứu khác Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Thi pháp học hiện đại đã được vận dụng để nhận diện khuynh hướng văn xuôi sinh thái qua điểm nhìn, motif cốt truyện, nhân vật, giọng điệu. Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Phương pháp này giúp xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên hệ thống mà cụ thể là những dấu hiệu lặp lại có tính quy luật của những yếu tố ấy. Trên cơ sở hệ thống hóa các yếu tố, tính chỉnh thể sẽ được bộc lộ rõ. 5. Những đóng góp mới của luận án Tổng thuật các nghiên cứu trên thế giới (chủ yếu là AnhMỹ) và Việt Nam về phê bình sinh thái. Chứng minh có một khuynh hướng văn xuôi sinh thái sau năm 1975, đặc biệt là sau năm 1986. Chỉ ra những đặc điểm của văn xuôi sinh thái như là một xu hướng văn học có tầm quan trọng xã hội thẩm mĩ và chứa đựng những nhân tố cách tân nghệ thuật. Khảo sát 2 bình diện của khuynh hướng văn xuôi sinh thái xác lập cho văn chương đương đại, là 1) cảm hứng phê phán trên tinh thần sinh thái và 2) xác lập đạo đức sinh thái. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 4 chương Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu Chương 2: Khuynh hướng văn xuôi sinh thái Việt Nam sau năm 1975 Chương 3: Cảm hứng phê phán từ điểm nhìn phê bình sinh thái Chương 4: Kiến lập cảm quan đạo đức sinh thái
- Chương 1 TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1.1. Phê bình sinh thái – Một khuynh hướng mới trong phê bình văn học 1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái Sinh thái (oikos) theo nghĩa gốc tiếng Latin là nhà ở, nơi cư trú, bất kì một sinh vật sống nào cũng cần nơi cư trú của mình. Thuật ngữ sinh thái học (ecology) có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp, bao gồm oikos (chỉ nơi sinh sống) và logos (học thuyết, khoa học). Thuật ngữ “sinh thái học” chỉ thật sự ra đời vào năm 1869 do nhà sinh vật học người Đức Ernst Haecker đưa ra. Ông là người đầu tiên đặt nền móng cho môn khoa học sinh thái về mối tương quan về động vật với các thành phần môi trường vô sinh. Trải qua hàng trăm năm phát triển, sinh thái học đã có rất nhiều định nghĩa nhưng chung nhất vẫn là học thuyết nghiên cứu về nơi sinh sống của sinh vật, mối tương tác giữa cơ thể sinh vật sống và môi trường xung quanh. Ngày nay, sinh thái học không chỉ tồn tại trong sinh học mà nó còn là khoa học của nhiều ngành khác, trong đó có khoa học xã hội và nhân văn. Với tư cách là một khuynh hướng phê bình văn hóa và văn học, phê bình sinh thái (ecocriticism), được hình thành ở Mĩ vào giữa những năm 90 của thế kỉ XX, đã hấp thu tư tưởng cơ bản của sinh thái học vào nghiên cứu văn học “dẫn nhập quan niệm cơ bản nhất của triết học sinh thái vào phê bình văn học” [89]. Trong các định nghĩa về phê bình sinh thái, định nghĩa của Glotfelty được xem là ngắn gọn và dễ hiểu hơn cả: Nói đơn giản, phê bình sinh thái là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên. Cũng giống như phê bình nữ quyền xem xét ngôn ngữ và văn học từ góc độ giới tính, phê bình Marxit mang lại ý thức của phương thức sản xuất và thành phần kinh tế để đọc văn bản, phê bình sinh thái mang đến phương pháp tiếp cận trái đất là trung tâm (earthcentered approach) để nghiên cứu văn học [150, xviii]. Để hiểu rõ hơn định nghĩa này, chúng ta cần hiểu quan niệm của phê bình sinh thái về con người/ tự nhiên, tự nhiên/ văn hóa, những vấn đề làm nên tư
- tưởng đặc thù của phê bình sinh thái. Về mặt từ nguyên, tự nhiên (nature) mà gốc Latin của nó là natura, nghĩa là “đặc điểm thuộc về tự nhiên, vũ trụ” hay natus (sự sinh ra, được sinh ra)… để phân biệt với thế giới được chế tạo, như các đồ vật được làm bởi con người. Dẫu vậy, “tự nhiên” đã trở thành một diễn ngôn mơ hồ, luôn biến đổi, nó là cái tồn tại mặc nhiên từ buổi hoang sơ, nhưng cũng là cái đã bị con người sở hữu và chiếm hữu theo nhiều cách. “Tự nhiên” do đó đã không còn là nó một cách nguyên thủy, mà các yếu tố cấu thành nó ít nhiều đều bị quy định bởi con người. Theo sự biến thiên này, cặp từ tự nhiên (nature)/ văn hóa (culture) không còn là sự đối lập đơn giản mà có sự xuyên thấm lẫn nhau. Thật khó có một thứ gì đó có thể phân loại rành mạch rõ ràng, nhất là cặp đôi “phiền phức” văn hóa/ tự nhiên. Peter Barry đã chứng minh bằng cách lấy thí dụ, cái chúng ta gọi là ‘môi trường bên ngoài’ là một chuỗi các khu vực xâm nhập, sấn chéo lên nhau và dịch chuyển dần dần từ khu vực tự nhiên sang khu vực văn hóa, theo trật tự như sau: Khu vực một: cái hoang dã (the wilderness). Thí dụ sa mạc, đại dương, những lục địa không có người sinh sống. Khu vực hai: Cảnh trí hiểm trở (the scenic sublime). Thí dụ rừng, hồ, núi, thác nước… Khu vực ba: vùng nông thôn (the countryside). Thí dụ đồi, cánh đồng, rừng cây.. Khu vực bốn: cảnh trí nhân tạo quanh nhà (the domestic picturesque). Thí dụ công viên, vườn, đường… Khi chúng ta di chuyển (trong suy nghĩ) giữa các khu vực này, rõ ràng chúng ta đã di chuyển từ khu vực thứ nhất – “thuần túy” tự nhiên sang khu vực thứ tư – phần lớn là “văn hóa”. Dĩ nhiên, cái hoang dã bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng nhà kính – vốn là do văn hóa tạo ra, và các khu vườn thì tồn tại phụ thuộc vào ánh nắng – vốn thuộc lực lượng tự nhiên [140, 252]. Do vậy, các nhà phê bình sinh thái sử dụng thuật ngữ human/ nonhuman khi chỉ mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên. Karen Thornber giải thích “sử dụng thuật ngữ "nonhuman" (thế giới phi nhân loại) để chỉ sinh học (nghĩa là, các sinh vật không phải con người) và vô sinh (có nghĩa là để nói, yếu tố vật chất không sống như không khí, nước và đất). Tôi sử dụng thuật ngữ " human" (nhân loại) để chỉ con người và công trình xây dựng của con người cả về vật chất và trí tuệ, bao gồm cả công nghệ” [158]. Phê bình sinh thái khẳng định tầm quan trọng của việc nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa nhân loại (human) và phinhânloại
- (nonhuman) trong các diễn ngôn văn hóa. Phê bình sinh thái trở thành một giải pháp khôi phục ý nghĩa và tầm quan trọng của tự nhiên với con người cũng như khẳng định vai trò của ngôn ngữ trong việc định hình và thay đổi các quan niệm về tự nhiên như lời khẳng định của Glotfelty Toàn bộ phê bình sinh thái chia sẻ những giả thuyết cơ bản mà văn hóa con người kết nối với tự nhiên, ảnh hưởng tới nó và chịu ảnh hưởng của nó. Phê bình sinh thái đặt vấn đề quan hệ nối kết giữa tự nhiên và văn hóa, đặc biệt là sự tạo tác văn hóa của ngôn ngữ và văn học. Như một quan điểm phê bình, phê bình sinh thái đặt một chân ở văn học và chân kia trên mặt đất, như là một diễn ngôn lí thuyết, phê bình sinh thái dàn xếp giữa con người (human) và (thế giới) phi nhân loại (nonhuman) [151, xix]. 1.1.2. Lịch sử phê bình sinh thái 1.1.2.1. Cội nguồn triết học của phê bình sinh thái Mặc dù nhiều nhà nghiên cứu sinh thái cho rằng phê bình sinh thái không có lịch sử của nó, nghĩa là phong trào này mới phát xuất từ những năm 70 của thế kỉ XX khi những cảnh báo về sự khủng hoảng môi trường ngày càng trầm trọng và con người ta bắt đầu nhận thấy mặt trái của văn minh kĩ trị đã ảnh hưởng đến môi trường như thế nào. Tuy nhiên, hành trình đó cũng bắt đầu bằng cách tìm cách trở về với trái đất nguyên thủy vì sự thực bất kì lí thuyết nào cũng có cội nguồn của nó. Triết học phương Tây đã manh nha các tư tưởng sau này trở thành tiền đề cho phê bình sinh thái: tư tưởng sinh thái của Rousseau, Darwin, Heidegger... Nghiên cứu về phương diện tiến hóa của Darwin đã chứng minh một cách thuyết phục bằng khoa học, giáng một đòn mạnh mẽ vào tư tưởng "con người kiểu mẫu muôn loài" có thể đứng cao hơn tất thảy. Sự thực, nhân loại và các sinh vật khác có cùng nguồn gốc trên ý nghĩa sinh vật học, do vậy, con người phải ý thức rằng tất cả các sinh vật đều có quan hệ huyết thống, cần đem sự quan tâm của con người mở rộng đến tất cả các sinh mệnh khác. Rousseau, một nhà triết học Ánh Sáng cũng đề cao việc tôn trọng tự nhiên. Ông khẳng định rằng bản chất con người là lương thiện nhưng xã hội làm cho hư hỏng và bất hạnh vì vậy cần giáo dục con người quay trở về tự nhiên. Các nhà triết học hiện tượng luận (Hussel, R. Ingarden, Heidegger, Merleau Ponty…) đi vào thế giới nhân sinh bên trong của con người, quan tâm nhiều đến tri giác. Họ cho rằng con người cảm nhận thế giới bằng chính cảm giác trực giác của mình, tất cả các chức năng cao hơn của ý thức như sự hiểu biết, ý chí đều có nguồn gốc và phụ thuộc vào sự phản ánh của chủ
- thể, rằng tồn tại thể xác chính là tri giác. Đặc biệt, phê bình sinh thái ảnh hưởng trực tiếp nhất từ tư tưởng triết học các trường phái của luân lí học môi trường phương Tây hiện đại: Đại địa luân lí học (Land Ethics), Tự nhiên giá trị luận (Theory of nature value), Động vật giải phóng (Animal liberation), Sinh thái học bề sâu (Deep ecology)… triết lí sinh thái và môi trường hiện đại tôn trọng sự tồn tại bình đẳng của tạo vật, coi mọi sinh vật trong hệ thống không có loài nào ở thế ưu trội. Arne Naes, người Na Uy trong tham luận Bề mặt và bề sâu, khoảng cách của phong trào sinh thái (The Shallow and the Deep, Longrange Ecology Movement, Inquiry 16, Spring, 1973) phát biểu tại Budapest bàn về bản chất của triết học và sinh thái, đề ra thuật ngữ Deep Ecology (Sinh thái học bề sâu) coi tự nhiên và chúng ta cùng một thể. Nguyên tắc cốt lõi của sinh thái học bề sâu là niềm tin rằng môi trường sống như một chỉnh thể cần được được tôn trọng. Môi trường sống có những quyền bất khả xâm phạm để sinh sống và phát triển, độc lập với lợi ích thực dụng của con người. Sinh thái bề sâu cho rằng thế giới tự nhiên là một sự cân bằng tinh tế của mối quan hệ phức tạp, trong đó sự tồn tại của sinh vật phụ thuộc vào sự tồn tại của những sinh vật khác trong hệ sinh thái. Can thiệp của con người hoặc phá hủy thế giới tự nhiên đặt ra một mối đe dọa do đó không chỉ đối với con người mà cho tất cả các sinh vật tạo thành trật tự tự nhiên . Aldo Leopold (1887 1948) được coi là người đầu tiên đề xướng sự bảo vệ sinh thái của phương Tây cận đại. Niên giám về đất nước sa mạc (A sand country almanac, 1949, Oxford University press, 1966) của Aldo Leopold được coi là tác phẩm kinh điển, cuốn sách chuẩn mực cho các khóa học văn học Mỹ. Trong đó chương Đại địa luân lí học (Land Ethics) biểu đạt tư tưởng cốt lõi của ông: con người và đất đai, nước, thực vật và động vật tồn tại mối quan hệ luân lí. Xét trên lập trường nhân loại, động thực vật khác trên trái đất chỉ là tài sản. Mối quan hệ giữa người và đất đai vẫn thuần là kinh tế, con người chỉ có quyền lợi mà không có nghĩa vụ đối với đất đai. Thuật ngữ quan trọng nhất để Aldo Leopold giải thích là “cộng đồng” (Community), ông cho rằng mỗi cá nhân đều sống trong một môi trường xã hội, trở thành một bộ phận cùng nương tựa nhau để tồn tại trong cộng đồng này. Phạm vi đạo đức trước đây giới hạn trong “cộng đồng nhân loại” (Humman Community), mối quan hệ này chỉ coi trọng quan hệ con người và con người, con người với xã hội, còn “luân lí môi trường” mở rộng ra Cộng đồng sinh vật (Biotic Community) bao gồm cả cỏ cây, sông nước, động vật… thế giới của muôn loài. Quan niệm Đại địa luân lí học làm thay đổi vai trò nhân loại trong văn
- minh truyền thống phương Tây. Con người, từ kẻ chinh phục, kẻ thao túng tự nhiên trở thành một thành viên trong đó. Con người phải có sự tôn trọng thích đáng đối với tất cả các thành viên thuộc giới hữu tình và vô tình, và cùng sinh tồn với các loài khác hợp thành một cộng đồng rộng lớn, con người có nghĩa vụ trách nhiệm bảo vệ “cộng đồng sinh vật” được hài hòa, ổn định, và đẹp đẽ “Hành vi mà có thể bảo hộ tính chỉnh thể, tính ổn định, và vẻ đẹp của Cộng đồng sinh vật là đúng, trái ngược lại với điều đó là hành vi sai trái” [153, 26]. Những tư tưởng của sinh thái học như: Cộng đồng sinh vật (Biotic Community), Ý thức sinh thái (Ecological conscience), Đại địa mĩ học (Land aesthetic) mà Aldo Leopold đề xuất chủ yếu để thay đổi thế giới quan nhân loại trung tâm (humancentred) trong văn minh truyền thống Kitô giáo phương Tây, phá bỏ sự cách biệt giữa con người và thiên nhiên để nhận thức Vạn vật bình đẳng. Lương tâm sinh thái xuất phát từ thái độ con người thay đổi thế giới quan, từ mối quan tâm con người với con người kéo dài ra đến con người và vạn vật trên trái đất. Chỉ khi con người nhận thức được loài vô tình hay giới hữu tình trong Đại địa đều là một phần tử của Cộng đồng sinh vật thì nhân loại mới có thể tôn trọng và bảo vệ chúng được. Như vậy, đạo đức môi trường đã mở rộng ra từ quyền con người sang quyền của thiên nhiên. Cuối thế kỉ XX là thời kì khởi phát phong trào bảo vệ sinh thái. Ngoài những phong trào bảo vệ môi trường thực tế, các phong trào xuất phát từ nền tảng tư tưởng lí luận triết học trong việc chăm sóc sinh thái rất đáng lưu tâm vì thực chất vấn đề sinh thái mà chúng ta đang đối mặt còn nằm ở văn hóa của chúng ta – cách hành xử của chúng ta đối với tự nhiên. Bảo vệ sinh mệnh tự nhiên là sự tiến bộ của nhân loại. Tôn trọng sinh mệnh, yêu quý sinh mệnh không phải là con người ban tặng một cách khẳng khái cho vật có sinh mệnh khác mà là nhu cầu của sự tiến bộ tự thân nhân loại “Mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn cho chúng ta, về lâu về dài, nếu chúng ta biết tự nhận diện chính mình như là những sinh vật tự nhiên mà chúng ta đang dần dần phá hủy – những cái cây, những dòng sông, đất đai, và ngay cả không khí của chúng ta… Chúng ta chỉ là một phần nhỏ bé trong toàn bộ hệ sinh thái ấy ” [147, 160]. Trở về với tư tưởng văn hóa phương Đông cổ đại là một khuynh hướng quan trọng của của phê bình sinh thái hiện nay. Nếu như phê bình sinh thái cứ mãi là “lí thuyết về sự sụp đổ” (Theories of breakdown) [159] thì sẽ dẫn đến bế tắc, nhiều nhà tư tưởng và triết gia sinh thái đều nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng
- của trí tuệ sinh thái phương Đông cổ đại để giải quyết được những khó khăn về lý luận. Nhà xuất bản Đại học Harvard liên tục xuất bản nhiều chuyên luận bàn về giá trị to lớn của tư tưởng sinh thái phương Đông cổ đại đối với trào lưu văn hóa sinh thái [theo 139]. Rõ ràng, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên được triết học, văn chương và mĩ thuật bàn đến cách đây hàng nghìn năm. Các nhà tư tưởng Trung Hoa xem con người mang bản chất của tự nhiên nên con người cần sống hòa hợp với tự nhiên, sống thuận theo tự nhiên. “Thiên nhân hợp nhất” tư tưởng Chu Dịch đã trở thành tiền đề cơ bản trong cách ứng xử, nguồn cảm hứng vô tận của văn chương phương Đông. Điều đó khẳng định sự thống nhất giữa con người và tự nhiên, con người là một phần của tự nhiên, giữa con người và tự nhiên có mối liên quan, dung hòa nhau. Khổng Tử yêu cầu tôn trọng, gìn giữ môi trường, mùa xuân vào rừng không được đốn cây lớn, bắt cá phải dùng mắt lưới to. Lão Tử cho rằng con người gắn với tự nhiên, là một bộ phận không tách rời tự nhiên: “Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật”, cho nên mọi vật đều sinh ra từ Đạo, là biểu hiện của Đạo do vậy “trời đất với ta cùng sinh ra, vạn vật với ta là một”. Tự nhiên có trước con người, tồn tại và vận động theo quy luật khách quan, con người theo quy luật của tự nhiên để hành động cho hợp lẽ “Thiên nhiên và hoạt động tự nhiên, sự âm thầm diễn ra của các biến cố đời đời kiếp kiếp, sự tuần hoàn của bốn mùa, sự vận chuyển uy nghi của tinh tú, đó là cái đạo mà ta thấy trong mỗi dòng suối, mỗi phiến đá, mỗi ngôi sao, đó là cái luật của vũ trụ, vô tư, vô ngã, mà lại hợp lí, và loài người phải hành động theo luật ấy nếu muốn sống khôn ngoan và yên ổn” [25, 53]. Bởi vậy, người phương Đông thường lựa chọn cách sống hài hòa với tự nhiên để được thanh thản, đủ đầy. Vì con người xa rời Đạo, đánh mất đi sự hồn nhiên chất phác của mình nên sinh ra loạn lạc, vì vậy con người cần giữ gìn bản chất tự nhiên, nhu thuận cũng chính là gìn giữ và nuôi dưỡng bản tính trẻ thơ của mình. Thuyết Đồng tâm cho rằng những áng văn chương hay nhất trong thiên hạ chưa bao giờ lại không nảy sinh từ trái tim trẻ thơ (Lí Chất). Trong các sử thi phương Đông, còn có những bài học về sự hòa hợp tự nhiên. Các anh hùng của người Ấn trong Ramayana, Mahabrahata trước khi lên ngai vàng trị vì đất nước đều vào sâu trong núi hành hương, học bài học triết lí về nhân sinh bằng cách tĩnh tâm, hòa mình sống với thiên nhiên. Trước khi trở thành đấng Giác Ngộ, Đức Phật đã trải qua kiếp sống không chỉ là con người,
- thần linh mà cả là chim chóc, muông thú để có thể hiểu về cuộc đời của muôn loài bình thường, với đủ mọi quan hệ thế tục. Đức vua Trần Nhân Tông sau khi thực hiện xong việc thế sự, xuất gia vào núi sâu để được trong sạch, giác ngộ tràn đầy. Thiên nhiên, do đó là người thầy minh triết vĩnh cửu trong tâm thức của người phương Đông. 1.1.2.2. Sự phát triển của phê bình sinh thái Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đã tạo ra số của cải vật chất khổng lồ, đưa đến cho con người nhiều tiện nghi, nhưng nó cũng khiến cho con người “đang đi trên con đường dẫn đến sự đối đầu trực tiếp với thiên nhiên” [49, 42]. Hiện tại, con người bắt đầu hiểu ra là cần phải thương yêu và che chở thiên nhiên, nếu không sẽ phải gánh chịu sự thua thiệt, tuy nhiên, vì lòng tham, vì sự không biết lo xa chúng ta chưa thực sự có những hành động thiết thực. Trước bối cảnh khủng hoảng môi trường đó, để thể hiện sự quan tâm đến các vấn đề sinh thái nhằm thức tỉnh nhân loại trước những nguy cơ đe dọa của khủng hoảng môi trường, những ngành khoa học nhân văn khác như lịch sử, triết học, luật pháp, xã hội học và tôn giáo đã “nghiên cứu xanh” (green study) từ những năm 1970. Các nhà sử học kêu gọi “đừng coi tự nhiên như la sân khâu cho v ̀ ́ ở diên cua con ̃ ̉ ngươi, ma la môt diên viên ngang hang trong tân kich ây. H ̀ ̀ ̀ ̣ ̃ ̀ ́ ̣ ́ ọ tìm thấy nguồn gốc của các mối quan hệ giữa hoàn cảnh môi trường với các phương thức sản xuất kinh tế và các ý tưởng văn hóa xuyên thời gian” [151, xxi]; các nhà nhân loại học chú trọng mối quan hệ giữa văn hóa và địa lí; các nhà tâm lí học thừa nhận sự bất hòa giữa con người và thiên nhiên là nguồn gốc của các căn bệnh xã hội, bệnh tâm lí “khám phá ra sự nối kết giữa hoàn cảnh môi trường và sức khỏe tinh thần, một số liên quan đến sự xa rời hiện tại đối với tự nhiên như căn bệnh cơ bản của tâm lí và xã hội chúng ta” [151, xxi]; thậm chí, các nhà thần học xác quyết môi trường là một vấn đề của tôn giáo “cô găng tim kiêm cac c ́ ́ ̀ ́ ́ ứ liêu trong kinh ̣ thanh ch ́ ưng minh con ng ́ ươi đa t ̀ ̃ ừng lam chu trai đât môt cach khôn ngoan, h ̀ ̉ ́ ́ ̣ ́ ợp ly” [151, xxi], h ́ ọ cũng tìm đến những tôn giáo của người Mỹ bản địa hay các tôn giáo Phương Đông được coi là “hê thông tôn giao ch ̣ ́ ́ ưa đây cac tin điêu sang suôt ́ ̀ ́ ́ ̀ ́ ́ ̀ ự nhiên va thê gi vê t ̀ ́ ới tinh thân” [151, xxi]. ̀ Trong khi đó văn học được đánh giá là “phản ứng chậm” vì hình như vẫn bỏ ngỏ mối quan tâm đến môi trường. Những nghiên cứu của văn học thế kỉ XX vẫn là những mối bận tâm đến con người: phê bình nữ quyền, phê bình phân tâm học, phê bình Macxit, lí thuyết tiếp nhận… mà bỏ ra ngoài một sự thực: trái đất đang lâm
- nguy. Dù vậy, từ những năm bảy mươi của thế kỉ XX có một số nhà nghiên cứu văn học và văn hóa đã phát triển lí thuyết và phê bình về phương diện sinh thái. Tuy nhiên các nghiên cứu của họ được coi là những “nghiên cứu trước tác về tự nhiên” (the study of nature writing) tản mát dưới những tên gọi khác nhau như chủ nghĩa đồng quê, sinh thái học con người, chủ nghĩa địa phương, khoa học và văn học, tự nhiên trong văn học, phong cảnh trong văn học... Ngay từ khi xuất hiện, phê bình sinh thái đã không thuần nhất, bởi vậy, định danh khái niệm cũng là một vấn đề. Nếu như ở Anh người ta thường sử dụng thuật ngữ “nghiên cứu xanh” (green study) thì ở Mỹ lại thích sử dụng thuật ngữ “phê bình sinh thái” (ecocritism). Nhiều thuật ngữ khác cũng thường được sử dụng như “thi pháp sinh thái” (ecopoetics), “phê bình văn học môi trường” (environmental literary criticism), hay “nghiên cứu (văn hóa) xanh” (green(cultural)studies), sáng tác tự nhiên (nature writing), sinh thái học lãng mạn (Romantic Ecology)… Chúng tôi đồng ý với Cheryll Glotfelty và nhiều học giả khác về việc thống nhất thuật ngữ ecocritism (phê bình sinh thái) vì nó ngắn gọn và có thể dễ dàng tạo thành dạng thức khác là ecocritical (tính chất phê bình sinh thái) và ecocritic (nhà phê bình sinh thái). Hơn nữa, tiền tố “eco” (sinh thái) hay hơn tiền tố “enviro” (môi trường) bởi vì tương tự khoa học sinh thái học, phê bình sinh thái nghiên cứu mối quan hệ giữa các sự vật, trong trường hợp này, giữa văn hóa và thế giới tự nhiên. Mặt khác, tiền tố “enviro” (môi trường) ngụ ý rằng, con người chúng ta là trung tâm, tất cả mọi thứ xung quanh chúng ta là môi trường. Ngược lại, tiền tố “eco” (sinh thái) ám chỉ các cộng đồng phụ thuộc lẫn nhau, những hệ thống hòa hợp và sự kết nối mạnh mẽ giữa các bộ phận cấu thành [xem thêm 151, xx]. Khởi nguyên của thuật ngữ ecocritism xuất phát từ cuốn Hài kịch của sự sinh tồn: nghiên cứu trong sinh thái học văn học (The Comedy of Survival: Studies in Literary Ecology, 1972), Joseph Meeker giới thiệu thuật ngữ: sinh thái học văn học (literary ecology) ám chỉ “sự nghiên cứu chủ đề sinh thái và những mối liên hệ xuất hiện trong tác phẩm văn học. Đồng thời, nó cũng là một sự thử nghiệm để khám phá ra vai trò của nó là gì với văn học trong sinh thái học của loài người” [151, xx]. Thuật ngữ ecocriticism có lẽ xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1987 bởi William Rueckert trong một khảo luận tên là Văn học và sinh thái học: Một thử nghiệm mới trong phê bình sinh thái (Literature and Ecology: An Experiment in Ecocriticism). Phê bình sinh thái (ecocriticism) theo Rueckert có nghĩa là “việc ứng dụng sinh thái học và các thuật ngữ sinh thái học vào nghiên cứu văn học” [151, 105]. Định nghĩa của Rueckert có liên quan đặc biệt với khoa học sinh thái học và
- theo đó đã giới hạn lại thành một thuật ngữ để chỉ tất cả mối quan hệ giữa văn học và thế giới tự nhiên. Do vậy, phê bình sinh thái không được thừa nhận như một phong trào phê bình rõ rệt. Tuy nhiên, trong những năm này đã xuất hiện một số tác phẩm quan trọng đối với lịch sử của phong trào phê bình sinh thái. Công trình của Joseph Mecker là Hài kịch của sự sinh tồn (The Comedy of Survial, 1974) đã đưa ra vấn đề tranh luận cơ bản: chính văn hóa phương Tây với nền tảng tư tưởng của thuyết con người là trung tâm đã khiến cho môi sinh trở nên khủng hoảng. Năm 1985, Frederick Owaage biên tập cuốn sách mang tên Giảng dạy văn học môi trường: tài liệu, phương pháp và Tiềm năng phát triển (Teaching Environmental Literature: Materials, methods, Resources) bao gồm nhiều chiều hướng của mười chín nhà nghiên cứu khác nhau. Năm 1989, Alicia Nitecki viết Bản tin văn học Mĩ về đề tài tự nhiên (The American Nature Writing Newsletter) mục đích của bà là để công bố các bài luận vắn tắt, điểm sách và những thông tin liên quan đến nghiên cứu cách viết về tự nhiên và môi trường. Mãi đến những năm 1990, phê bình sinh thái mới thực sự phát triển. Các hội nghị khoa học về vấn đề môi trường và văn học được tổ chức hằng năm. Phiên họp đặc biệt nổi tiếng nhất của Hội nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại (MLA) vào năm 1991 được thành lập bởi Harold Fromm có chủ đề “Phê bình sinh thái: Xanh hóa nghiên cứu văn học” đã thực sự tạo được tiếng vang và thúc đẩy hướng nghiên cứu này phát triển mạnh mẽ. Năm 1994, Kroeber cho xuất bản chuyên luận Phê bình văn học sinh thái: tưởng tượng lãng mạn và sinh thái học tinh thần (Ecological literary criticism; romantic imagining and the Biology of mind, Columbia University Press, 1994), đề xướng "phê bình văn học sinh thái" (ecological literary criticism), "Phê bình mang khuynh hướng sinh thái" (ecological oriented criticism). Năm 1995, Lawrence Buell khoa Anh văn đại học Harvard cho xuất bản chuyên luận Tưởng tượng môi trường: Thoreau, văn viết về tự nhiên và sự cấu thành của văn hóa Mĩ (The Enviromental Ima gination: Thoreau, Nature Writing, and the Formation of American Culture, Harvard University Press, 1995). Khi nghiên cứu về Thoreau từ góc độ sinh thái cung cấp cho "văn học xanh" một số chỉ đạo có tính tổng thể về phương pháp luận và lí luận. Nghiên cứu của ông là một dấu mốc cho phê bình sinh thái. Một tác phẩm rất quan trọng và có ảnh hưởng trong lĩnh vực này đây là cuốn sách phổ biến về phê bình sinh thái. Tuy nhiên, để nhận thức rõ ràng về phê bình sinh thái phải kể đến người có
- công phát triển phong trào phê bình sinh thái là Cheryll Glotfelty, đã đồng biên tập với Harold Fromm một tuyển tập cốt yếu các bài viết có tính định hướng quan trọng là Tuyển tập Phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong Sinh thái học Văn học (The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology, University of Georgia Press, 1996). Năm 1992 bà cũng là nhà sáng lập ra Hiệp hội Nghiên cứu Văn học và Môi trường ASLE (the Association for the Study of Literature and Environment) . Hiệp hội này trở thành tổ chức có hàng nghìn thành viên ở Mỹ, sau đó các chi nhánh mới thành lập ở Anh và tiếp theo là nhiều nước châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Canada… Năm 1993 Patrick Murphy đã xuất bản tạp chí mới, là Nghiên cứu Liên ngành Văn học và Môi trường ISLE (Interdisciplinary Studies in Literature and Environment) để cung cấp một diễn đàn nghiên cứu phê bình văn học quan tâm tới lí do môi trường. Phong trào phê bình sinh thái ở Anh và Mĩ có đôi chút khác biệt. Phê bình sinh thái, hay phê bình xanh của Anh quốc lại được sinh thành từ phong trào Lãng mạn Anh của thập kỷ chín mươi thế kỷ 18 (1790) hơn là từ phong trào Tiên nghiệm Mỹ trong thập kỷ bốn mươi thế kỷ 19 (1840). Người tiên phong của phong trào này là nhà phê bình Jonathan Bate, tác giả cuốn Sinh thái học Lãng mạn: Wordsworth và Truyền thống (văn học) Môi trường ( Romantic Ecology: Wordsworth and the Environmental Tradition, Routledge, 1991).Tuyển tập các công trình phê bình sinh thái đáng chú ý nhất tại Anh là cuốn Tuyển tập nghiên cứu xanh: Từ chủ nghĩa lãng mạn tới phê bình sinh thái (The Green Studies Reader: From Romanticism to Ecocriticism, Routledge, 2000) do Laurence Coupe biên tập. Nếu như phê bình sinh thái Mỹ thiên về ca tụng tự nhiên thì phê bình sinh thái Anh lại thiên về cảnh báo về môi trường,Thành phố và Nông thôn (The Country and the City (Chatto & Windus, 1973) của Raymond William đã thể hiện rõ điều đó Như vậy, phê bình sinh thái từ những nghiên cứu riêng lẻ, khó nhận diện đã có một tổ chức riêng thu hút giới nghiên cứu trên trên toàn thế giới, có một tạp chí riêng của Hội. Đồng thời phong trào này cũng lan ra các trường đại học, một vài trường đã bắt đầu đưa vào trong các khóa văn học của họ chương trình giảng dạy về nghiên cứu môi trường; một số học viện về tự nhiên và văn hóa được thành lập; một số khoa tiếng Anh yêu cầu những chương trình nhỏ về văn học môi trường. Nhờ đó, phê bình sinh thái đã chính thức trở thành một phong trào nghiên cứu hàn lâm. Nhiều nghiên cứu của các tác giả được công bố.
- Một trong những dấu mốc chứng tỏ sự phát triển của phê bình sinh thái là sự xuất hiện trong các cuốn giáo trình giới thiệu các trường phái lí thuyết văn học. Giáo trình Nhập môn lí thuyết: dẫn luận lí luận văn học và lí luận văn hóa (Beginning Theory: An Introduction to Literary and Cultural Theory, Manchester University press) tái bản năm 2002 do Peter Barry soạn thêm một chương mới là "Phê bình sinh thái" (bản xuất bản năm 1995 chưa có chương này). Chương sách giới thiệu một khái quát sự ra đời, cách hiểu hàm nghĩa tự nhiên/văn hóa, thành tựu chủ yếu, nhiệm vụ của phê bình sinh thái, và thực tiễn phê bình sinh thái. Giới thiệu Phê bình đầu thế kỉ XXI (Introducing Criticism at the TwentyFirst Century, 2002) do Julian Wolfreys biên tập, Chương 7 của tuyển tập "Phê bình sinh thái" do Kate Rigby viết đã giới thiệu một cách rõ ràng về phê bình sinh thái: từ việc phê phán những tư tưởng khiến cho tình trạng sinh thái lâm vào khủng hoảng hiện nay, tìm về các văn bản về tự nhiên để tái cấu trúc lại văn bản, nhìn lại về văn học lãng mạn; tái cấu trúc tính xã hội và tính sinh thái, khẳng định có một mối liên hệ giữa các vấn đề tự nhiên và xã hội, gắn với các vấn đề giai cấp, chủng tộc, giới tính; Phê bình sinh thái cần phải đặt lại nền tảng ngôn ngữ. Một trong những hướng quan trọng của phê bình sinh thái là nhìn lại những diễn ngôn lãng mạn về tự nhiên. Gifford Terry phát triển mô hình 3 lớp của kịch: đồng quê, phản đồng quê và hậu đồng quê để viết về thể loại Đồng quê (Pastoral (Routledge, the Critical Idiom series, 1999) đả phá vào thể loại đồng quê. Năm 2000, Bài ca trái đất (The Song of the Earth, Massachusetts, Harvard University Press) là công trình của nhà phê bình văn học sinh thái nổi tiếng Jonathan Bate đã ứng dụng nguyên lý phê bình hiện tượng học, chủ nghĩa sinh thái học lãng mạn của Heidegger, lý thuyết về trạng thái tự nhiên của Jean Jacques Rousseau để so sánh thơ ca và tiểu thuyết lãng mạn của Jane Austen và Thomas Hardy, Mary Shelley, William.H.Hudson và Elizabeth Bisho. Năm 2004, Grey Garrard (đại học Bath Spa, Anh) xuất bản chuyên luận Phê bình sinh thái (thuật ngữ phê bình mới) (Ecocriticism (The New Critical Idiom) bàn về diễn ngôn chủ yếu của phê bình sinh thái từ 8 phương diện như ô nhiễm, nơi chốn, điền viên, hoang dã, tận thế (thảo luận về Kitô giáo), cư trú, động vật, trái đất. Từ cái nhìn của phê bình sinh thái, tác giả đã chất vấn và khéo léo đưa người đọc qua những cạm bẫy của lí thuyết, đào sâu vào những tranh luận chính của phê bình sinh thái hôm nay.
- Chuyên luận phê bình sinh thái thứ 3 của Lawrence Buell mang tên Tương lai của phê bình môi trường: khủng hoảng môi trường và tưởng tượng văn học (The Future of Environmental Criticism: Environmental Crisis and Literary Imagination, 2005). Buell đặt phê bình sinh thái vào lĩnh vực nghiên cứu văn hóa và văn học để khảo sát, chỉ ra một cách rõ ràng "sự chuyển hướng của sinh thái môi trường trong những nghiên cứu về văn học và văn hóa" (the environment turn in literary and cultural studies), "diễn ngôn sinh thái của văn học" (literary ecodiscourse) được sử dụng rộng rãi hơn, hình thành hệ thống toàn cầu hóa hơn, được thảo luận liên ngành nhiều hơn, được cấu thành từ nhiều phương diện hơn. Một cuốn sách cũng cần được nhắc đến ở đây là Sự mơ hồ sinh thái: Khủng hoảng môi trường và văn học các nước Đông Á (Ecoambiguity: Environmental Crises and East Asian Literatures, 2012) của Karen Thronber. Mở rộng diện quan tâm của phê bình sinh thái ra khỏi các nước ngoài phương Tây: Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, bà đã đưa ra một khái niệm quan trọng "mơ hồ sinh thái" khi nhận định rằng tình yêu thiên nhiên trong các văn bản văn chương Đông Á ẩn dấu những ngộ nhận không nhỏ dẫn đến những bất công môi trường. Phê bình sinh thái đã mở rộng phạm vi tới Shakespear học. Etock (trong công trình Shakespear ecocritisim) cho rằng phê bình sinh thái không chỉ nghiên cứu tự nhiên hay hiện hữu tự nhiên trong văn học, mà hơn thế nó là bất cứ nào liên hệ chặt chẽ đến biến đổi môi trường. Từ đó, mở ra một cách tiếp cận chức năng của sinh thái học văn hóa (culture ecology). 1.1.3. Phê bình sinh thái một khuynh hướng nghiên cứu văn học Phê bình sinh thái với tư cách là một kiểu tiếp cận văn chương mới, khuynh hướng phê bình văn học ra đời trong bối cảnh giới học thuật phản ứng trước nguy cơ môi sinh bị hủy hoại do chính con người. Thông qua văn học để thẩm định lại toàn bộ văn hóa nhân loại, tiến hành phê phán tư tưởng, chính sách, mô hình xã hội... đã ảnh hưởng như thế nào đến thái độ đối với tự nhiên, khiến cho môi trường lâm vào tình trạng suy thoái hiện nay. 1.1.3.1. Phê bình sinh thái trong thời đại khủng hoảng môi trường Cheryll Glotfelty trong bài giới thiệu “Nghiên cứu văn học trong thời kì khủng hoảng môi trường” của Tuyển tập Phê bình sinh thái, các mốc quan trọng trong sinh thái học đã tỏ ra hết sức sốt ruột vì văn học dường như vẫn thờ ơ với những mối bận tâm về môi trường trong khi hành tinh duy nhất của chúng ta đang lâm nguy:
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với thành ngữ tiếng Anh)
322 p | 419 | 84
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Giao thoa nghệ thuật giữa hai khuynh hướng văn xuôi lãng mạn và văn xuôi hiện thực thời kì 1932 - 1945
217 p | 365 | 81
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ngôn ngữ báo chí Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh
184 p | 277 | 47
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Đối chiếu cấu trúc – ngữ nghĩa tục ngữ tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt
237 p | 189 | 33
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: So sánh truyện cổ tích thần kỳ người Khmer Nam Bộ với truyện cổ tích thần kỳ người Việt (một số type và motif cơ bản)
169 p | 124 | 26
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay từ cách đọc chấn thương
164 p | 79 | 24
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Vị trí của Hồ Biểu Chánh trong văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900 - 1930)
232 p | 135 | 23
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: So sánh phương thích nối trong văn bản tiếng Việt và tiếng Anh
202 p | 115 | 22
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghiên cứu thơ đi sứ của Đoàn Nguyễn Thục và Đoàn Nguyễn Tuấn
90 p | 108 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Nho lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử
172 p | 133 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Cấu tạo và phương thức thể hiện tiếng cười của truyện cười hiện đại Việt Nam
179 p | 70 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Biểu tượng trong tiểu thuyết Haruki Murakami
32 p | 27 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Phản trinh thám trong bộ ba New York của Paul Auster
167 p | 108 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập
282 p | 32 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Mĩ cảm trong tiểu thuyết Haruki Murakami
237 p | 15 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Tư tưởng thị tài trong thơ trung đại Việt Nam
490 p | 12 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Tiểu thuyết William Faulkner từ góc nhìn nhân học văn hóa
27 p | 18 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay từ cách đọc chấn thương
27 p | 20 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn