intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Dân ca Gầu plềnh và lễ hội gầu tào của dân tộc Hmông ở Lào Cai – truyền thống và biến đổi

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:185

142
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng, mật thiết giữa Gầu plềnh và LHGT, sự biến đổi của chúng trong xã hội đương đại; vận dụng lý thuyết thi pháp học văn học dân gian, trên cơ sở văn bản và thực tế diễn xướng, đánh giá những giá trị nội dung, nghệ thuật Gầu plềnh; khẳng định vai trò quan trọng của Gầu plềnh trong đời sống tinh thần dân tộc Hmông.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Dân ca Gầu plềnh và lễ hội gầu tào của dân tộc Hmông ở Lào Cai – truyền thống và biến đổi

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI BÙI XUÂN TIỆP DÂN CA GẦU PLỀNH VÀ LỄ HỘI GẦU TÀO CỦA NGƯỜI HMÔNG Ở LÀO CAI – TRUYỀN THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI Chuyên ngành: Văn học dân gian Mã số: 62.22.01.25 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Thu Yến
  2. HÀ NỘI ­ 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án là do tôi viết. Các cứ  liệu nêu trong luận án trung thực, khách quan. Tôi xin  hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.  Hà Nội, ngày    tháng  01   năm 2015 Nghiên cứu sinh Tác giả Bùi Xuân Tiệp
  3. DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT Luận án sử dụng một số kí hiệu, một số chữ viết tắt: 1. Kí hiệu ­ Dấu [   ]: để chú thích. Kí hiệu trong dấu móc được hiểu như sau: Số thứ  nhất là số thứ tự tác phẩm trích dẫn theo danh mục tài liệu tham khảo; số thứ hai   là số trang. Ví dụ: [1, tr.45] được hiểu: 1 là số thứ tự tác phẩm trích dẫn trong tài  liệu tham khảo, 45 là trích dẫn tại trang 45. Nội dung trích dẫn tài liệu dịch từ  nguyên bản tiếng Trung Quốc do chúng tôi tự dịch sang tiếng Việt, sẽ thêm chữ  bg (bản gốc). Ví dụ: [191, tr.126. bg]: 191 là số thứ  tự  tác phẩm trích dẫn trong   tài liệu tham khảo, 126.bg. là trích dẫn tại trang 126 của bản gốc tiếng Trung đã  dịch ra tiếng Việt. ­ Dấu (       ): trong trường hợp để  chú thích phụ  lục  ảnh. Ví dụ: (A2.6,   tr.283): A là  ảnh; 2.6 là  ảnh 6 chương 2; tr. 283 là trang 283. Trong trường hợp  chú thích phụ lục khác: Ví dụ (PL2.2, tr.259): PL2.2 là phụ lục số 2 chương 2; tr.   259: trang số 259 của phụ lục. 2. Các chữ viết tắt TT Viết thông thường Viết tắt 1 Ảnh số A 2 Bản gốc bg 3 Hà Nội H. 4 Lễ hội gầu tào LHGT 5 Nhà xuất bản Nxb 6 Phổ cập giáo dục tiểu học PCGDTH 7 Phổ cập giáo dục trung hoc học cơ sở PCGD THCS 8 Phụ lục PL 9 Trang tr. 10 Trung Quốc TQ 11 Ủy ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam UB TWMTTQVN 12 Ví dụ VD 13 Xã hội chủ nghĩa XHCN
  4. MỤC LỤC
  5. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nghị quyết hội nghị Trung ương Đảng lần thứ V (khóa VIII) xác định: “Di   sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc   dân tộc, cơ  sở  để  sáng tạo những giá trị  mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi  trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị  văn hóa truyền thống (bác học và   dân gian). Văn hóa cách mạng bao gồm cả  văn hóa vật thể  và văn hóa phi vật  thể” [3, tr. 63]. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, trong đó, dân tộc Hmông có dân   số  1.068.189 người,  đứng hàng thứ  6 (Kinh: 73.594.427, Tày: 1.623.920, Thái:  1.550.423, Mường: 1.268.963, Khơ  me: 1.260.640) trong danh sách 54 dân tộc   [157, tr. 273]. Nền văn hóa Hmông, trong đó, văn học dân gian hết sức đặc sắc   đang đứng trước nhiều thách thức, thậm chí có bộ  phận bị mai một trong xu thế  cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế hiện nay. Nghiên cứu đề tài này là việc làm  đầy ý nghĩa góp phần phát huy, giữ gìn bản sắc văn hóa cổ truyền dân tộc. Lào Cai là tỉnh vùng cao, biên giới có vị trí địa lý đặc biệt, nhiều đồng bào  Hmông  sinh  sống  (năm  2013:  154.709 người,  chiếm  24,59%  dân số  toàn tỉnh,  [156]) với 5 ngành Hmông cư trú tại 9/9 huyện, thành phố. Lào Cai có các nhóm  (ngành) Hmông tiêu biểu cho cộng đồng dân tộc Hmông ở Việt Nam. Họ còn lưu   giữ  được nền văn hóa dân gian phong phú, độc đáo, hấp dẫn, trong đó, văn học  dân gian có vị trí vô cùng quan trọng, mang đậm bản sắc dân tộc, phản ánh nhiều   mặt đời sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tư  tưởng, tình cảm, tâm hồn,  thẩm mĩ... của đồng bào. Đặc biệt, dân ca Hmông rất phong phú, với nhiều tiểu   loại như: tiếng hát cưới xin, tiếng hát tang ma, tiếng hát tình yêu, tiếng hát làm  dâu, tiếng hát mồ  côi.... “Tiếng hát tình yêu” (dân ca Gầu plềnh; viết tắt: Gầu   plềnh) có số  lượng lớn nhất, giá trị  văn học nghệ  thuật độc đáo và vai trò quan  trọng trong sinh hoạt cộng đồng, nhất là tại Lễ  hội Gầu tào (Grâuk taox – viết  tắt: LHGT). Nhưng đến nay, việc nghiên cứu Gầu plềnh, LHGT, nhất là sự biến   đổi của chúng chưa được mấy người quan tâm nên rất cần được nghiên cứu cụ  thể, sâu sắc hơn. Từ  năm 1945 đến nay, công tác sưu tầm văn học dân gian Hmông đạt  nhiều thành tựu, diện mạo văn học dân gian Hmông hiện lên tương đối đầy đủ.   Nghiên cứu về  dân tộc Hmông như  lịch sử, dân tộc học, văn hóa dân gian, văn   học dân gian…được chú trọng, có kết quả. Đặc biệt, công tác sưu tầm dân ca  Hmông được đẩy mạnh; số  lượng tác phẩm Gầu plềnh sưu tầm, công bố  trên 
  6. 2 1000 trang. Đó là nguồn tư  liệu chính đảm bảo cho tác giả  Luận án lựa chọn,  khảo sát thực hiện đề  tài. Nghiên cứu đề  tài “Dân ca Gầu plềnh và LHGT của   dân tộc Hmông  ở  Lào Cai – truyền thống và biến đổi”, chúng tôi hy vọng góp   phần giải mã, làm sáng tỏ  một phương diện của văn học nghệ  thuật dân gian  Hmông và một mảng sinh hoạt văn hóa quan trọng của đồng bào. Bản thân tôi có thuận lợi là sinh ra, lớn lên, công tác ở Lào Cai, được sống  cùng đồng bào Hmông, nên hiểu biết nhất định về  ngôn ngữ, phong tục, tập  quán, tín ngưỡng…của đồng bào, đã tham dự  nhiều LHGT, sưu tầm được số  lượng đáng kể  tư  liệu văn học dân gian, nhất là những bài Gầu plềnh. Điều đó   thúc đẩy tôi nghiên cứu với hy vọng làm sáng tỏ  vấn đề  một cách sâu sắc, đầy  đủ hơn, đóng góp thiết thực, góp phần nhỏ bé vào công cuộc xây dựng, nâng cao   đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ 2.1. Mục tiêu ­ Luận án làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng, mật thiết giữa Gầu plềnh   và LHGT, sự biến đổi của chúng trong xã hội đương đại; vận dụng lý thuyết thi  pháp học văn học dân gian, trên cơ sở  văn bản và thực tế  diễn xướng, đánh giá   những giá trị nội dung, nghệ thuật Gầu plềnh; khẳng định vai trò quan trọng của   Gầu plềnh trong đời sống tinh thần dân tộc Hmông. ­ Từ đó, tác giả Luận án đề xuất thái độ ứng xử phù hợp và các biện pháp  tổ  chức quản lý, giáo dục tại cộng đồng, góp phần giữ  gìn một cách hiệu quả  bản sắc văn hóa Hmông trên địa bàn tỉnh biên giới Lào Cai. 2.2. Nhiệm vụ ­ Kế thừa, chọn lọc, nâng cao những kết quả nghiên cứu của người đi trước;  nghiên cứu Gầu plềnh đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với tín ngưỡng, phong tục   tập quán, môi trường diễn xướng tại LHGT; lý giải hiện tượng từ  góc độ  địa văn  hóa, văn hóa tộc người. ­ Làm rõ những đặc trưng trong diễn xướng và thi pháp Gầu plềnh. Phân  tích giá trị  tiêu biểu về nội dung, nghệ thuật Gầu plềnh trên phương diện thẩm   mĩ ngôn từ; đồng thời làm rõ, sâu sắc hơn đặc trưng nguyên hợp của văn học dân  gian, cụ thể ở đây là mối quan hệ mật thiết giữa Gầu plềnh với LHGT (ẩn sâu là  các lớp tín ngưỡng, văn hóa) trên địa bàn tỉnh Lào Cai; thẩm định, đánh giá giá trị  của chúng trong cuộc sống quá khứ, hiện tại và tương lai. ­ Tỉnh Lào Cai có 5 ngành Hmông sinh sống, 4 ngành tổ chức LHGT. Luận   án khảo sát, nghiên cứu sự tương đồng, khác biệt của các vùng lễ hội và của các 
  7. 3 ngành Hmông; nghiên cứu sự biến đổi, ảnh hưởng của chúng trong xã hội đương   đại,  ảnh hưởng của chúng đến đối tượng học sinh phổ  thông, đề  xuất các giải  pháp quản lý, bảo tồn, phát huy những giá trị tốt đẹp. ­ Sưu tầm Gầu plềnh tại LHGT; biên dịch, bổ sung thêm vào kho tàng văn   học dân gian nước nhà. 3. Phạm vi nghiên cứu 3.1.   Về   nội   dung:  Luận   án   chủ   yếu   khai   thác   phương   diện   ngôn   từ,  phương diện diễn xướng, đồng thời khai thác phương diện âm nhạc ở một mức  độ hẹp hơn trong điều kiện có thể. Vận dụng lý thuyết thuyết thi pháp học văn  học dân gian, chúng tôi đặt Gầu plềnh trong môi trường văn hóa của chúng để  đánh giá, thẩm định nội dung, nghệ  thuật, nhận diện bản chất thể  loại. Môi  trường văn hóa, xã hội truyền thống của người Hmông Lào Cai được xác định từ  1960 trở về trước (xem 3.2, Chương 3). 3.2. Về phạm vi, tư liệu khảo sát: ­ Tài liệu dân ca đã công bố: + 04 tác phẩm, chủ yếu sưu tầm tại Lào Cai: 1) Doãn Thanh (1967),  Dân  ca Mèo (Lào Cai), Nxb Văn học, Hà Nội, (quyển 1). 2) Doãn Thanh (1974), Dân  ca Mèo (Jăng Gâux Hmôngz) Lào Cai, Hội Văn học nghệ  thuật Lào Cai (quyển  2). 3) Doãn Thanh, Hoàng Thao, Chế Lan Viên (1984), Dân ca HMông, Nxb Văn  học, Hà Nội (quyển 3). 4) Doãn Thanh, Hoàng Thao, Triều Ân (2004),  Ca dao   dân ca Tày, Nùng, HMông, Nxb Văn học, Hà Nội (quyển 4). Tuy công bố  sau   1960, song có thể  xác định những bài dân ca trong các tập sách trên là lời cổ,  thuộc về truyền thống. + 01 tác phẩm sưu tầm tại Hà Giang: Hùng Đình Quý (2001),  Dân ca  Mông Hà Giang, Sở  Văn hoá Thông tin Hà Giang, Tập 1,2,3 và một số  bài báo,  tạp chí. ­ Phạm vi, tư liệu điền dã của tác giả Luận án: + Về   Gầu  plềnh:  Tác  giả   tham  gia  nhiều  buổi  hát Gầu plềnh tại các  LHGT, hoặc nghe hát đơn lẻ; cùng một số nghệ nhân ghi âm, sưu tầm, biên dịch  Gầu plềnh (PL0.1, tr.164) của các ngành Hmông hoa, Hmông đen, Hmông đỏ   ở  các vùng có điều kiện địa lý, lịch sử, xã hội khác nhau nên tính đại diện khá cao,   phù hợp đối tượng nghiên cứu. + Về lễ hội: Tác giả nhiều lần trực tiếp tham dự, nghiên cứu LHGT ở các   vùng và các ngành Hmông khác nhau: các xã Pha Long, Tả Ngải Chồ, Lùng Khấu   Nhin (Mường Khương); xã Cán Cấu (Si Ma Cai); các xã Hầu Thào, San Sả  Hồ, 
  8. 4 Tả Giàng Phình (Sa Pa), xã Thái Niên (Bảo Thắng), xã Lao Kha (huyện Hà Khẩu,  TQ) (PL0.2, 0.3, tr.253­254); trên cơ  sở  đó, so sánh điểm chung và riêng giữa lễ  hội các vùng. Tuy nhiên, địa bàn chúng tôi tập trung khảo sát chủ yếu ở 3 LHGT   tiêu biểu tại 3 huyện của tỉnh Lào Cai là: Mường Khương: xã Pha Long; Si Ma   Cai: xã Cán Cấu; Sa Pa: xã Tả Giàng Phình. + Về điều tra bằng phiếu: (PL0.4, tr. 257): Để đánh giá mức độ tác động,   ảnh hưởng, biến đổi của Gầu plềnh và LHGT đối với lớp trẻ, chúng tôi lập  phiếu điều tra, tổ  chức điều tra trên đối tượng học sinh bậc trung học của 3  huyện Sa Pa, Mường Khương, Si Ma Cai, tổng số 450 phiếu; tổng hợp, phân tích   kết quả. ­ Khảo sát Gầu plềnh: Tổng số tư liệu khảo sát 250 bài (lời). Luận án có   mục khảo sát 175 bài đã xuất bản, có mục khảo sát cả 250 bài (lời). Cụ thể: + Tư  liệu Gầu plềnh đã xuất bản: 175 bài, gồm: 95 bài quyển 1; 42 bài  quyển 2 (bỏ 3 bài trùng: số 8, 12, 45); 38 bài quyển 3, từ bài 3 đến bài 52 (bỏ 11   bài trùng, số: 7, 9, 12, 21, 35, 36, 42, 43, 44, 45, 51). + Tư  liệu Tiếng hát mồ  côi, tiếng hát làm dâu tiềm  ẩn khả  năng chuyển   thành Gầu plềnh:13 bài (6 bài quyển 1; 4 bài quyển 3; 3 bài quyển 4). + Tư liệu Gầu plềnh do tác giả Luận án sưu tầm: 61 bài (lời). ­ Lưu ý một số  vấn đề  dịch thuật tiếng Hmông ra tiếng Việt:  Ngôn ngữ  dân ca Hmông là ngôn ngữ  nghệ thuật rất tinh tế, duyên dáng, giàu hình tượng và  biểu tượng. Dịch giả Doãn Thanh đã chú trọng đến việc chú thích tỉ mỉ những ý dịch  chưa thoát, những từ ngữ lạ, những phong tục, tập quán, cách diễn đạt riêng... giúp   cho người đọc có thể nắm bắt tương đối trọn vẹn tác phẩm. Tuy nhiên, đọc dân ca,  lại thông qua bản dịch, dù sao cũng rất khó có thể  cảm nhận hết cái hay, cái đẹp   trong tình ý sâu xa của bài ca. Do đó, khi nghiên cứu dân ca Hmông, Gầu plềnh, cần   thiết phải đối chiếu với văn bản gốc của ngôn ngữ đó. Chúng tôi đối chiếu bản dịch  so với văn bản gốc 45 bài Gầu plềnh, xin lưu ý một số điểm sau: Số lượng dòng thơ, từ ngữ: có 3 bài số dòng thơ bản gốc và bản dịch bằng  nhau; còn lại đều lệch ngắn hơn, trong đó, 34 bài bản dịch ngắn hơn bản gốc (23  bài ngắn hơn từ 4 dòng trở lên; có bài ngắn hơn 35 dòng). Số chữ từng dòng thơ  dịch cũng ít hơn số  chữ  bản gốc. Từ  tiếng Hmông là từ  đơn âm tiết như  tiếng  Việt, như vậy, nguyên nhân chủ yếu bản dịch vênh so với bản gốc là do cấu tạo   ngữ pháp khác nhau và do đặc điểm dân ca Hmông có nhiều tiếng đệm không có   nghĩa hay nghĩa mờ nhạt trong bài. VD: “Caox nav caox txir txơưx zus/ Zus caox  pôngz ntơưs têx bông fơưr/ Caox hluz tơưv  trôngx ntus plơưl/ Caox nav caox txir 
  9. 5 muôz caox xang/ Môngl têx tsêr cơưv ntơưr” (Dịch: Mẹ cha cô biết sinh/ Sinh ra  cô đặt trong bịch thóc/ Lớn khôn, mẹ  cha cô cho cô đi học [133, tr. 12]. Từ bốn  dòng thơ VD trên, dịch còn ba dòng (lược 1 dòng). Vì trôngx ntus plơưl không có  nghĩa nên dịch gộp hai dòng thơ cuối còn một dòng. Câu đầu 6 tiếng, dịch còn 5  tiếng vì  caox nav caox txir  (4 tiếng) dịch ra tiếng Việt là  mẹ  cha cô  (3 tiếng).  Như vậy, khi dịch ra tiếng Việt, có sự thay đổi đáng kể sẽ làm giảm đáng kể vai   trò nhạc điệu, nhịp điệu của lời ca. Người đọc khó hình dung ra diễn xướng của   lời ca ấy. Đôi khi, dịch giả  muốn dịch cho có hồn thơ  thì lại bị  sai lệch về  ý nghĩa .  VD: “Caox nav caox txir trôngx plangl txơưv tsaoz măngx/ Cha mur cêr jur/ Caox  uô caox nav caox txir mêr nxeik gâux xưz/ Cur lê tâu txu cêr thur” (Dịch: Trước  cửa nhà em có cây lanh mọc/ Ong có nơi về  đậu/ Em làm thân con gái bẩy năm  theo mẹ  theo cha/ Anh có nơi qua lại) [133, tr. 10]. Nguyên nghĩa:   bố  mẹ  em   trồng cây lanh trước cửa, ong mới về đậu, em làm cô gái đồng trinh của mẹ, của   cha, anh mới qua lại). Nếu nói bố, mẹ em trồng lanh...tức là gia đình có nề nếp  lao động, bản thân em chắc biết làm lanh, may vá thêu thùa,... được thừa hưởng   nền nếp gia đình...Em lại là cô gái còn trong trắng nên anh đến tìm hiểu là lẽ  đương nhiên. Hiểu như  vậy mới phù hợp phong tục, tập quán dân tộc Hmông.  Mặt khác, dịch ra tiếng Việt như trên, câu thơ khó đảm bảo được vần điệu ( jur  vần với thur, dịch là đậu ­ lại). Sau khi dịch, ý nghĩa hình tượng thơ  không còn nguyên vẹn: VD: “Caox  tuôr cur lux têl trơưr/ Cur tuôr caox lux têl truz/ Ưz uô chiv cêr plênhl gâux đrâus/  Puôr tangv têx jâuz tsênhx grêl jâuz sur hluz”. (Dịch: Em nắm tay anh nắm cho  vững/ Anh cầm tay em cầm cho chặt/ Ta yêu nhau đằm thắm như  khóm ngải  xanh tươi) [133, tr. 8]. Nguyên nghĩa hai câu cuối: Con đường tình duyên của đôi   ta, như là từ đám rau xương cá chuyển sang đám rau ngải lớn. Bản dịch đã bỏ từ  con đường (cêr) và từ lớn (hluz), thêm vào đó từ xanh tươi. Nếu dịch như vậy thì  chỉ cho ta cảm nhận về một tình yêu đằm thắm, ở thời điểm ấy mà thôi. Từ bản   gốc, có thể  phân tích ý nghĩa hình tượng thơ  như  sau: Vùng cao mọc nhiều rau  xương cá và rau ngải, nhưng rau xương cá chỉ mọc vào mùa xuân, rất tươi tốt và   tàn rất nhanh vào đầu mùa hè; rau ngải hầu như  quanh năm không tàn. Từ  sự  nhanh tàn chuyển sang lâu tàn ví với con đường tình duyên là con đường dài lâu,  bền chặt, càng ngày càng bền chặt hơn, thắm thiết hơn, tin tưởng hơn. Điều đó  tương đồng với việc cầm tay nhau cho vững (têl truz) ở trên. Đây là cách diễn đạt  quen thuộc của đồng bào Hmông (VD, về  sự  bất tận: Bài hát sắp hết, có bài  
  10. 6 không hết/ hết như từ nương  ớt sang vườn kiệu) và phù hợp với tâm lý ưa thuỷ  chung của nam nữ Hmông. Bản dịch chưa thể  hiện hết đặc trưng giao duyên, bối cảnh diễn xướng,   nhất là trong các đối ca nam ­ nữ:  Mở  đầu các đối ca nam nữ, người Hmông  thường hát một số làn điệu, câu hát quen thuộc: ­ Ntux tês nduô! ­ Ntux tês nduô  nxeik gâux sênh! ­ Ntux tês nduô lênhx tangz!... Tất cả  đều được dịch là chàng  ơi!, nàng ơi! hoặc không dịch sẽ không lột tả hết sự tinh tế của câu hát. Ntux tês   nduô có nghĩa: đất trời đẹp hoặc trời hết rồi kết hợp với lời gọi chàng ơi!, nàng   ơi!... thì mới duyên dáng! Mặt khác, dịch là nàng  ơi nhưng mấy từ  chỉ cô gái có  nghĩa khác nhau; chẳng hạn nxeik gâux xưz (nàng trinh nữ), nxeik gâux sênh (nàng  tiên) nxeik nhăngz (nàng dâu). Không ai hát với người đã có chồng mà gọi là cô  trinh nữ cả. Cái duyên của lời ca nằm ở chỗ đó! Do ngôn ngữ bất đồng nên việc dịch tất nhiên không thể thể hiện hết cái   hay, cái đẹp, tình ý sâu xa, sự  tinh tế  và đặc biệt là nét đặc sắc văn hóa của  những lời ca. Vì lẽ  đó, chúng tôi đề  xuất: 1) Để  hiểu được chiều sâu cũng như  cái hay, cái đẹp của từng lời ca Gầu plềnh, việc cần thiết và hết sức quan trọng   là người thực hiện cố gắng đối chiếu văn bản dịch với văn bản gốc và tìm hiểu   trên cơ sở văn hóa truyền thống của đồng bào. 2) Hiện nay, các tác phẩm dân ca  Hmông đã xuất bản chủ yếu bằng tiếng Việt, có quá ít tác phẩm ghi âm, văn bản   tiếng Hmông hoặc song ngữ  Việt – Hmông, vì vậy, các nhà khoa học, các nhà   nghiên cứu, sưu tầm cần quan tâm thỏa đáng để  bảo tồn nền dân ca truyền  miệng đặc sắc ấy. 3) Sưu tầm dân ca Hmông nói riêng, văn học dân gian các dân  tộc thiểu số nói chung, các tác giả nên ghi âm nguyên bản, ghi lại bằng chữ viết   của dân tộc (nếu có) và khi dịch, cố gắng ghi chú tỷ mỷ, kỹ lưỡng những chỗ mà  việc dịch thuật gặp khó khăn, như  vậy sẽ  giúp người đọc tiếp cận được giá trị  đích thực của tác phẩm. 4. Phương pháp nghiên cứu Chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính là: 4.1. Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Gầu plềnh tồn tại trong diễn  xướng,  ẩn chứa nhiều giá trị  thuộc nhiều lĩnh vực nhận thức, tín ngưỡng, sinh  hoạt, nghệ thuật, lịch sử…Có thể các giá trị  trên được thể hiện độc lập song do   đặc trưng thể loại nên phần lớn là hỗn dung, nguyên hợp. Vì vậy, tác giả  Luận  án sử  dụng đồng thời, khách quan, bình đẳng nhiều phương pháp chuyên ngành  như ngữ văn học, văn hóa học, lịch sử học, dân tộc học…Sử dụng phương pháp  nghiên cứu liên ngành sẽ giúp cho việc khám phá các giá trị  của Gầu plềnh toàn  
  11. 7 diện, sâu sắc hơn. 4.2. Phương pháp điền dã ­ dân tộc học: Chúng tôi thực hiện khảo sát  thực tế  (tham dự  LHGT) thu thập tư  liệu, tiến hành khảo cứu, tổng hợp, phân  tích tư  liệu...giải quyết mục tiêu đề  tài, do vậy phải sử  dụng các thao tác quan   sát, phỏng vấn sâu, quay phim, chụp  ảnh, điều tra bằng phiếu; ghi âm, biên dịch  Gầu plềnh; thống kê, phân loại tư liệu…Với phương pháp này, việc nghiên cứu  Gầu plềnh trong môi trường diễn xướng tại LHGT có tính khoa học, tính thực  tiễn rất cao và cho kết quả trung thực, chính xác; đáp ứng yêu cầu đặt ra. 4.3. Phương pháp so sánh lịch đại và so sánh đồng đại:  Chúng tôi sử  dụng các phương pháp nghiên cứu này để đối chiếu, so sánh Gầu plềnh (đặc biệt   là diễn xướng của chúng trong LHGT) giữa các ngành Hmông khác nhau cư trú ở  các vùng khác nhau, giữa các thời kỳ lịch sử khác nhau; đối chiếu Gầu plềnh với   dân ca trữ  tình của các dân tộc khác…trên cơ  sở  phân tích, tổng hợp, chỉ  ra nét   đặc sắc cũng như quá trình phát triển, biến đổi của chúng. 4.4. Phương pháp phân tích văn bản ngôn từ: Gầu plềnh được thể hiện  qua nhiều yếu tố, song thể hiện qua văn bản ngôn từ  hay phần lời là yếu tố  cơ  bản và quan trọng nhất quyết định sự tồn tại, sự diễn xướng cũng như  sự  sáng   tạo của người nghệ sỹ bình dân. Do đó, phân tích văn bản ngôn từ  trong nghiên  cứu Gầu plềnh là con đường khoa học để  khám phá những giá trị  (cả  nội dung,   nghệ  thuật) đích thực, sâu sắc của chúng. Tuy nhiên, chúng tôi không phân tích   văn bản ngôn từ Gầu plềnh một cách thuần túy như  phân tích tác phẩm văn học   mà kết hợp rộng hơn trong tổng thể của phương pháp nghiên cứu liên ngành và   biện pháp phân tích các phạm trù thi pháp học văn học dân gian. 4.5. Áp dụng hướng tiếp cận nhân học ­ văn hóa (cultural anthropology)  xem xét đối tượng nghiên cứu trong một quá trình vận hành của tổng thể văn hóa   Hmông, đặc biệt là phong tục, tập quán, điều kiện sống..., từ đó luận bàn, lý giải   sự phát sinh, truyền bá, sáng tạo, biến đổi của Gầu plềnh cũng như LHGT. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài, điểm mới của Luận án 5.1. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn:  Đề tài “Dân ca Gầu plềnh và LHGT   của người Hmông  ở  Lào Cai ­ truyền thống và biến đổi” phần nào đã đáp  ứng  tính cấp thiết cả  về lý luận và thực tiễn đang đặt ra. Về  lý luận là nghiên cứu  Gầu plềnh đặt trong môi trường diễn xướng cụ thể, nơi Gầu plềnh được bộc lộ  sinh động nhất, phản ánh đặc trưng nguyên hợp của tác phẩm văn học dân gian.   Về  thực tiễn, LHGT ngày nay đang biến đổi theo xu hướng phát triển quy mô  ngày càng lớn hơn do sự  phát triển xã hội và nhu cầu hưởng thụ  văn hóa của 
  12. 8 đồng bào Hmông ngày càng tăng, theo đó, Gầu plềnh cũng đang biến đổi đa dạng  nội dung, phong phú về phương thức diễn xướng. 5.2. Điểm mới của Luận án: ­ Khảo sát, miêu thuật, đối chiếu các LHGT giữa các vùng của Lào Cai  trong quá khứ và hiện tại. ­ Ghi âm, quay phim, chụp  ảnh, sưu tầm thêm và biên dịch Gầu plềnh,   đóng góp thiết thực vào kho tàng văn học dân gian nước nhà. ­ Lý giải bằng cơ  sở  khoa học, cơ  sở  nội tại của lịch sử, văn hóa, ngôn   ngữ  Hmông, vận dụng quan điểm thi pháp học văn học dân gian chỉ  ra bản chất  mối quan hệ  giữa Gầu plềnh ­ LHGT và luận giải những vấn đề  căn cốt nhất,   đặc sắc nhất về nội dung, nghệ thuật Gầu plềnh một cách hệ thống. ­ Nghiên cứu Gầu plềnh với tư  cách một tiểu loại dân ca độc lập, đặt   trong môi trường động của diễn xướng và quá trình vận động. Đánh giá sự  biến  đổi, dự  báo xu hướng biến đổi Gầu plềnh và LHGT từ  truyền thống đến hiện   đại, đề xuất các giải pháp bảo tồn, phát huy góp phần xây dựng cuộc sống mới. 6. Cấu trúc Luận án: Ngoài phần mở đầu, kết luận, Luận án gồm 4 chương: ­ Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và một số vấn đề lý luận. ­ Chương 2: Diễn xướng Gầu plềnh trong Lễ hội Gầu tào. ­ Chương 3: Một số bình diện thi pháp Gầu plềnh. ­ Chương 4: Sự biến đổi của Gầu plềnh và Lễ hội Gầu tào.
  13. 9 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN Chúng tôi nêu tổng quan một số  vấn đề  nghiên cứu và lý luận liên quan  đến đề tài để có cái nhìn tổng quát và phương hướng giải quyết các nội dung đặt  ra trong đề tài. Đó là tổng quan về: lịch sử nghiên cứu, sưu tầm; một số vấn đề  cơ bản nhất về lịch sử, văn hóa, xã hội, văn học dân gian Hmông; khái niệm Gầu  plềnh; những nội dung lý luận định hướng giải quyết vấn đề. 1.1. Tổng quan lịch sử vấn đề 1.1.1. Về sưu tầm Trước Cách mạng tháng Tám, việc sưu tầm dân ca Hmông nói chung chưa   được quan tâm. Chúng tôi tìm thấy một số  bài dân ca Gầu plềnh được in trong  một vài công trình nghiên cứu dân tộc học như “Lịch sử người Mèo” của Savina,  “Lịch sử  nhân dân vùng hạ  lưu sông Triết Giang” của Từ  Tùng Thạch. Các tác   giả sử dụng những bài dân ca đó như tư liệu minh chứng cho nhận định, đánh giá  các vấn đề về dân tộc học, văn hóa học của mình chứ không nhằm mục đích sưu   tầm, lưu giữ; tuy nhiên, qua đó, người đọc có thể nhận thấy hai nhà nghiên cứu  trên nhận định dân tộc Hmông rất yêu ca hát, có nền dân ca phong phú là có cơ  sở. Sau Cách mạng tháng Tám, dưới ánh sáng đường lối văn nghệ, với quan  điểm bình đẳng dân tộc của Đảng, việc nghiên nhiều mặt đời sống các dân tộc   thiểu số  nước ta được đặc biệt quan tâm, chú trọng, có thành tựu; việc nghiên  cứu, sưu tầm văn học dân gian các dân tộc thiểu số đạt nhiều kết quả. Dân tộc   Hmông được quan tâm nghiên cứu; văn học dân gian Hmông được nhiều người  tiến hành sưu tầm và đạt kết quả nhất định. Mở  đầu công cuộc tìm hiểu về  đồng bào Hmông sau Cách mạng là nhà  văn Tô Hoài. Năm 1952, trong chuyến đi thực tế 8 tháng cùng bộ đội giải phóng  Tây Bắc, sống cùng đồng bào Hmông tại Tủa Chùa, Lai Châu, ông thu lượm  được một số  bài dân ca Hmông. Đặc biệt, Tô Hoài đã phản ánh một cách nghệ  thuật phong tục, tập quán, thói quen người Hmông trong truyện ngắn “Vợ chồng   A Phủ” và chép lại những câu Gầu plềnh tiêu biểu. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, sau khi bộ chữ Hmông Việt Nam được   Chính phủ ban hành, phong trào học tiếng Hmông, chữ Hmông trong cán bộ, giáo  viên và xóa mù chữ  cho người Hmông bằng tiếng Hmông  ở  Lào Cai phát triển   mạnh. Nhà sưu tầm Doãn Thanh, một thầy giáo dạy chữ  Hmông, một cán bộ 
  14. 10 quản lý công tác xóa mù chữ tiếng Hmông của Ty Giáo dục Lào Cai, đã tiến hành   sưu tầm dân ca của nhiều ngành Hmông tại các huyện Sa Pa, Mường Khương,  Bắc Hà, Bát Xát, Si Ma Cai tỉnh Lào Cai. Kết quả, năm 1967 cuốn “Dân ca Mèo  (Lào Cai)”, Nxb Văn học phát hành ra mắt bạn đọc. Đây là cuốn sách giới thiệu   tương đối đầy đủ  diện mạo dân ca Hmông với năm loại chính: “Tiếng hát tình   yêu, Tiếng hát mồ côi, Tiếng hát làm dâu, Tiếng hát cúng ma, Tiếng hát cưới xin”   [132, tr. 9]. Trong đó, loại tiếng hát tình yêu (Gầu plềnh) có số lượng lớn nhất:   95/142 bài. Tác phẩm được dịch tiếng Việt một cách công phu, chú thích tỉ  mỉ  tên, địa chỉ người hát, chỉ dẫn về phong tục, thói quen sinh hoạt, những chỗ dịch   chưa sát nghĩa gốc…và chủ yếu dịch từ nên đảm bảo được ý nghĩa cơ bản. Doãn   Thanh khẳng định trong lời giới thiệu: “Gầu plềnh chính là loại tình ca của nam   nữ, loại bài hát phong phú và đa dạng nhất của người Mèo… Trong dân ca Mèo,   loại này là loại chủ yếu, có nhiều giá trị  tích cực nhất”. “Dân ca Mèo (Lào Cai)”  là công trình sưu tầm đầu tiên rất quan trọng đối với chúng tôi vì nó hội tụ  cơ  bản đủ diện mạo dân ca của các nhóm, ngành Hmông ở Lào Cai. Bản thân Doãn  Thanh là thầy giáo tiếng Hmông có hàng chục năm sống cùng đồng bào, am hiểu   tường tận phong tục, tập quán, thói quen, văn hóa, ngôn ngữ, cách diễn đạt… của  đồng bào, tiến hành sưu tầm nghiêm túc, cẩn trọng nên rất đáng tin cậy. Đó là   động lực thúc đẩy, củng cố thêm ý tưởng cho tác giả Luận án hướng nghiên cứu,   sưu tầm Gầu plềnh. Cùng thời gian này, Bùi Lạc và Mạc Phi công bố  truyện thơ  “Tiếng hát  làm dâu Tây Bắc” (Tạp chí Văn học số 3/1964) và một số bài dân ca Hmông vùng   Sơn La, Lai Châu, Lào Cai.  Tiếng hát làm dâu Tây Bắc  tương tự  truyện thơ  A  Thào – Nù Câu  Doãn Thanh sưu tầm  ở  Lào Cai được một số  học giả  coi là   truyện thơ  về đề  tài tình yêu, trong đó có nhiều bài, đoạn, câu Gầu plềnh được  khéo léo liên kết lại dưới dạng lối kể  chuyện hoặc đối đáp của các nhân vật   thành câu chuyện. Chúng tôi cho rằng đây là sự  phát triển của Gầu plềnh tiến  dần đến truyện thơ nên có giá trị để khai thác phục vụ đề tài. Năm 1974, Doãn Thanh tiếp tục cho ra mắt cuốn  Dân ca Mèo Lào Cai (45  bài, trong đó có 42 bài Gầu plềnh mới sưu tầm; sách in song ngữ Việt ­ Hmông,  Sở Văn hóa Thông tin Lào Cai phát hành). Các bài hát sưu tầm được đại diện cho   nhiều ngành Hmông các vùng có đông người Hmông sinh sống của tỉnh Lào Cai;   đặc biệt, nhiều bài quen thuộc được nam nữ hát trong LHGT. Tác phẩm giá trị  ở  chỗ  lần đầu tiên, những bài Gầu plềnh được in hai thứ  tiếng, giúp cho việc   nghiên cứu, đối chiếu lời Việt và lời Hmông để  xác định giá trị  đích thực tác  
  15. 11 phẩm thuận lợi hơn. Năm 1984, các tác giả  Doãn Thanh, Hoàng Thao tiến hành tuyển chọn,  chỉnh lý, bổ  sung một số bài dân ca Hmông đã công bố  trên các sách, tạp chí và   công bố  cuốn Dân ca Hmông với lời giới thiệu của Chế Lan Viên do Nhà xuất  bản Văn học phát hành. Cuốn sách tuyển đủ  năm loại hát dân ca Hmông với lời   dịch trau chuốt hơn. Riêng Gầu plềnh, các tác giả đã chọn một số bài từ các cuốn   trước và bổ sung 38 bài mới. Mười năm sau, nhà văn, nhà nghiên cứu, sưu tầm Hùng Đình Quý, người  dân tộc Hmông tỉnh Hà Giang (giáp tỉnh Lào Cai), công bố tác phẩm Dân ca Mông   Hà Giang gồm 3 tập, in song ngữ Việt ­ Hmông, gần 100 bài chủ yếu thuộc loại   Gầu plềnh, Gầu ua nhéng (Gâux uôs nhangz) do ông sưu tầm tại Hà Giang. Đây   là tư liệu cần thiết để chúng tôi đối chiếu với các tác phẩm sưu tầm tại Lào Cai,   tìm ra nét tương đồng, khác biệt của hai vùng cư trú của người Hmông. Từ  những năm 90 của thế  kỷ  XX trở  lại đây, nhiều người tiến hành ghi  chép, sưu tầm dân ca Hmông và in rải rác trên các sách báo trung  ương,  địa  phương. Bản thân tác giả Luận án từ  năm 2001 đến nay cũng tham gia sưu tầm,   biên dịch được một số bài Gầu plềnh hát trong các LHGT. Nhìn tổng quát, công tác sưu tầm dân ca Hmông nói chung, Gầu plềnh nói  riêng hơn 60 năm qua đạt được những thành tựu quan trọng. Số  lượng bài Gầu  plềnh sưu tầm tại Lào Cai là nguồn tư liệu quý để chúng tôi khảo sát, hoàn thành  Luận án này. Cùng thời gian trên, công tác sưu tầm truyện cổ, tục ngữ, câu đố, tang ca  Hmông cũng được chú trọng; kết quả  là đã phát hành được một số  cuốn sách   như: Truyện cổ  dân tộc Mèo (Doãn Thanh, Thương Nguyễn sưu tầm, Nxb Văn  học in năm 1963),  Truyện cổ  H.Mông  (Lê Trung Vũ sưu tầm, Nxb Văn hóa in  năm 1984), Quả  lê mũi dài (Vàng Thung Chúng, Ngọc Cường sưu tầm, Hội văn  học nghệ thuật Lào Cai phát hành năm 1999), Tục ngữ và câu đố Mông (Lê Trung  Vũ sưu tầm, Nxb Văn hóa thông tin, 1994), Một số  tục ngữ, câu đố  Hmông Lào   Cai (Lý Seo Chúng sưu tầm, Sở Văn hóa Thông tin Lào Cai phát hành 1996), Tang ca  (KRUÔZ CÊ) của người Mông Sa Pa (Giàng Seo Gà sưu tầm, Nxb Văn hóa dân  tộc phát hành năm 2004). Các cuốn truyện cổ, tang ca Hmông tập hợp được một   số thể loại như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích…, phản ánh nhiều nét đời sống  sinh hoạt cộng đồng Hmông, nhất là sinh hoạt văn hóa, ca hát, lễ hội…; các cuốn  tục ngữ, câu đố  khá phong phú, phản ánh nhiều mặt đời sống lao động, trí tuệ,  kinh nghiệm của đồng bào. Đây là nguồn tư  liệu phong phú, cần thiết giúp tác  
  16. 12 giả  Luận án tìm hiểu sâu hơn về  các phương diện đời sống, nghệ  thuật của   người Hmông, đồng thời có thể sử dụng để đối chiếu, so sánh soi sáng vấn đề. Như vậy, trên văn bản, các thể loại văn học dân gian Hmông đã được hiện   diện khá đầy đủ là cơ sở quan trọng cho việc lựa chọn và triển khai đề tài. 1.1.2. Về nghiên cứu 1.1.2.1. Ở nước ngoài Việc quan tâm, nghiên cứu lịch sử, văn hóa, phong tục, đời sống người   Hmông xuất hiện sớm nhất ở TQ, nơi họ cư trú từ xa xưa. Chúng tôi chú ý trước  hết những nghiên cứu ở TQ, đặc biệt vùng Tây Nam TQ, nơi cư trú chủ yếu của   người Hmông và là con đường di cư của họ xuống phía Nam đến Việt Nam. Đời nhà Tống (thế kỷ XII), tác giả Lục Du viết cuốn  “Lão học am bút ký”  đã ghi chép một số  phong tục “lạ” của người Miêu (Hmông), có đoạn tả  cảnh   sinh hoạt ca hát: Người Miêu khi nông nhàn, từng bọn một hai trăm người, tay  nắm tay nhau mà hát, có mấy người thổi khèn đằng trước dẫn dắt, những cái vại  cất trong bóng cây, đói không cần ăn, chỉ  lấy rượu trong vại ra uống, không  ngừng ca hát, ca hát thâu đêm ngoài trời đến hôm sau [Dẫn theo Lương Vũ Minh,   189, tr.126. bg]. Đến đời nhà Minh (thế kỷ XIV – XVII), sách “Gia Tĩnh đồ kinh” ghi chép lịch  sử triều đại nhà Minh cũng dành hẳn một mục chép về phong tục Miêu dân ở vùng   Tây Nam TQ, có ghi: Nam, nữ  chưa kết hôn, hàng năm vào tháng ba, tháng tư, tập   trung ở sân bãi, ở giữa dựng một cái cột, nhảy múa xung quanh, ca hát…” [189, tr.126.  bg]. Vào đời Thanh, Trần Đỉnh viết  “Điền Kiềm du ký”, ghi chép tại vùng Vân  Nam (TQ), rất chú ý đến người Hmông, ông miêu tả: Tập tục của người Miêu, hàng   năm vào tháng giêng, thanh niên nam, nữ  ăn mặc đẹp, cùng nhau nhảy múa [189,   tr.126. bg]. Các miêu tả  trên về  phong tục ca hát vào dịp đầu năm của người Hmông   cổ đại có lẽ là LHGT hoặc chí ít cũng là dấu tích của LHGT ngày nay. Năm 1933, Từ Tùng Thạch, người TQ, xuất bản tác phẩm  “Lịch sử nhân   dân vùng hạ lưu sông Việt Giang” phác hoạ những nét cơ bản lịch sử các dân tộc   Hmông, Dao, Di…; trong đó, ông dành nhiều trang nói về lịch sử  chiến tranh, di   cư, văn hoá, phong tục, tập quán dân tộc Hmông; khẳng định dân tộc Hmông  không phải người man rợ  mà là một trong rất ít dân tộc vẫn còn lưu giữ  được   sắc thái của Bộ  lạc nguyên thủy, do di cư  về  phương Nam sinh sống, tổ  chức   chính quyền độc lập nên bị người phương Bắc gọi là Man [130, tr. 43].
  17. 13 Sách Vân Nam phong vận chí, Miêu tộc Thái hoa sơn (1982) ghi: Thái hoa  sơn ( ? ? ?) còn gọi là Xọa hoa sơn (tức LHGT) diễn ra  ở sườn đồi bằng phẳng,   rộng rãi giữa mấy thôn trại của người Miêu; mỗi khi đến ngày hội, đồng bào   Miêu vượt Châu mà đến vô cùng náo nhiệt [188, tr.137. bg]. Những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở tỉnh Vân Nam, TQ thành lập  Hội nghiên cứu Miêu học tại một số Châu thuộc tỉnh và đã xuất bản một số đầu   sách. Đáng chú ý là 4 cuốn: “Nghiên cứu về  dân tộc Miêu  ở  Văn Sơn” (Vương  Vạn Vinh chủ  biên); “Nghiên cứu về  dân tộc Miêu  ở  Hồng Hà – Lịch sử, hiện   trạng   và   tương   lai”  (La   Hữu   Lượng   biên   soạn);  “Dân   tộc   Miêu   ở   Mã   Quan”(nhiều tác giả); ba cuốn sách này do Nxb Dân tộc Vân Nam phát hành từ  năm 2004 đến 2009; và cuốn “Vân Nam phong vận chí, Miêu tộc Thái hoa   sơn” do Nxb nhân dân Vân Nam phát hành. Các sách trên nghiên cứu nhiều  mặt ngôn ngữ, lịch sử, văn hóa, kinh tế, giáo dục…của người Hmông ở ba Châu  của tỉnh Vân Nam. Cả  bốn sách đều dành những trang thích đáng luận bàn Tết  hoa sơn, Thái hoa sơn (LHGT) và truyền thống hát dân ca, kể  chuyện trong lễ  hội. Đáng chú ý là bài “Vụn vặt về hội Gầu tào của dân tộc Miêu Văn Sơn” của  Lương Vũ Minh, tháng 2/2004, đã khái quát sơ bộ tình hình lịch sử di cư từ Bắc   xuống Nam của dân tộc Hmông, tình hình nghiên cứu Miêu dân từ  xưa tới nay,  khẳng định Gầu tào là “ngày hội long trọng nhất…làm cho con người lĩnh hội   được phong tục mấy nghìn năm lịch sử của người Miêu” và nhận định: Gầu tào  thể hiện “tộc vi” (cột nêu vốn là “tiết vi” nhưng trở thành “tộc vi” vì có sức thu  hút mọi người một cách tự  nhiên, là nét riêng của người Hmông), “phong thái  diện mạo”, “phẩm chất”, “phong tục”, “nghệ thuật” dân gian. Đặc biệt, tác giả  miêu tả  khá chi tiết diễn biến cuộc hát đối dân ca theo nguyên tắc “tách dần từ  đám hát lớn thành những đám hát nhỏ  hơn rồi thành từng đôi” [189, tr.127. bg];   điều này trùng hợp với quan sát của chúng tôi tại LHGT xã Pha Long huyện   Mường Khương. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chỉ dừng ở mức độ miêu thuật, đưa ra những  nhận định về  các vấn đề  lịch sử, dân tộc, văn hóa, tín ngưỡng chứ  chưa đi sâu  nghiên cứu cụ thể, chi tiết mối quan hệ giữa LHGT và Gầu plềnh, chưa vận dụng   những phương pháp khoa học để  làm sáng tỏ  các giá trị  tiềm  ẩn bên trong của   chúng. 1.1.2.2. Ở Việt Nam Cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ, cụ thể Gầu plềnh   và LHGT của người Hmông và mối quan hệ  của chúng. Tuy nhiên, về  dân tộc 
  18. 14 học, lịch sử, văn hóa Hmông được một số tác giả quan tâm, ghi chép. 1) Thời kì phong kiến tự  chủ,   một số  trí thức phong kiến đã nghiên cứu  vùng miền núi phía Bắc. Nhà bác học Lê Quý Đôn nghiên cứu lịch sử, địa lý, văn  hoá, phong tục các dân tộc ít người Việt Bắc, Tây Bắc (trong đó có Lào Cai) với  các tác phẩm Vân đài loại ngữ  (số  1773, Viện Hán Nôm), Phủ  biên tạp lục (số  1776, Viện Hán Nôm),  Kiến văn tiểu lục   (số  1777, Viện Hán Nôm); tác giả  Hoàng Bình Chính ghi chép văn hoá dân tộc vùng Yên Bái, Lào Cai trong cuốn H­ ưng hoá phong thổ lục (số 1778, Viện Hán Nôm), giới thiệu một số thần thoại,   cổ  tích Tày, Nùng, Mường, Thái…nhưng chưa thấy các tác giả  nói về  người   Hmông. Đến thế  kỷ  XIX, Phạm Thận Duật với cuốn  Hưng hoá địa chí kí lược   (1856, Viện Hán Nôm) nói về một số dân tộc ít người Tây Bắc, nhắc đến người  Dao – Mèo và sưu tầm một số  sách cổ  người Dao huyện Bảo Yên (Lào Cai).  Như vậy có thể xác định thời kỳ này các tộc Hmông, Dao đã di cư đến Lào Cai. 2) Thời kì cận đại, đầu thế kỷ XX Thực dân Pháp, sau khi xâm lược Việt Nam đã cử một số đoàn thám hiểm,   truyền giáo và cả các đội quân bình định vùng núi phía Bắc. Trong các đoàn đó có   những người đã nghiên cứu một số dân tộc ít ngư ời như Savina nghiên cứu người  Hmông, Bônifaxi nghiên cứu người Tày, Mán...Các tác giả trên đề cập và sưu tầm  một số truyện cổ dân gian các dân tộc. Tuy nhiên, họ sử dụng văn học dân gian các  dân tộc thiểu số như những cứ liệu minh hoạ cho các công trình nghiên cứu lịch   sử, dân tộc học. Mặt khác, vì mục đích chính trị của kẻ xâm lược nên một số nhận   định và một số tác phẩm văn học dân gian đã bị  xuyên tạc (chẳng hạn, từ truyền   thuyết nạn đại hồng thủy của người Hmông, Savina cho đây là truyện tháp Babel  tựa như  truyện của Thiên chúa giáo và người Hmông là người phương Bắc, hơn  nữa, có chung nguồn gốc với người Châu Âu [117, tr. 1­12]). Công trình“Lịch sử  người Mèo” của Savina (một cha cố kiêm sĩ quan Pháp sang Việt Nam hoạt động  và nghiên cứu tại vùng Sa Pa, Lào Cai và Vân Nam, TQ) xuất bản tại Hồng Công  năm 1924 là đáng lưu tâm nhất. Công trình gồm 4 chương đề  cập nhiều mặt  truyền thuyết, lịch sử di cư, văn hóa, phong tục, tín ngưỡng, sinh hoạt, lao động  sản xuất của người Hmông. Mặc dù viết phục vụ  cho mục đích truyền đạo và   xâm lược nhưng tác giả  miêu thuật tỉ  mỉ  diện mạo đời sống vật chất, tinh thần   của người Hmông. Ông miêu tả LHGT, hát Gầu plềnh của nam nữ dịp đầu xuân,   sưu tầm một số  truyền thuyết, dân ca, ngụ  ngôn, trích dẫn trong tác phẩm để  chứng minh cho các luận điểm. Savina dịch một số  bài dân ca Hmông và nhận  định: dân ca Hmông lưu trữ toàn bộ lịch sử, cũng như đời sống của người Hmông.  
  19. 15 Tuy nhiên, do định kiến hoặc do ý đồ viết, Savina có thái độ, cái nhìn miệt thị đối  với phong tục tổ  chức tết, LHGT và hát Gầu plềnh; ông viết: “Người Mèo gọi   những dịp hội lễ vui mừng là: hầu chớu, uống rượu, và dịp vui ngày tết là: nào tsà,   ăn xuân mới...cái gì cũng cho vào mồm ăn, cũng như chúng ta thường nói mọi thứ  đều đổ vào lỗ cống!” [117, tr. 69]. 3) Thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám đến nay Về hướng nghiên cứu lịch sử, văn hóa và dân tộc học: Sau Cách mạng  tháng Tám, nghiên cứu lịch sử, văn hóa, dân tộc học về người Hmông ở nước ta   được đẩy mạnh, đạt nhiều thành tựu. Các công trình tiêu biểu như  Người Mông   ở  Việt Nam  (Cư  Hòa Vần, Hoàng Nam, 1994),  Văn hóa Hmông Lào Cai  (Trần  Hữu Sơn,1995), Văn hóa Mông Hà Giang (Hùng Đình Quý và nhóm, 1996), Văn   hóa các dân tộc  ở  Yên Bái  (Bùi Huy Mai, 1998),  Văn hóa tâm linh của người   Hmông ở Việt Nam, truyền thống và hiện tại (Vương Duy Quang, 2005), Dân tộc   Mông Sơn La với việc giải quyết vấn đề Tín ngưỡng, Tôn giáo hiện nay (Thào Xuân  Sùng chủ biên, 2009), Tiếp cận văn hóa Hmông (Mã A Lềnh, 2014), Những đỉnh   núi du ca, một lối tìm về cá tính H’mông (Nguyễn Mạnh Tiến, 2014),... là những  công trình khoa học khá lớn, nghiên cứu nhiều mặt đời sống vật chất, tinh thần (nhà  cửa, trang phục, phong tục, tập quán, sinh hoạt, sản xuất, tín ngưỡng, tâm linh, văn  hóa, văn học dân gian, ngôn ngữ, chữ  viết, lễ hội...) dân tộc Hmông, giúp tác giả  Luận án có cái nhìn tổng thể về dân tộc này. Các tác giả ít nhiều đều đề  cập đến   LHGT cũng như  dân ca Hmông; tuy chủ  yếu miêu thuật lễ  hội và nêu những nét   phác thảo đặc điểm dân ca nhưng họ đều có chung nhận định như: dân tộc Hmông   đặc biệt yêu ca hát, có kho tàng dân ca phong phú; Gầu plềnh được hát phổ  biến  trong cộng đồng, LHGT có ở một số vùng đồng bào Hmông. Những nhận định, đánh   giá trong các công trình trên có tính chất gợi ý, định hướng bổ ích cho đề tài. Ngoài ra, một số công trình, tuy không trực tiếp đề cập đến vấn đề của đề  tài Luận án này nhưng rất cần thiết cho chúng tôi có cái nhìn rộng hơn, cụ  thể  hơn về  con người, phong tục, tập quán Hmông  ở  từng vùng như  các luận văn:  Quan hệ  dòng họ  của người Hmông hoa  ở  xã Kim Nọi   Mù Căng Chải”   của  Vương Duy Quang (1988), Tìm hiểu văn hóa Mông huyện Sa Pa của Lê Huy Phú  (2002)   và   một   số   bài   báo   của   Lê   Trung   Vũ,   Nguyễn   Văn   Lợi,   Phạm   Đức   Dương… Hai chục năm trở  lại đây,  ở  Lào Cai, phong trào nghiên cứu văn hóa, văn   nghệ dân gian phát triển mạnh, xuất hiện nhiều tác giả với nhiều bài báo viết về  các mặt đời sống đồng bào Hmông  ở  các huyện của tỉnh Lào Cai. Tiêu biểu: 
  20. 16 Trần Hữu Sơn: “Trang trí dân gian trên trang phục Hmông hoa Bắc Hà” (Tạp chí  Văn hóa nghệ  thuật, số  6/1990), “Sa man giáo của người HMông  ở  Lào Cai”  (Tạp chí Văn hóa dân gian, số 6/2001), Hoàng Minh Lường: “Một số phong tục ­  tập quán liên quan đến nhà cửa của người Hmông ở  Lào Cai”  (Tạp chí Văn hóa   dân gian số 4/1995); Lê Hồng Lý, Hoàng Tích Biên Hòa: “Người Hmông xanh ở  Nậm Xé” (Tạp chí Văn hóa dân gian số  4/1995); Lý Cẩm Tú, Hoàng Minh Lợi  “Một số tập tục của người Hmông xanh tỉnh Lào Cai” (Tạp chí Văn hóa dân gian  số 1/1997), Lê Ngọc Thắng: “Mối quan hệ giữa văn hóa truyền thống và kinh tế  của người Hmông  ở  Bắc Hà” (Tạp chí Dân tộc học, số  1/1997), “Một số  biểu   tượng trong văn hóa dân gian Hmông” (Tạp chí Văn nghệ Lào Cai, tháng 7/2010), …Các bài báo trên đề cập nhiều vấn đề như  ăn, ở, dựng nhà, vào nhà mới, cưới  xin, sinh đẻ, ma chay, khiếu thẩm mỹ, trang phục, kinh tế, xã hội… trên cơ  sở  nghiên cứu, quan sát thực tế, cụ  thể   ở  một địa phương, và một nhóm, ngành  Hmông cụ  thể  nên có giá trị  thực tế  rất cao giúp chúng tôi có thể  khai thác để  giải quyết các vấn đề đặt ra trong Luận án. Về  Lễ  hội:  Người Hmông có hai lễ  hội quan trọng là Nào sồng (Naox  jôngz  ­ ăn  ước) và Gầu tào. Riêng LHGT, ngoài việc được miêu tả   ở  các công  trình kể trên, còn được nghiên cứu sâu hơn và đăng tải trên một số sách báo, tạp   chí. Tháng 1/1984, tác giả  Lê Trung Vũ đăng bài “Hội làng, hội lễ, tổng thuật”   trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 1. Trong bài viết này, ngoài phần miêu thuật   lễ hội, tác giả phân tích, đánh giá, nhận định về loại hình lễ hội trên cơ sở khoa   học đương đại: đây là loại hình lễ hội mừng công nguyên thủy của cư dân nông   nghiệp [177]. Năm 1978, các tác giả  Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý công  bố   cuốn  Quan  họ   ­  nguồn  gốc   và   quá   trình  phát  triển.  Tiếp  cận  từ   góc   độ  folklore, các tác giả  đã dành một số trang miêu tả  khá tỉ  mỉ  LHGT và nhận định  về nguồn gốc cũng như quá trình phát triển của lễ hội, đồng thời so sánh LHGT   với một số  lễ  hội khác của người Mường, người Thái, người Việt…; tìm ra  những đặc điểm chung về loại hình lễ hội là lễ hội hát. Các tác giả  khẳng định,  Sải sán (LHGT) của người Hmông  ở  Việt Nam chỉ  có  ở  một số  vùng của tỉnh  Lào Cai [74, tr. 69]. Năm 1999, Trần Hữu Sơn cùng nhóm nghiên cứu, trực tiếp nghiên cứu lễ hội  ở Lào Cai và xuất bản cuốn Lễ hội cổ truyền Lào Cai; các tác giả khảo sát 11 lễ  hội của các dân tộc thiểu số, trong đó dành một số  trang miêu thuật diễn biến  LHGT ở các huyện Sa Pa, Mường Khương, Si Ma Cai. Tuy nhiên, bài viết chưa đề 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2