Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Dân ca Gầu plềnh và lễ hội gầu tào của dân tộc Hmông ở Lào Cai – truyền thống và biến đổi
lượt xem 22
download
Luận án làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng, mật thiết giữa Gầu plềnh và LHGT, sự biến đổi của chúng trong xã hội đương đại; vận dụng lý thuyết thi pháp học văn học dân gian, trên cơ sở văn bản và thực tế diễn xướng, đánh giá những giá trị nội dung, nghệ thuật Gầu plềnh; khẳng định vai trò quan trọng của Gầu plềnh trong đời sống tinh thần dân tộc Hmông.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Dân ca Gầu plềnh và lễ hội gầu tào của dân tộc Hmông ở Lào Cai – truyền thống và biến đổi
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI BÙI XUÂN TIỆP DÂN CA GẦU PLỀNH VÀ LỄ HỘI GẦU TÀO CỦA NGƯỜI HMÔNG Ở LÀO CAI – TRUYỀN THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI Chuyên ngành: Văn học dân gian Mã số: 62.22.01.25 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Thu Yến
- HÀ NỘI 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án là do tôi viết. Các cứ liệu nêu trong luận án trung thực, khách quan. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình. Hà Nội, ngày tháng 01 năm 2015 Nghiên cứu sinh Tác giả Bùi Xuân Tiệp
- DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT Luận án sử dụng một số kí hiệu, một số chữ viết tắt: 1. Kí hiệu Dấu [ ]: để chú thích. Kí hiệu trong dấu móc được hiểu như sau: Số thứ nhất là số thứ tự tác phẩm trích dẫn theo danh mục tài liệu tham khảo; số thứ hai là số trang. Ví dụ: [1, tr.45] được hiểu: 1 là số thứ tự tác phẩm trích dẫn trong tài liệu tham khảo, 45 là trích dẫn tại trang 45. Nội dung trích dẫn tài liệu dịch từ nguyên bản tiếng Trung Quốc do chúng tôi tự dịch sang tiếng Việt, sẽ thêm chữ bg (bản gốc). Ví dụ: [191, tr.126. bg]: 191 là số thứ tự tác phẩm trích dẫn trong tài liệu tham khảo, 126.bg. là trích dẫn tại trang 126 của bản gốc tiếng Trung đã dịch ra tiếng Việt. Dấu ( ): trong trường hợp để chú thích phụ lục ảnh. Ví dụ: (A2.6, tr.283): A là ảnh; 2.6 là ảnh 6 chương 2; tr. 283 là trang 283. Trong trường hợp chú thích phụ lục khác: Ví dụ (PL2.2, tr.259): PL2.2 là phụ lục số 2 chương 2; tr. 259: trang số 259 của phụ lục. 2. Các chữ viết tắt TT Viết thông thường Viết tắt 1 Ảnh số A 2 Bản gốc bg 3 Hà Nội H. 4 Lễ hội gầu tào LHGT 5 Nhà xuất bản Nxb 6 Phổ cập giáo dục tiểu học PCGDTH 7 Phổ cập giáo dục trung hoc học cơ sở PCGD THCS 8 Phụ lục PL 9 Trang tr. 10 Trung Quốc TQ 11 Ủy ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam UB TWMTTQVN 12 Ví dụ VD 13 Xã hội chủ nghĩa XHCN
- MỤC LỤC
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nghị quyết hội nghị Trung ương Đảng lần thứ V (khóa VIII) xác định: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian). Văn hóa cách mạng bao gồm cả văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể” [3, tr. 63]. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, trong đó, dân tộc Hmông có dân số 1.068.189 người, đứng hàng thứ 6 (Kinh: 73.594.427, Tày: 1.623.920, Thái: 1.550.423, Mường: 1.268.963, Khơ me: 1.260.640) trong danh sách 54 dân tộc [157, tr. 273]. Nền văn hóa Hmông, trong đó, văn học dân gian hết sức đặc sắc đang đứng trước nhiều thách thức, thậm chí có bộ phận bị mai một trong xu thế cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế hiện nay. Nghiên cứu đề tài này là việc làm đầy ý nghĩa góp phần phát huy, giữ gìn bản sắc văn hóa cổ truyền dân tộc. Lào Cai là tỉnh vùng cao, biên giới có vị trí địa lý đặc biệt, nhiều đồng bào Hmông sinh sống (năm 2013: 154.709 người, chiếm 24,59% dân số toàn tỉnh, [156]) với 5 ngành Hmông cư trú tại 9/9 huyện, thành phố. Lào Cai có các nhóm (ngành) Hmông tiêu biểu cho cộng đồng dân tộc Hmông ở Việt Nam. Họ còn lưu giữ được nền văn hóa dân gian phong phú, độc đáo, hấp dẫn, trong đó, văn học dân gian có vị trí vô cùng quan trọng, mang đậm bản sắc dân tộc, phản ánh nhiều mặt đời sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tư tưởng, tình cảm, tâm hồn, thẩm mĩ... của đồng bào. Đặc biệt, dân ca Hmông rất phong phú, với nhiều tiểu loại như: tiếng hát cưới xin, tiếng hát tang ma, tiếng hát tình yêu, tiếng hát làm dâu, tiếng hát mồ côi.... “Tiếng hát tình yêu” (dân ca Gầu plềnh; viết tắt: Gầu plềnh) có số lượng lớn nhất, giá trị văn học nghệ thuật độc đáo và vai trò quan trọng trong sinh hoạt cộng đồng, nhất là tại Lễ hội Gầu tào (Grâuk taox – viết tắt: LHGT). Nhưng đến nay, việc nghiên cứu Gầu plềnh, LHGT, nhất là sự biến đổi của chúng chưa được mấy người quan tâm nên rất cần được nghiên cứu cụ thể, sâu sắc hơn. Từ năm 1945 đến nay, công tác sưu tầm văn học dân gian Hmông đạt nhiều thành tựu, diện mạo văn học dân gian Hmông hiện lên tương đối đầy đủ. Nghiên cứu về dân tộc Hmông như lịch sử, dân tộc học, văn hóa dân gian, văn học dân gian…được chú trọng, có kết quả. Đặc biệt, công tác sưu tầm dân ca Hmông được đẩy mạnh; số lượng tác phẩm Gầu plềnh sưu tầm, công bố trên
- 2 1000 trang. Đó là nguồn tư liệu chính đảm bảo cho tác giả Luận án lựa chọn, khảo sát thực hiện đề tài. Nghiên cứu đề tài “Dân ca Gầu plềnh và LHGT của dân tộc Hmông ở Lào Cai – truyền thống và biến đổi”, chúng tôi hy vọng góp phần giải mã, làm sáng tỏ một phương diện của văn học nghệ thuật dân gian Hmông và một mảng sinh hoạt văn hóa quan trọng của đồng bào. Bản thân tôi có thuận lợi là sinh ra, lớn lên, công tác ở Lào Cai, được sống cùng đồng bào Hmông, nên hiểu biết nhất định về ngôn ngữ, phong tục, tập quán, tín ngưỡng…của đồng bào, đã tham dự nhiều LHGT, sưu tầm được số lượng đáng kể tư liệu văn học dân gian, nhất là những bài Gầu plềnh. Điều đó thúc đẩy tôi nghiên cứu với hy vọng làm sáng tỏ vấn đề một cách sâu sắc, đầy đủ hơn, đóng góp thiết thực, góp phần nhỏ bé vào công cuộc xây dựng, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ 2.1. Mục tiêu Luận án làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng, mật thiết giữa Gầu plềnh và LHGT, sự biến đổi của chúng trong xã hội đương đại; vận dụng lý thuyết thi pháp học văn học dân gian, trên cơ sở văn bản và thực tế diễn xướng, đánh giá những giá trị nội dung, nghệ thuật Gầu plềnh; khẳng định vai trò quan trọng của Gầu plềnh trong đời sống tinh thần dân tộc Hmông. Từ đó, tác giả Luận án đề xuất thái độ ứng xử phù hợp và các biện pháp tổ chức quản lý, giáo dục tại cộng đồng, góp phần giữ gìn một cách hiệu quả bản sắc văn hóa Hmông trên địa bàn tỉnh biên giới Lào Cai. 2.2. Nhiệm vụ Kế thừa, chọn lọc, nâng cao những kết quả nghiên cứu của người đi trước; nghiên cứu Gầu plềnh đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với tín ngưỡng, phong tục tập quán, môi trường diễn xướng tại LHGT; lý giải hiện tượng từ góc độ địa văn hóa, văn hóa tộc người. Làm rõ những đặc trưng trong diễn xướng và thi pháp Gầu plềnh. Phân tích giá trị tiêu biểu về nội dung, nghệ thuật Gầu plềnh trên phương diện thẩm mĩ ngôn từ; đồng thời làm rõ, sâu sắc hơn đặc trưng nguyên hợp của văn học dân gian, cụ thể ở đây là mối quan hệ mật thiết giữa Gầu plềnh với LHGT (ẩn sâu là các lớp tín ngưỡng, văn hóa) trên địa bàn tỉnh Lào Cai; thẩm định, đánh giá giá trị của chúng trong cuộc sống quá khứ, hiện tại và tương lai. Tỉnh Lào Cai có 5 ngành Hmông sinh sống, 4 ngành tổ chức LHGT. Luận án khảo sát, nghiên cứu sự tương đồng, khác biệt của các vùng lễ hội và của các
- 3 ngành Hmông; nghiên cứu sự biến đổi, ảnh hưởng của chúng trong xã hội đương đại, ảnh hưởng của chúng đến đối tượng học sinh phổ thông, đề xuất các giải pháp quản lý, bảo tồn, phát huy những giá trị tốt đẹp. Sưu tầm Gầu plềnh tại LHGT; biên dịch, bổ sung thêm vào kho tàng văn học dân gian nước nhà. 3. Phạm vi nghiên cứu 3.1. Về nội dung: Luận án chủ yếu khai thác phương diện ngôn từ, phương diện diễn xướng, đồng thời khai thác phương diện âm nhạc ở một mức độ hẹp hơn trong điều kiện có thể. Vận dụng lý thuyết thuyết thi pháp học văn học dân gian, chúng tôi đặt Gầu plềnh trong môi trường văn hóa của chúng để đánh giá, thẩm định nội dung, nghệ thuật, nhận diện bản chất thể loại. Môi trường văn hóa, xã hội truyền thống của người Hmông Lào Cai được xác định từ 1960 trở về trước (xem 3.2, Chương 3). 3.2. Về phạm vi, tư liệu khảo sát: Tài liệu dân ca đã công bố: + 04 tác phẩm, chủ yếu sưu tầm tại Lào Cai: 1) Doãn Thanh (1967), Dân ca Mèo (Lào Cai), Nxb Văn học, Hà Nội, (quyển 1). 2) Doãn Thanh (1974), Dân ca Mèo (Jăng Gâux Hmôngz) Lào Cai, Hội Văn học nghệ thuật Lào Cai (quyển 2). 3) Doãn Thanh, Hoàng Thao, Chế Lan Viên (1984), Dân ca HMông, Nxb Văn học, Hà Nội (quyển 3). 4) Doãn Thanh, Hoàng Thao, Triều Ân (2004), Ca dao dân ca Tày, Nùng, HMông, Nxb Văn học, Hà Nội (quyển 4). Tuy công bố sau 1960, song có thể xác định những bài dân ca trong các tập sách trên là lời cổ, thuộc về truyền thống. + 01 tác phẩm sưu tầm tại Hà Giang: Hùng Đình Quý (2001), Dân ca Mông Hà Giang, Sở Văn hoá Thông tin Hà Giang, Tập 1,2,3 và một số bài báo, tạp chí. Phạm vi, tư liệu điền dã của tác giả Luận án: + Về Gầu plềnh: Tác giả tham gia nhiều buổi hát Gầu plềnh tại các LHGT, hoặc nghe hát đơn lẻ; cùng một số nghệ nhân ghi âm, sưu tầm, biên dịch Gầu plềnh (PL0.1, tr.164) của các ngành Hmông hoa, Hmông đen, Hmông đỏ ở các vùng có điều kiện địa lý, lịch sử, xã hội khác nhau nên tính đại diện khá cao, phù hợp đối tượng nghiên cứu. + Về lễ hội: Tác giả nhiều lần trực tiếp tham dự, nghiên cứu LHGT ở các vùng và các ngành Hmông khác nhau: các xã Pha Long, Tả Ngải Chồ, Lùng Khấu Nhin (Mường Khương); xã Cán Cấu (Si Ma Cai); các xã Hầu Thào, San Sả Hồ,
- 4 Tả Giàng Phình (Sa Pa), xã Thái Niên (Bảo Thắng), xã Lao Kha (huyện Hà Khẩu, TQ) (PL0.2, 0.3, tr.253254); trên cơ sở đó, so sánh điểm chung và riêng giữa lễ hội các vùng. Tuy nhiên, địa bàn chúng tôi tập trung khảo sát chủ yếu ở 3 LHGT tiêu biểu tại 3 huyện của tỉnh Lào Cai là: Mường Khương: xã Pha Long; Si Ma Cai: xã Cán Cấu; Sa Pa: xã Tả Giàng Phình. + Về điều tra bằng phiếu: (PL0.4, tr. 257): Để đánh giá mức độ tác động, ảnh hưởng, biến đổi của Gầu plềnh và LHGT đối với lớp trẻ, chúng tôi lập phiếu điều tra, tổ chức điều tra trên đối tượng học sinh bậc trung học của 3 huyện Sa Pa, Mường Khương, Si Ma Cai, tổng số 450 phiếu; tổng hợp, phân tích kết quả. Khảo sát Gầu plềnh: Tổng số tư liệu khảo sát 250 bài (lời). Luận án có mục khảo sát 175 bài đã xuất bản, có mục khảo sát cả 250 bài (lời). Cụ thể: + Tư liệu Gầu plềnh đã xuất bản: 175 bài, gồm: 95 bài quyển 1; 42 bài quyển 2 (bỏ 3 bài trùng: số 8, 12, 45); 38 bài quyển 3, từ bài 3 đến bài 52 (bỏ 11 bài trùng, số: 7, 9, 12, 21, 35, 36, 42, 43, 44, 45, 51). + Tư liệu Tiếng hát mồ côi, tiếng hát làm dâu tiềm ẩn khả năng chuyển thành Gầu plềnh:13 bài (6 bài quyển 1; 4 bài quyển 3; 3 bài quyển 4). + Tư liệu Gầu plềnh do tác giả Luận án sưu tầm: 61 bài (lời). Lưu ý một số vấn đề dịch thuật tiếng Hmông ra tiếng Việt: Ngôn ngữ dân ca Hmông là ngôn ngữ nghệ thuật rất tinh tế, duyên dáng, giàu hình tượng và biểu tượng. Dịch giả Doãn Thanh đã chú trọng đến việc chú thích tỉ mỉ những ý dịch chưa thoát, những từ ngữ lạ, những phong tục, tập quán, cách diễn đạt riêng... giúp cho người đọc có thể nắm bắt tương đối trọn vẹn tác phẩm. Tuy nhiên, đọc dân ca, lại thông qua bản dịch, dù sao cũng rất khó có thể cảm nhận hết cái hay, cái đẹp trong tình ý sâu xa của bài ca. Do đó, khi nghiên cứu dân ca Hmông, Gầu plềnh, cần thiết phải đối chiếu với văn bản gốc của ngôn ngữ đó. Chúng tôi đối chiếu bản dịch so với văn bản gốc 45 bài Gầu plềnh, xin lưu ý một số điểm sau: Số lượng dòng thơ, từ ngữ: có 3 bài số dòng thơ bản gốc và bản dịch bằng nhau; còn lại đều lệch ngắn hơn, trong đó, 34 bài bản dịch ngắn hơn bản gốc (23 bài ngắn hơn từ 4 dòng trở lên; có bài ngắn hơn 35 dòng). Số chữ từng dòng thơ dịch cũng ít hơn số chữ bản gốc. Từ tiếng Hmông là từ đơn âm tiết như tiếng Việt, như vậy, nguyên nhân chủ yếu bản dịch vênh so với bản gốc là do cấu tạo ngữ pháp khác nhau và do đặc điểm dân ca Hmông có nhiều tiếng đệm không có nghĩa hay nghĩa mờ nhạt trong bài. VD: “Caox nav caox txir txơưx zus/ Zus caox pôngz ntơưs têx bông fơưr/ Caox hluz tơưv trôngx ntus plơưl/ Caox nav caox txir
- 5 muôz caox xang/ Môngl têx tsêr cơưv ntơưr” (Dịch: Mẹ cha cô biết sinh/ Sinh ra cô đặt trong bịch thóc/ Lớn khôn, mẹ cha cô cho cô đi học [133, tr. 12]. Từ bốn dòng thơ VD trên, dịch còn ba dòng (lược 1 dòng). Vì trôngx ntus plơưl không có nghĩa nên dịch gộp hai dòng thơ cuối còn một dòng. Câu đầu 6 tiếng, dịch còn 5 tiếng vì caox nav caox txir (4 tiếng) dịch ra tiếng Việt là mẹ cha cô (3 tiếng). Như vậy, khi dịch ra tiếng Việt, có sự thay đổi đáng kể sẽ làm giảm đáng kể vai trò nhạc điệu, nhịp điệu của lời ca. Người đọc khó hình dung ra diễn xướng của lời ca ấy. Đôi khi, dịch giả muốn dịch cho có hồn thơ thì lại bị sai lệch về ý nghĩa . VD: “Caox nav caox txir trôngx plangl txơưv tsaoz măngx/ Cha mur cêr jur/ Caox uô caox nav caox txir mêr nxeik gâux xưz/ Cur lê tâu txu cêr thur” (Dịch: Trước cửa nhà em có cây lanh mọc/ Ong có nơi về đậu/ Em làm thân con gái bẩy năm theo mẹ theo cha/ Anh có nơi qua lại) [133, tr. 10]. Nguyên nghĩa: bố mẹ em trồng cây lanh trước cửa, ong mới về đậu, em làm cô gái đồng trinh của mẹ, của cha, anh mới qua lại). Nếu nói bố, mẹ em trồng lanh...tức là gia đình có nề nếp lao động, bản thân em chắc biết làm lanh, may vá thêu thùa,... được thừa hưởng nền nếp gia đình...Em lại là cô gái còn trong trắng nên anh đến tìm hiểu là lẽ đương nhiên. Hiểu như vậy mới phù hợp phong tục, tập quán dân tộc Hmông. Mặt khác, dịch ra tiếng Việt như trên, câu thơ khó đảm bảo được vần điệu ( jur vần với thur, dịch là đậu lại). Sau khi dịch, ý nghĩa hình tượng thơ không còn nguyên vẹn: VD: “Caox tuôr cur lux têl trơưr/ Cur tuôr caox lux têl truz/ Ưz uô chiv cêr plênhl gâux đrâus/ Puôr tangv têx jâuz tsênhx grêl jâuz sur hluz”. (Dịch: Em nắm tay anh nắm cho vững/ Anh cầm tay em cầm cho chặt/ Ta yêu nhau đằm thắm như khóm ngải xanh tươi) [133, tr. 8]. Nguyên nghĩa hai câu cuối: Con đường tình duyên của đôi ta, như là từ đám rau xương cá chuyển sang đám rau ngải lớn. Bản dịch đã bỏ từ con đường (cêr) và từ lớn (hluz), thêm vào đó từ xanh tươi. Nếu dịch như vậy thì chỉ cho ta cảm nhận về một tình yêu đằm thắm, ở thời điểm ấy mà thôi. Từ bản gốc, có thể phân tích ý nghĩa hình tượng thơ như sau: Vùng cao mọc nhiều rau xương cá và rau ngải, nhưng rau xương cá chỉ mọc vào mùa xuân, rất tươi tốt và tàn rất nhanh vào đầu mùa hè; rau ngải hầu như quanh năm không tàn. Từ sự nhanh tàn chuyển sang lâu tàn ví với con đường tình duyên là con đường dài lâu, bền chặt, càng ngày càng bền chặt hơn, thắm thiết hơn, tin tưởng hơn. Điều đó tương đồng với việc cầm tay nhau cho vững (têl truz) ở trên. Đây là cách diễn đạt quen thuộc của đồng bào Hmông (VD, về sự bất tận: Bài hát sắp hết, có bài
- 6 không hết/ hết như từ nương ớt sang vườn kiệu) và phù hợp với tâm lý ưa thuỷ chung của nam nữ Hmông. Bản dịch chưa thể hiện hết đặc trưng giao duyên, bối cảnh diễn xướng, nhất là trong các đối ca nam nữ: Mở đầu các đối ca nam nữ, người Hmông thường hát một số làn điệu, câu hát quen thuộc: Ntux tês nduô! Ntux tês nduô nxeik gâux sênh! Ntux tês nduô lênhx tangz!... Tất cả đều được dịch là chàng ơi!, nàng ơi! hoặc không dịch sẽ không lột tả hết sự tinh tế của câu hát. Ntux tês nduô có nghĩa: đất trời đẹp hoặc trời hết rồi kết hợp với lời gọi chàng ơi!, nàng ơi!... thì mới duyên dáng! Mặt khác, dịch là nàng ơi nhưng mấy từ chỉ cô gái có nghĩa khác nhau; chẳng hạn nxeik gâux xưz (nàng trinh nữ), nxeik gâux sênh (nàng tiên) nxeik nhăngz (nàng dâu). Không ai hát với người đã có chồng mà gọi là cô trinh nữ cả. Cái duyên của lời ca nằm ở chỗ đó! Do ngôn ngữ bất đồng nên việc dịch tất nhiên không thể thể hiện hết cái hay, cái đẹp, tình ý sâu xa, sự tinh tế và đặc biệt là nét đặc sắc văn hóa của những lời ca. Vì lẽ đó, chúng tôi đề xuất: 1) Để hiểu được chiều sâu cũng như cái hay, cái đẹp của từng lời ca Gầu plềnh, việc cần thiết và hết sức quan trọng là người thực hiện cố gắng đối chiếu văn bản dịch với văn bản gốc và tìm hiểu trên cơ sở văn hóa truyền thống của đồng bào. 2) Hiện nay, các tác phẩm dân ca Hmông đã xuất bản chủ yếu bằng tiếng Việt, có quá ít tác phẩm ghi âm, văn bản tiếng Hmông hoặc song ngữ Việt – Hmông, vì vậy, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, sưu tầm cần quan tâm thỏa đáng để bảo tồn nền dân ca truyền miệng đặc sắc ấy. 3) Sưu tầm dân ca Hmông nói riêng, văn học dân gian các dân tộc thiểu số nói chung, các tác giả nên ghi âm nguyên bản, ghi lại bằng chữ viết của dân tộc (nếu có) và khi dịch, cố gắng ghi chú tỷ mỷ, kỹ lưỡng những chỗ mà việc dịch thuật gặp khó khăn, như vậy sẽ giúp người đọc tiếp cận được giá trị đích thực của tác phẩm. 4. Phương pháp nghiên cứu Chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính là: 4.1. Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Gầu plềnh tồn tại trong diễn xướng, ẩn chứa nhiều giá trị thuộc nhiều lĩnh vực nhận thức, tín ngưỡng, sinh hoạt, nghệ thuật, lịch sử…Có thể các giá trị trên được thể hiện độc lập song do đặc trưng thể loại nên phần lớn là hỗn dung, nguyên hợp. Vì vậy, tác giả Luận án sử dụng đồng thời, khách quan, bình đẳng nhiều phương pháp chuyên ngành như ngữ văn học, văn hóa học, lịch sử học, dân tộc học…Sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành sẽ giúp cho việc khám phá các giá trị của Gầu plềnh toàn
- 7 diện, sâu sắc hơn. 4.2. Phương pháp điền dã dân tộc học: Chúng tôi thực hiện khảo sát thực tế (tham dự LHGT) thu thập tư liệu, tiến hành khảo cứu, tổng hợp, phân tích tư liệu...giải quyết mục tiêu đề tài, do vậy phải sử dụng các thao tác quan sát, phỏng vấn sâu, quay phim, chụp ảnh, điều tra bằng phiếu; ghi âm, biên dịch Gầu plềnh; thống kê, phân loại tư liệu…Với phương pháp này, việc nghiên cứu Gầu plềnh trong môi trường diễn xướng tại LHGT có tính khoa học, tính thực tiễn rất cao và cho kết quả trung thực, chính xác; đáp ứng yêu cầu đặt ra. 4.3. Phương pháp so sánh lịch đại và so sánh đồng đại: Chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu này để đối chiếu, so sánh Gầu plềnh (đặc biệt là diễn xướng của chúng trong LHGT) giữa các ngành Hmông khác nhau cư trú ở các vùng khác nhau, giữa các thời kỳ lịch sử khác nhau; đối chiếu Gầu plềnh với dân ca trữ tình của các dân tộc khác…trên cơ sở phân tích, tổng hợp, chỉ ra nét đặc sắc cũng như quá trình phát triển, biến đổi của chúng. 4.4. Phương pháp phân tích văn bản ngôn từ: Gầu plềnh được thể hiện qua nhiều yếu tố, song thể hiện qua văn bản ngôn từ hay phần lời là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất quyết định sự tồn tại, sự diễn xướng cũng như sự sáng tạo của người nghệ sỹ bình dân. Do đó, phân tích văn bản ngôn từ trong nghiên cứu Gầu plềnh là con đường khoa học để khám phá những giá trị (cả nội dung, nghệ thuật) đích thực, sâu sắc của chúng. Tuy nhiên, chúng tôi không phân tích văn bản ngôn từ Gầu plềnh một cách thuần túy như phân tích tác phẩm văn học mà kết hợp rộng hơn trong tổng thể của phương pháp nghiên cứu liên ngành và biện pháp phân tích các phạm trù thi pháp học văn học dân gian. 4.5. Áp dụng hướng tiếp cận nhân học văn hóa (cultural anthropology) xem xét đối tượng nghiên cứu trong một quá trình vận hành của tổng thể văn hóa Hmông, đặc biệt là phong tục, tập quán, điều kiện sống..., từ đó luận bàn, lý giải sự phát sinh, truyền bá, sáng tạo, biến đổi của Gầu plềnh cũng như LHGT. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài, điểm mới của Luận án 5.1. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn: Đề tài “Dân ca Gầu plềnh và LHGT của người Hmông ở Lào Cai truyền thống và biến đổi” phần nào đã đáp ứng tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn đang đặt ra. Về lý luận là nghiên cứu Gầu plềnh đặt trong môi trường diễn xướng cụ thể, nơi Gầu plềnh được bộc lộ sinh động nhất, phản ánh đặc trưng nguyên hợp của tác phẩm văn học dân gian. Về thực tiễn, LHGT ngày nay đang biến đổi theo xu hướng phát triển quy mô ngày càng lớn hơn do sự phát triển xã hội và nhu cầu hưởng thụ văn hóa của
- 8 đồng bào Hmông ngày càng tăng, theo đó, Gầu plềnh cũng đang biến đổi đa dạng nội dung, phong phú về phương thức diễn xướng. 5.2. Điểm mới của Luận án: Khảo sát, miêu thuật, đối chiếu các LHGT giữa các vùng của Lào Cai trong quá khứ và hiện tại. Ghi âm, quay phim, chụp ảnh, sưu tầm thêm và biên dịch Gầu plềnh, đóng góp thiết thực vào kho tàng văn học dân gian nước nhà. Lý giải bằng cơ sở khoa học, cơ sở nội tại của lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ Hmông, vận dụng quan điểm thi pháp học văn học dân gian chỉ ra bản chất mối quan hệ giữa Gầu plềnh LHGT và luận giải những vấn đề căn cốt nhất, đặc sắc nhất về nội dung, nghệ thuật Gầu plềnh một cách hệ thống. Nghiên cứu Gầu plềnh với tư cách một tiểu loại dân ca độc lập, đặt trong môi trường động của diễn xướng và quá trình vận động. Đánh giá sự biến đổi, dự báo xu hướng biến đổi Gầu plềnh và LHGT từ truyền thống đến hiện đại, đề xuất các giải pháp bảo tồn, phát huy góp phần xây dựng cuộc sống mới. 6. Cấu trúc Luận án: Ngoài phần mở đầu, kết luận, Luận án gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và một số vấn đề lý luận. Chương 2: Diễn xướng Gầu plềnh trong Lễ hội Gầu tào. Chương 3: Một số bình diện thi pháp Gầu plềnh. Chương 4: Sự biến đổi của Gầu plềnh và Lễ hội Gầu tào.
- 9 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN Chúng tôi nêu tổng quan một số vấn đề nghiên cứu và lý luận liên quan đến đề tài để có cái nhìn tổng quát và phương hướng giải quyết các nội dung đặt ra trong đề tài. Đó là tổng quan về: lịch sử nghiên cứu, sưu tầm; một số vấn đề cơ bản nhất về lịch sử, văn hóa, xã hội, văn học dân gian Hmông; khái niệm Gầu plềnh; những nội dung lý luận định hướng giải quyết vấn đề. 1.1. Tổng quan lịch sử vấn đề 1.1.1. Về sưu tầm Trước Cách mạng tháng Tám, việc sưu tầm dân ca Hmông nói chung chưa được quan tâm. Chúng tôi tìm thấy một số bài dân ca Gầu plềnh được in trong một vài công trình nghiên cứu dân tộc học như “Lịch sử người Mèo” của Savina, “Lịch sử nhân dân vùng hạ lưu sông Triết Giang” của Từ Tùng Thạch. Các tác giả sử dụng những bài dân ca đó như tư liệu minh chứng cho nhận định, đánh giá các vấn đề về dân tộc học, văn hóa học của mình chứ không nhằm mục đích sưu tầm, lưu giữ; tuy nhiên, qua đó, người đọc có thể nhận thấy hai nhà nghiên cứu trên nhận định dân tộc Hmông rất yêu ca hát, có nền dân ca phong phú là có cơ sở. Sau Cách mạng tháng Tám, dưới ánh sáng đường lối văn nghệ, với quan điểm bình đẳng dân tộc của Đảng, việc nghiên nhiều mặt đời sống các dân tộc thiểu số nước ta được đặc biệt quan tâm, chú trọng, có thành tựu; việc nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian các dân tộc thiểu số đạt nhiều kết quả. Dân tộc Hmông được quan tâm nghiên cứu; văn học dân gian Hmông được nhiều người tiến hành sưu tầm và đạt kết quả nhất định. Mở đầu công cuộc tìm hiểu về đồng bào Hmông sau Cách mạng là nhà văn Tô Hoài. Năm 1952, trong chuyến đi thực tế 8 tháng cùng bộ đội giải phóng Tây Bắc, sống cùng đồng bào Hmông tại Tủa Chùa, Lai Châu, ông thu lượm được một số bài dân ca Hmông. Đặc biệt, Tô Hoài đã phản ánh một cách nghệ thuật phong tục, tập quán, thói quen người Hmông trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” và chép lại những câu Gầu plềnh tiêu biểu. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, sau khi bộ chữ Hmông Việt Nam được Chính phủ ban hành, phong trào học tiếng Hmông, chữ Hmông trong cán bộ, giáo viên và xóa mù chữ cho người Hmông bằng tiếng Hmông ở Lào Cai phát triển mạnh. Nhà sưu tầm Doãn Thanh, một thầy giáo dạy chữ Hmông, một cán bộ
- 10 quản lý công tác xóa mù chữ tiếng Hmông của Ty Giáo dục Lào Cai, đã tiến hành sưu tầm dân ca của nhiều ngành Hmông tại các huyện Sa Pa, Mường Khương, Bắc Hà, Bát Xát, Si Ma Cai tỉnh Lào Cai. Kết quả, năm 1967 cuốn “Dân ca Mèo (Lào Cai)”, Nxb Văn học phát hành ra mắt bạn đọc. Đây là cuốn sách giới thiệu tương đối đầy đủ diện mạo dân ca Hmông với năm loại chính: “Tiếng hát tình yêu, Tiếng hát mồ côi, Tiếng hát làm dâu, Tiếng hát cúng ma, Tiếng hát cưới xin” [132, tr. 9]. Trong đó, loại tiếng hát tình yêu (Gầu plềnh) có số lượng lớn nhất: 95/142 bài. Tác phẩm được dịch tiếng Việt một cách công phu, chú thích tỉ mỉ tên, địa chỉ người hát, chỉ dẫn về phong tục, thói quen sinh hoạt, những chỗ dịch chưa sát nghĩa gốc…và chủ yếu dịch từ nên đảm bảo được ý nghĩa cơ bản. Doãn Thanh khẳng định trong lời giới thiệu: “Gầu plềnh chính là loại tình ca của nam nữ, loại bài hát phong phú và đa dạng nhất của người Mèo… Trong dân ca Mèo, loại này là loại chủ yếu, có nhiều giá trị tích cực nhất”. “Dân ca Mèo (Lào Cai)” là công trình sưu tầm đầu tiên rất quan trọng đối với chúng tôi vì nó hội tụ cơ bản đủ diện mạo dân ca của các nhóm, ngành Hmông ở Lào Cai. Bản thân Doãn Thanh là thầy giáo tiếng Hmông có hàng chục năm sống cùng đồng bào, am hiểu tường tận phong tục, tập quán, thói quen, văn hóa, ngôn ngữ, cách diễn đạt… của đồng bào, tiến hành sưu tầm nghiêm túc, cẩn trọng nên rất đáng tin cậy. Đó là động lực thúc đẩy, củng cố thêm ý tưởng cho tác giả Luận án hướng nghiên cứu, sưu tầm Gầu plềnh. Cùng thời gian này, Bùi Lạc và Mạc Phi công bố truyện thơ “Tiếng hát làm dâu Tây Bắc” (Tạp chí Văn học số 3/1964) và một số bài dân ca Hmông vùng Sơn La, Lai Châu, Lào Cai. Tiếng hát làm dâu Tây Bắc tương tự truyện thơ A Thào – Nù Câu Doãn Thanh sưu tầm ở Lào Cai được một số học giả coi là truyện thơ về đề tài tình yêu, trong đó có nhiều bài, đoạn, câu Gầu plềnh được khéo léo liên kết lại dưới dạng lối kể chuyện hoặc đối đáp của các nhân vật thành câu chuyện. Chúng tôi cho rằng đây là sự phát triển của Gầu plềnh tiến dần đến truyện thơ nên có giá trị để khai thác phục vụ đề tài. Năm 1974, Doãn Thanh tiếp tục cho ra mắt cuốn Dân ca Mèo Lào Cai (45 bài, trong đó có 42 bài Gầu plềnh mới sưu tầm; sách in song ngữ Việt Hmông, Sở Văn hóa Thông tin Lào Cai phát hành). Các bài hát sưu tầm được đại diện cho nhiều ngành Hmông các vùng có đông người Hmông sinh sống của tỉnh Lào Cai; đặc biệt, nhiều bài quen thuộc được nam nữ hát trong LHGT. Tác phẩm giá trị ở chỗ lần đầu tiên, những bài Gầu plềnh được in hai thứ tiếng, giúp cho việc nghiên cứu, đối chiếu lời Việt và lời Hmông để xác định giá trị đích thực tác
- 11 phẩm thuận lợi hơn. Năm 1984, các tác giả Doãn Thanh, Hoàng Thao tiến hành tuyển chọn, chỉnh lý, bổ sung một số bài dân ca Hmông đã công bố trên các sách, tạp chí và công bố cuốn Dân ca Hmông với lời giới thiệu của Chế Lan Viên do Nhà xuất bản Văn học phát hành. Cuốn sách tuyển đủ năm loại hát dân ca Hmông với lời dịch trau chuốt hơn. Riêng Gầu plềnh, các tác giả đã chọn một số bài từ các cuốn trước và bổ sung 38 bài mới. Mười năm sau, nhà văn, nhà nghiên cứu, sưu tầm Hùng Đình Quý, người dân tộc Hmông tỉnh Hà Giang (giáp tỉnh Lào Cai), công bố tác phẩm Dân ca Mông Hà Giang gồm 3 tập, in song ngữ Việt Hmông, gần 100 bài chủ yếu thuộc loại Gầu plềnh, Gầu ua nhéng (Gâux uôs nhangz) do ông sưu tầm tại Hà Giang. Đây là tư liệu cần thiết để chúng tôi đối chiếu với các tác phẩm sưu tầm tại Lào Cai, tìm ra nét tương đồng, khác biệt của hai vùng cư trú của người Hmông. Từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, nhiều người tiến hành ghi chép, sưu tầm dân ca Hmông và in rải rác trên các sách báo trung ương, địa phương. Bản thân tác giả Luận án từ năm 2001 đến nay cũng tham gia sưu tầm, biên dịch được một số bài Gầu plềnh hát trong các LHGT. Nhìn tổng quát, công tác sưu tầm dân ca Hmông nói chung, Gầu plềnh nói riêng hơn 60 năm qua đạt được những thành tựu quan trọng. Số lượng bài Gầu plềnh sưu tầm tại Lào Cai là nguồn tư liệu quý để chúng tôi khảo sát, hoàn thành Luận án này. Cùng thời gian trên, công tác sưu tầm truyện cổ, tục ngữ, câu đố, tang ca Hmông cũng được chú trọng; kết quả là đã phát hành được một số cuốn sách như: Truyện cổ dân tộc Mèo (Doãn Thanh, Thương Nguyễn sưu tầm, Nxb Văn học in năm 1963), Truyện cổ H.Mông (Lê Trung Vũ sưu tầm, Nxb Văn hóa in năm 1984), Quả lê mũi dài (Vàng Thung Chúng, Ngọc Cường sưu tầm, Hội văn học nghệ thuật Lào Cai phát hành năm 1999), Tục ngữ và câu đố Mông (Lê Trung Vũ sưu tầm, Nxb Văn hóa thông tin, 1994), Một số tục ngữ, câu đố Hmông Lào Cai (Lý Seo Chúng sưu tầm, Sở Văn hóa Thông tin Lào Cai phát hành 1996), Tang ca (KRUÔZ CÊ) của người Mông Sa Pa (Giàng Seo Gà sưu tầm, Nxb Văn hóa dân tộc phát hành năm 2004). Các cuốn truyện cổ, tang ca Hmông tập hợp được một số thể loại như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích…, phản ánh nhiều nét đời sống sinh hoạt cộng đồng Hmông, nhất là sinh hoạt văn hóa, ca hát, lễ hội…; các cuốn tục ngữ, câu đố khá phong phú, phản ánh nhiều mặt đời sống lao động, trí tuệ, kinh nghiệm của đồng bào. Đây là nguồn tư liệu phong phú, cần thiết giúp tác
- 12 giả Luận án tìm hiểu sâu hơn về các phương diện đời sống, nghệ thuật của người Hmông, đồng thời có thể sử dụng để đối chiếu, so sánh soi sáng vấn đề. Như vậy, trên văn bản, các thể loại văn học dân gian Hmông đã được hiện diện khá đầy đủ là cơ sở quan trọng cho việc lựa chọn và triển khai đề tài. 1.1.2. Về nghiên cứu 1.1.2.1. Ở nước ngoài Việc quan tâm, nghiên cứu lịch sử, văn hóa, phong tục, đời sống người Hmông xuất hiện sớm nhất ở TQ, nơi họ cư trú từ xa xưa. Chúng tôi chú ý trước hết những nghiên cứu ở TQ, đặc biệt vùng Tây Nam TQ, nơi cư trú chủ yếu của người Hmông và là con đường di cư của họ xuống phía Nam đến Việt Nam. Đời nhà Tống (thế kỷ XII), tác giả Lục Du viết cuốn “Lão học am bút ký” đã ghi chép một số phong tục “lạ” của người Miêu (Hmông), có đoạn tả cảnh sinh hoạt ca hát: Người Miêu khi nông nhàn, từng bọn một hai trăm người, tay nắm tay nhau mà hát, có mấy người thổi khèn đằng trước dẫn dắt, những cái vại cất trong bóng cây, đói không cần ăn, chỉ lấy rượu trong vại ra uống, không ngừng ca hát, ca hát thâu đêm ngoài trời đến hôm sau [Dẫn theo Lương Vũ Minh, 189, tr.126. bg]. Đến đời nhà Minh (thế kỷ XIV – XVII), sách “Gia Tĩnh đồ kinh” ghi chép lịch sử triều đại nhà Minh cũng dành hẳn một mục chép về phong tục Miêu dân ở vùng Tây Nam TQ, có ghi: Nam, nữ chưa kết hôn, hàng năm vào tháng ba, tháng tư, tập trung ở sân bãi, ở giữa dựng một cái cột, nhảy múa xung quanh, ca hát…” [189, tr.126. bg]. Vào đời Thanh, Trần Đỉnh viết “Điền Kiềm du ký”, ghi chép tại vùng Vân Nam (TQ), rất chú ý đến người Hmông, ông miêu tả: Tập tục của người Miêu, hàng năm vào tháng giêng, thanh niên nam, nữ ăn mặc đẹp, cùng nhau nhảy múa [189, tr.126. bg]. Các miêu tả trên về phong tục ca hát vào dịp đầu năm của người Hmông cổ đại có lẽ là LHGT hoặc chí ít cũng là dấu tích của LHGT ngày nay. Năm 1933, Từ Tùng Thạch, người TQ, xuất bản tác phẩm “Lịch sử nhân dân vùng hạ lưu sông Việt Giang” phác hoạ những nét cơ bản lịch sử các dân tộc Hmông, Dao, Di…; trong đó, ông dành nhiều trang nói về lịch sử chiến tranh, di cư, văn hoá, phong tục, tập quán dân tộc Hmông; khẳng định dân tộc Hmông không phải người man rợ mà là một trong rất ít dân tộc vẫn còn lưu giữ được sắc thái của Bộ lạc nguyên thủy, do di cư về phương Nam sinh sống, tổ chức chính quyền độc lập nên bị người phương Bắc gọi là Man [130, tr. 43].
- 13 Sách Vân Nam phong vận chí, Miêu tộc Thái hoa sơn (1982) ghi: Thái hoa sơn ( ? ? ?) còn gọi là Xọa hoa sơn (tức LHGT) diễn ra ở sườn đồi bằng phẳng, rộng rãi giữa mấy thôn trại của người Miêu; mỗi khi đến ngày hội, đồng bào Miêu vượt Châu mà đến vô cùng náo nhiệt [188, tr.137. bg]. Những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở tỉnh Vân Nam, TQ thành lập Hội nghiên cứu Miêu học tại một số Châu thuộc tỉnh và đã xuất bản một số đầu sách. Đáng chú ý là 4 cuốn: “Nghiên cứu về dân tộc Miêu ở Văn Sơn” (Vương Vạn Vinh chủ biên); “Nghiên cứu về dân tộc Miêu ở Hồng Hà – Lịch sử, hiện trạng và tương lai” (La Hữu Lượng biên soạn); “Dân tộc Miêu ở Mã Quan”(nhiều tác giả); ba cuốn sách này do Nxb Dân tộc Vân Nam phát hành từ năm 2004 đến 2009; và cuốn “Vân Nam phong vận chí, Miêu tộc Thái hoa sơn” do Nxb nhân dân Vân Nam phát hành. Các sách trên nghiên cứu nhiều mặt ngôn ngữ, lịch sử, văn hóa, kinh tế, giáo dục…của người Hmông ở ba Châu của tỉnh Vân Nam. Cả bốn sách đều dành những trang thích đáng luận bàn Tết hoa sơn, Thái hoa sơn (LHGT) và truyền thống hát dân ca, kể chuyện trong lễ hội. Đáng chú ý là bài “Vụn vặt về hội Gầu tào của dân tộc Miêu Văn Sơn” của Lương Vũ Minh, tháng 2/2004, đã khái quát sơ bộ tình hình lịch sử di cư từ Bắc xuống Nam của dân tộc Hmông, tình hình nghiên cứu Miêu dân từ xưa tới nay, khẳng định Gầu tào là “ngày hội long trọng nhất…làm cho con người lĩnh hội được phong tục mấy nghìn năm lịch sử của người Miêu” và nhận định: Gầu tào thể hiện “tộc vi” (cột nêu vốn là “tiết vi” nhưng trở thành “tộc vi” vì có sức thu hút mọi người một cách tự nhiên, là nét riêng của người Hmông), “phong thái diện mạo”, “phẩm chất”, “phong tục”, “nghệ thuật” dân gian. Đặc biệt, tác giả miêu tả khá chi tiết diễn biến cuộc hát đối dân ca theo nguyên tắc “tách dần từ đám hát lớn thành những đám hát nhỏ hơn rồi thành từng đôi” [189, tr.127. bg]; điều này trùng hợp với quan sát của chúng tôi tại LHGT xã Pha Long huyện Mường Khương. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chỉ dừng ở mức độ miêu thuật, đưa ra những nhận định về các vấn đề lịch sử, dân tộc, văn hóa, tín ngưỡng chứ chưa đi sâu nghiên cứu cụ thể, chi tiết mối quan hệ giữa LHGT và Gầu plềnh, chưa vận dụng những phương pháp khoa học để làm sáng tỏ các giá trị tiềm ẩn bên trong của chúng. 1.1.2.2. Ở Việt Nam Cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ, cụ thể Gầu plềnh và LHGT của người Hmông và mối quan hệ của chúng. Tuy nhiên, về dân tộc
- 14 học, lịch sử, văn hóa Hmông được một số tác giả quan tâm, ghi chép. 1) Thời kì phong kiến tự chủ, một số trí thức phong kiến đã nghiên cứu vùng miền núi phía Bắc. Nhà bác học Lê Quý Đôn nghiên cứu lịch sử, địa lý, văn hoá, phong tục các dân tộc ít người Việt Bắc, Tây Bắc (trong đó có Lào Cai) với các tác phẩm Vân đài loại ngữ (số 1773, Viện Hán Nôm), Phủ biên tạp lục (số 1776, Viện Hán Nôm), Kiến văn tiểu lục (số 1777, Viện Hán Nôm); tác giả Hoàng Bình Chính ghi chép văn hoá dân tộc vùng Yên Bái, Lào Cai trong cuốn H ưng hoá phong thổ lục (số 1778, Viện Hán Nôm), giới thiệu một số thần thoại, cổ tích Tày, Nùng, Mường, Thái…nhưng chưa thấy các tác giả nói về người Hmông. Đến thế kỷ XIX, Phạm Thận Duật với cuốn Hưng hoá địa chí kí lược (1856, Viện Hán Nôm) nói về một số dân tộc ít người Tây Bắc, nhắc đến người Dao – Mèo và sưu tầm một số sách cổ người Dao huyện Bảo Yên (Lào Cai). Như vậy có thể xác định thời kỳ này các tộc Hmông, Dao đã di cư đến Lào Cai. 2) Thời kì cận đại, đầu thế kỷ XX Thực dân Pháp, sau khi xâm lược Việt Nam đã cử một số đoàn thám hiểm, truyền giáo và cả các đội quân bình định vùng núi phía Bắc. Trong các đoàn đó có những người đã nghiên cứu một số dân tộc ít ngư ời như Savina nghiên cứu người Hmông, Bônifaxi nghiên cứu người Tày, Mán...Các tác giả trên đề cập và sưu tầm một số truyện cổ dân gian các dân tộc. Tuy nhiên, họ sử dụng văn học dân gian các dân tộc thiểu số như những cứ liệu minh hoạ cho các công trình nghiên cứu lịch sử, dân tộc học. Mặt khác, vì mục đích chính trị của kẻ xâm lược nên một số nhận định và một số tác phẩm văn học dân gian đã bị xuyên tạc (chẳng hạn, từ truyền thuyết nạn đại hồng thủy của người Hmông, Savina cho đây là truyện tháp Babel tựa như truyện của Thiên chúa giáo và người Hmông là người phương Bắc, hơn nữa, có chung nguồn gốc với người Châu Âu [117, tr. 112]). Công trình“Lịch sử người Mèo” của Savina (một cha cố kiêm sĩ quan Pháp sang Việt Nam hoạt động và nghiên cứu tại vùng Sa Pa, Lào Cai và Vân Nam, TQ) xuất bản tại Hồng Công năm 1924 là đáng lưu tâm nhất. Công trình gồm 4 chương đề cập nhiều mặt truyền thuyết, lịch sử di cư, văn hóa, phong tục, tín ngưỡng, sinh hoạt, lao động sản xuất của người Hmông. Mặc dù viết phục vụ cho mục đích truyền đạo và xâm lược nhưng tác giả miêu thuật tỉ mỉ diện mạo đời sống vật chất, tinh thần của người Hmông. Ông miêu tả LHGT, hát Gầu plềnh của nam nữ dịp đầu xuân, sưu tầm một số truyền thuyết, dân ca, ngụ ngôn, trích dẫn trong tác phẩm để chứng minh cho các luận điểm. Savina dịch một số bài dân ca Hmông và nhận định: dân ca Hmông lưu trữ toàn bộ lịch sử, cũng như đời sống của người Hmông.
- 15 Tuy nhiên, do định kiến hoặc do ý đồ viết, Savina có thái độ, cái nhìn miệt thị đối với phong tục tổ chức tết, LHGT và hát Gầu plềnh; ông viết: “Người Mèo gọi những dịp hội lễ vui mừng là: hầu chớu, uống rượu, và dịp vui ngày tết là: nào tsà, ăn xuân mới...cái gì cũng cho vào mồm ăn, cũng như chúng ta thường nói mọi thứ đều đổ vào lỗ cống!” [117, tr. 69]. 3) Thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám đến nay Về hướng nghiên cứu lịch sử, văn hóa và dân tộc học: Sau Cách mạng tháng Tám, nghiên cứu lịch sử, văn hóa, dân tộc học về người Hmông ở nước ta được đẩy mạnh, đạt nhiều thành tựu. Các công trình tiêu biểu như Người Mông ở Việt Nam (Cư Hòa Vần, Hoàng Nam, 1994), Văn hóa Hmông Lào Cai (Trần Hữu Sơn,1995), Văn hóa Mông Hà Giang (Hùng Đình Quý và nhóm, 1996), Văn hóa các dân tộc ở Yên Bái (Bùi Huy Mai, 1998), Văn hóa tâm linh của người Hmông ở Việt Nam, truyền thống và hiện tại (Vương Duy Quang, 2005), Dân tộc Mông Sơn La với việc giải quyết vấn đề Tín ngưỡng, Tôn giáo hiện nay (Thào Xuân Sùng chủ biên, 2009), Tiếp cận văn hóa Hmông (Mã A Lềnh, 2014), Những đỉnh núi du ca, một lối tìm về cá tính H’mông (Nguyễn Mạnh Tiến, 2014),... là những công trình khoa học khá lớn, nghiên cứu nhiều mặt đời sống vật chất, tinh thần (nhà cửa, trang phục, phong tục, tập quán, sinh hoạt, sản xuất, tín ngưỡng, tâm linh, văn hóa, văn học dân gian, ngôn ngữ, chữ viết, lễ hội...) dân tộc Hmông, giúp tác giả Luận án có cái nhìn tổng thể về dân tộc này. Các tác giả ít nhiều đều đề cập đến LHGT cũng như dân ca Hmông; tuy chủ yếu miêu thuật lễ hội và nêu những nét phác thảo đặc điểm dân ca nhưng họ đều có chung nhận định như: dân tộc Hmông đặc biệt yêu ca hát, có kho tàng dân ca phong phú; Gầu plềnh được hát phổ biến trong cộng đồng, LHGT có ở một số vùng đồng bào Hmông. Những nhận định, đánh giá trong các công trình trên có tính chất gợi ý, định hướng bổ ích cho đề tài. Ngoài ra, một số công trình, tuy không trực tiếp đề cập đến vấn đề của đề tài Luận án này nhưng rất cần thiết cho chúng tôi có cái nhìn rộng hơn, cụ thể hơn về con người, phong tục, tập quán Hmông ở từng vùng như các luận văn: Quan hệ dòng họ của người Hmông hoa ở xã Kim Nọi Mù Căng Chải” của Vương Duy Quang (1988), Tìm hiểu văn hóa Mông huyện Sa Pa của Lê Huy Phú (2002) và một số bài báo của Lê Trung Vũ, Nguyễn Văn Lợi, Phạm Đức Dương… Hai chục năm trở lại đây, ở Lào Cai, phong trào nghiên cứu văn hóa, văn nghệ dân gian phát triển mạnh, xuất hiện nhiều tác giả với nhiều bài báo viết về các mặt đời sống đồng bào Hmông ở các huyện của tỉnh Lào Cai. Tiêu biểu:
- 16 Trần Hữu Sơn: “Trang trí dân gian trên trang phục Hmông hoa Bắc Hà” (Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 6/1990), “Sa man giáo của người HMông ở Lào Cai” (Tạp chí Văn hóa dân gian, số 6/2001), Hoàng Minh Lường: “Một số phong tục tập quán liên quan đến nhà cửa của người Hmông ở Lào Cai” (Tạp chí Văn hóa dân gian số 4/1995); Lê Hồng Lý, Hoàng Tích Biên Hòa: “Người Hmông xanh ở Nậm Xé” (Tạp chí Văn hóa dân gian số 4/1995); Lý Cẩm Tú, Hoàng Minh Lợi “Một số tập tục của người Hmông xanh tỉnh Lào Cai” (Tạp chí Văn hóa dân gian số 1/1997), Lê Ngọc Thắng: “Mối quan hệ giữa văn hóa truyền thống và kinh tế của người Hmông ở Bắc Hà” (Tạp chí Dân tộc học, số 1/1997), “Một số biểu tượng trong văn hóa dân gian Hmông” (Tạp chí Văn nghệ Lào Cai, tháng 7/2010), …Các bài báo trên đề cập nhiều vấn đề như ăn, ở, dựng nhà, vào nhà mới, cưới xin, sinh đẻ, ma chay, khiếu thẩm mỹ, trang phục, kinh tế, xã hội… trên cơ sở nghiên cứu, quan sát thực tế, cụ thể ở một địa phương, và một nhóm, ngành Hmông cụ thể nên có giá trị thực tế rất cao giúp chúng tôi có thể khai thác để giải quyết các vấn đề đặt ra trong Luận án. Về Lễ hội: Người Hmông có hai lễ hội quan trọng là Nào sồng (Naox jôngz ăn ước) và Gầu tào. Riêng LHGT, ngoài việc được miêu tả ở các công trình kể trên, còn được nghiên cứu sâu hơn và đăng tải trên một số sách báo, tạp chí. Tháng 1/1984, tác giả Lê Trung Vũ đăng bài “Hội làng, hội lễ, tổng thuật” trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 1. Trong bài viết này, ngoài phần miêu thuật lễ hội, tác giả phân tích, đánh giá, nhận định về loại hình lễ hội trên cơ sở khoa học đương đại: đây là loại hình lễ hội mừng công nguyên thủy của cư dân nông nghiệp [177]. Năm 1978, các tác giả Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý công bố cuốn Quan họ nguồn gốc và quá trình phát triển. Tiếp cận từ góc độ folklore, các tác giả đã dành một số trang miêu tả khá tỉ mỉ LHGT và nhận định về nguồn gốc cũng như quá trình phát triển của lễ hội, đồng thời so sánh LHGT với một số lễ hội khác của người Mường, người Thái, người Việt…; tìm ra những đặc điểm chung về loại hình lễ hội là lễ hội hát. Các tác giả khẳng định, Sải sán (LHGT) của người Hmông ở Việt Nam chỉ có ở một số vùng của tỉnh Lào Cai [74, tr. 69]. Năm 1999, Trần Hữu Sơn cùng nhóm nghiên cứu, trực tiếp nghiên cứu lễ hội ở Lào Cai và xuất bản cuốn Lễ hội cổ truyền Lào Cai; các tác giả khảo sát 11 lễ hội của các dân tộc thiểu số, trong đó dành một số trang miêu thuật diễn biến LHGT ở các huyện Sa Pa, Mường Khương, Si Ma Cai. Tuy nhiên, bài viết chưa đề
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với thành ngữ tiếng Anh)
322 p | 421 | 84
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Giao thoa nghệ thuật giữa hai khuynh hướng văn xuôi lãng mạn và văn xuôi hiện thực thời kì 1932 - 1945
217 p | 376 | 81
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ngôn ngữ báo chí Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh
184 p | 280 | 48
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Đối chiếu cấu trúc – ngữ nghĩa tục ngữ tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt
237 p | 196 | 33
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: So sánh truyện cổ tích thần kỳ người Khmer Nam Bộ với truyện cổ tích thần kỳ người Việt (một số type và motif cơ bản)
169 p | 133 | 28
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay từ cách đọc chấn thương
164 p | 91 | 24
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Vị trí của Hồ Biểu Chánh trong văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900 - 1930)
232 p | 137 | 23
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: So sánh phương thích nối trong văn bản tiếng Việt và tiếng Anh
202 p | 115 | 22
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghiên cứu thơ đi sứ của Đoàn Nguyễn Thục và Đoàn Nguyễn Tuấn
90 p | 109 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại nhìn từ góc độ thể loại
176 p | 56 | 13
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Nho lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử
172 p | 136 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck
184 p | 45 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Cấu tạo và phương thức thể hiện tiếng cười của truyện cười hiện đại Việt Nam
179 p | 97 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Phản trinh thám trong bộ ba New York của Paul Auster
167 p | 110 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập
282 p | 42 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck
27 p | 26 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay từ cách đọc chấn thương
27 p | 26 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: So sánh truyện cổ tích thần kỳ người Khmer Nam Bộ với truyện cổ tích thần kỳ người Việt (một số type và motif cơ bản)
55 p | 42 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn