intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại.

Chia sẻ: Phong Tỉ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:184

68
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án nhằm xác định có một khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại với những nét riêng trong nhận thức, phản ánh hiện thực và thi pháp thể loại; góp phần vào việc nghiên cứu tiểu thuyết nước nhà trước yêu cầu của xu thế đổi mới và hội nhập.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại.

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Trong văn học hiện đại, tiểu thuyết là thể loại đóng vai trò chủ lực.  Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, văn học Việt Nam đã  có những bước chuyển đổi sâu sắc, đặc biệt là tiểu thuyết. Từ sau 1986, đổi   mới đã trở thành nhu cầu bức thiết của nhà văn, của công chúng và của chính  bản thân văn học. Công cuộc đổi mới cho phép nhà văn phát huy sáng tạo,   vận dụng nhiều bút pháp, thủ  pháp nghệ  thuật khác nhau, đào sâu hơn vào  bản thể tâm hồn con người, mở rộng hơn biên độ hiện thực được nhận thức,   phản ánh. Cuộc sống và con người trong tiểu thuyết được thể hiện đa dạng  về  nội dung, phong phú về  hình thức nghệ  thuật. Để  tiếp cận, khám phá   hiện thực phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ  của thời đại, các nhà văn đã vận  dụng sáng tạo nhiều thủ pháp nghệ thuật hoặc đã có từ  trước, hoặc mới du   nhập từ nước ngoài như trào lộng, huyền ảo, kỹ thuật dòng ý thức, phân tâm   học, kỹ thuật phân mảnh, lắp ghép, kỹ  thuật độc thoại nội tâm, nghệ  thuật  đồng hiện, liên văn bản... Tiểu thuyết đương đại, trong tình hình đó, đã kết   tinh được những giá trị thẩm mỹ mới. 1.2.   Khuynh   hướng   hiện   thực   –   trào   lộng   trong   tiểu   thuyết   là   một  khuynh hướng nghệ  thuật đã có từ  đầu thế  kỷ  XX, đặc biệt là giai đoạn  1930 – 1945, với sự  xuất hiện và phát triển vững vàng của chủ  nghĩa hiện  thực. Các tác gia lớn như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,  Nam Cao... đã đóng góp cho lịch sử văn học dân tộc nhiều tác phẩm có giá trị.  Với bút pháp và giọng điệu chủ  đạo là trào lộng – trào phúng – giễu nhại,   nhiều tiểu thuyết hiện thực 1930 – 1945 đã góp phần quan trọng làm thay đổi  diện mạo tiểu thuyết Việt Nam hiện đại trước 1945 và đẩy thể  loại này   bước thêm những bước phát triển mới. Từ sau 1945, khuynh hướng này lắng  xuống và đứt gãy trong một thời gian dài do sự  chi phối của chiến tranh,  phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa... Từ sau 1975, nhất là từ sau 1986,  khuynh hướng trào lộng trong tiểu thuyết tái sinh và ngày càng phát triển  mạnh  mẽ   với các  tác  giả   như   Tô   Hoài,   Nguyễn  Khải,   Lê  Lựu,  Ma  Văn 
  2. 2 Kháng, Vũ Bão, Đỗ  Minh Tuấn, Hồ  Anh Thái, Tạ  Duy Anh, Nguyễn Bình  Phương, Đặng Thân, Thuận, v.v... Tiểu thuyết hiện thực – trào lộng phát  triển mạnh trong điều kiện đời sống xã hội dân chủ, mỗi tác phẩm là những  giả thuyết hàm chứa ý nghĩa sâu sắc về cuộc sống. Cùng với các nguồn cảm   hứng khác, cảm hứng về cái hài có vai trò tạo nên sự phong phú, đa dạng cho  tiểu thuyết. Sự trở lại của tiếng cười là dấu hiệu lạc quan, nó tạo ra nhiều   bè, nhiều giọng điệu nghệ thuật và nhiều giá trị mới trong tiểu thuyết.   1.3. Việc nghiên cứu các khuynh hướng khác nhau của tiểu thuyết đã  được không ít các bài báo, công trình, luận văn, luận án tìm hiểu từ nhiều góc   độ. Tiến trình đổi mới văn học  ở  nước ta nói chung, tiểu thuyết nói riêng  diễn ra ngót ba thập kỷ với rất nhiều vấn đề  lý luận và thực tiễn cần được  nhìn nhận, lý giải, đánh giá một cách thỏa đáng và có hệ  thống. Tuy nhiên,   đến nay chưa có công trình nào thật chuyên sâu nghiên cứu tiểu thuyết hiện   thực – trào lộng với chủ đích xem nó là một khuynh hướng, nhất là trong thời  gian gần đây, nhiều tiểu thuyết mới ra đời mà chưa có thêm sự  khảo sát.   Thực hiện đề  tài này, chúng tôi xác định đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu nhằm   góp một tiếng nói khẳng định có một khuynh hướng hiện thực – trào lộng  trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Khuynh hướng này là một biểu hiện   cụ  thể  đời sống dân chủ  trong văn học, góp phần tạo nên sự  đa dạng của  tiểu thuyết trên nhiều phương diện. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Như tên đề tài đã xác định, đôi t ́ ượng nghiên cưu cua luân an la  ́ ̉ ̣ ́ ̀Khuynh   hương hiên th ́ ̣ ực – trao lông trong tiêu thuyêt Viêt Nam đ ̀ ̣ ̉ ́ ̣ ương đaị . 2.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án bao quát tiêu thuyêt Viêt Nam đ ̉ ́ ̣ ương đai (t ̣ ừ  sau 1986) để  tìm   hiểu khuynh hương hiên th ́ ̣ ực – trao lông (ti ̀ ̣ ểu thuyết trước 1986, đặc biệt là   tiểu thuyết trào lộng giai đoạn 1930 – 1945 được xem như là một tiền đề và   là một đối tượng để đối sánh). Theo yêu cầu của đề tài, luận án tập trung đi  sâu khảo sát các tiểu thuyết đương đại viết theo khuynh hướng hiện thực –  
  3. 3 trào lộng (những tiểu thuyết có thể  không thuộc khuynh hướng hiện thực –  trào lộng nhưng chứa nhiều yếu tố trào lộng cũng được quan tâm) của các tác  giả:   Tô   Hoài,   Nguyễn   Khải,   Lê   Lựu,   Phạm   Thị   Hoài,   Ma   Văn   Kháng,   Nguyễn Bắc Sơn, Vũ Bão,  Tạ  Duy Anh,  Hồ  Anh Thái, Thuận, Đỗ  Minh  Tuấn, Nguyễn Khắc Trường, Võ Văn Trực,  Nguyễn Quang Vinh,  Nguyễn  Việt Hà, Trịnh Thanh Phong, Nguyễn Đình Tú, Đặng Thân, Lê Minh Quốc,  Trần Nhương,... 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận án nhằm xác định có một khuynh hướng hiện thực – trào lộng  trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại với những nét riêng trong nhận thức,  phản ánh hiện thực và thi pháp thể loại; góp phần vào việc nghiên cứu tiểu   thuyết nước nhà trước yêu cầu của xu thế đổi mới và hội nhập. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.2.1. Trên cơ  sở  bao quat tiêu thuyêt Viêt Nam đ ́ ̉ ́ ̣ ương đai, t ̣ ổng quan  vấn đề nghiên cứu và xác lập cơ sở lý thuyết của đề tài. 3.2.2. Nhận diện khuynh hương hiên th ́ ̣ ực – trao lông  ̀ ̣ trong bôi canh đôi ́ ̉ ̉  mơi cua ti ́ ̉ ểu thuyết Việt Nam đương đại.  ̉ ́ con người và thế  giới hiện thực trong   3.2.3. Đi sâu khao sat, phân tich  ́ ̉ ́ ệt Nam đương đai viêt theo khuynh h tiêu thuyêt Vi ̣ ́ ương hi ́ ện thực – trào   lộng. ̉ 3.2.4. Đi sâu khao sat, phân tích nh ́ ưng đăc điêm vê  ̃ ̣ ̉ ̀thi pháp thể loại của  tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết theo khuynh hướng hiện thực – trào   lộng. 4. Phương pháp nghiên cứu Chọn đề  tài Khuynh hương hiên th ́ ̣ ực – trao lông trong  ̀ ̣ ̉ ̣  tiêu thuyêt Viêt ́ Nam đương đaị , tác giả luân an vân dung nhiêu ph ̣ ́ ̣ ̣ ̀ ương phap nghiên c ́ ưu khac ́ ́  ́ ủ yếu là các phương phap sau: nhau, trong đo ch ́
  4. 4 4.1. Phương phap liên ngành ́ :  Phương pháp này giúp cho việc huy động  tri thức của một số ngành khác như văn hóa học, triết học, tâm lý học, ngôn   ngữ học... nhằm tham chiếu, soi tỏ các vấn đề được đề cập trong luận án. 4.2.  Phương phap thông kê – miêu ta ́ ́ ̉:  Phương pháp này vận dụng các  thao tác thống kê – miêu tả, tìm tần số  xuất hiện có ý nghĩa dự  báo tính quy  luật của các yếu tố thể hiện qua các tác phẩm, giúp các nhận định có cơ  sở  khoa học. 4.3.  Phương phap phân tich – tông h ́ ́ ̉ ợp: Phương pháp này đi vào phân  tích tác phẩm, các vấn đề, trên cơ sở đó, tổng hợp theo định hướng của luận  án. 4.4.  Phương phap l ́ ịch sử: Phương pháp này giúp cho việc nhìn nhận,  xác định tiểu thuyết viết theo khuynh hương hiên th ́ ̣ ực – trao lông trong ti ̀ ̣ ến  trình đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tái diễn những nét chính của  bối cảnh lịch sử  – văn hóa  – xã hội có  ảnh hưởng đến khuynh hướng tiểu   thuyết này.  4.5. Phương phap so sanh – loai hinh ́ ́ ̣ ̀ : Phương pháp này được dùng để  đối chiếu, so sánh các tác phẩm và các vấn đề  văn học cùng hoặc khác loại   hình nhằm chỉ  ra những nét tương đồng và khác biệt của tiểu thuyết viết  theo khuynh hương hiên th ́ ̣ ực – trao lông và ti ̀ ̣ ểu thuyết viết theo khuynh  hướng khác.  4.6. Phương phap câu truc – hê thông ́ ́ ́ ̣ ́ : Phương pháp này được dùng để  xâu chuỗi, hệ thống các vấn đề nghiên cứu trong tính thống nhất chỉnh thể. 5. Đóng góp của luận án ̣ ́ ̀ ̉ Luân an la công trinh tim hiêu, nghiên c ̀ ̀ ưu ti ́ ểu thuyết viết theo khuynh  hương hiên th ́ ̣ ực ­ trao lông  ̀ ̣ vơi môt cai nhin tâp trung, hê thông. ́ ̣ ́ ̀ ̣ ̣ ́ Luận án là một sự  nỗ  lực bao quát và xác định có một khuynh hướng  hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tổng quan vấn   đề nghiên cứu và xác lập cơ sở lý thuyết cho việc nghiên cứu vấn đề này.
  5. 5 Luận án tạo dựng và phác thảo bức tranh tiểu thuyết Việt Nam đương  đại, trên cơ sở đó khu biệt và nhận diện diện mạo, vị thế, đường hướng vận  động của tiểu thuyết viết theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng. Luận án là công trình đi sâu khảo sát con người, thế  giới hiện thực và  chỉ  ra, làm rõ những đặc điểm nổi bật về  thi pháp thể  loại của tiểu thuyết  viết theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng.   ̉ Kêt qua nghiên c ́ ưu cua luân an có th ́ ̉ ̣ ́ ể được dùng làm tai liêu tham khao ̀ ̣ ̉   ̣ cho viêc nghiên cưu và vân dung vào viêc dayhoc  ́ ̣ ̣ ̣ ̣ ̣ ở  học đường về  thể  loại   ̉ tiêu thuyêt, trong đó có khuynh h ́ ướng hiện thực – trào lộng. 6. Cấu trúc luận án ̀ Mở đâù , Kêt luân Ngoai  ́ ̣  và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luâṇ   ́ ược triển khai thành 4 chương:  an đ Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài Chương 2. Khuynh hương hiên th ́ ̣ ực – trao lông  ̀ ̣ trong bôi canh đôi m ́ ̉ ̉ ơí  ̉ ểu thuyết Việt Nam đương đại cua ti Chương 3. Con người và thế giới hiện thực trong tiêu thuyêt Vi ̉ ́ ệt Nam   đương đai viêt theo khuynh h ̣ ́ ương hiên th ́ ̣ ực – trao lông. ̀ ̣ Chương 4. Thi pháp thể loại của tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết  theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng. Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU  VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 1.1.1.  Các khuynh hướng vận động, phát triển của tiêu thuyêt Vi ̉ ́ ệt   Nam đương đại trên lịch trình nghiên cứu 1.1.1.1. Vấn đề nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam đương đại Tiểu thuyết Việt Nam từ  sau 1975, nhất là từ  sau 1986 đến nay phát   triển mạnh mẽ, ngày càng phong phú  và  đa dạng. Thể  loại văn học này 
  6. 6 không ngừng đổi mới, cách tân trên các phương diện như  chức năng, nội  dung và thi pháp thể loại. Biên độ phản ánh hiện thực của tiểu thuyết được   mở  rộng do sự  vận động, phát triển của cuộc sống và đổi mới tư  duy sáng  tạo của nhà văn. Việc nghiên cứu, đánh giá tiểu thuyết từ sau đổi mới vì thế  mà hấp dẫn đối với giới nghiên cứu, phê bình văn học. Trong số  các công  trình đó, chúng tôi chú ý đến những công trình nghiên cứu có tính chất chuyên  sâu về thể loại tiểu thuyết. Năm 1995, trong Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau   1975  (khảo sát trên nét lớn), Nguyễn Thị  Bình nhấn mạnh cảm hứng phê  phán ở một số tiểu thuyết do tinh thần dân chủ hóa và ý thức nghệ thuật của   nhà văn đã có những thay đổi quan trọng. Trong đó có   Bến không chồng,  Mảnh đất lắm người nhiều ma, Chuyện làng ngày ấy... Năm 1996, Nxb (Nhà xuất bản) Hội Nhà văn  ấn hành  Khảo về  tiểu   thuyết của Vương Trí Nhàn. Tập sách thể hiện sự quan sát tinh tế các hiện  tượng trên tiến trình tiểu thuyết Việt Nam và những vấn đề, những khía   cạnh có ý nghĩa lý luận về thể loại. Một số tác giả khác với  các bài viết, các  công trình rất đáng chú ý, như  Lê Huy Bắc với “Đồng hiện trong văn xuôi”   (Văn học, số 6/1996); Ma Văn Kháng với “Tiểu thuyết, nghệ thuật khám phá  cuộc sống” (Văn nghệ quân đội, số 11/1998); Bùi Việt Thắng (2000) với Bàn   về tiểu thuyết (Nxb Văn hoá Thông tin); Phan Cự Đệ  với “Tiểu thuyết Việt  Nam những năm đầu thời kỳ  đổi mới” (Văn nghệ  quân đội, số  3/2001); Lý  Hoai Thu ̀  với “Cac nha văn ban vê tiêu thuyêt” ́ ̀ ̀ ̀ ̉ ̣ ̣  sô ́3/2001);  ́  (Văn nghê quân đôi, Tôn Phương Lan (2002) với  “Một số vấn đề trong văn xuôi thời kỳ đổi mới”  (sách Văn học Việt Nam thế  kỷ  XX , Nxb Chính trị  quốc gia); Nguyễn Xuân  Khánh (2003) với Suy nghĩ về hiện thực trong đổi mới tiểu thuyết  (Nxb Hội  Nhà văn); v.v... Năm 2005, trong Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 (in  trong Văn học Việt Nam sau 1975 – những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy,  Nxb Văn học), Bích Thu đã có những nhận xét xác đáng về  sự  đổi mới của  tiểu thuyết từ  sau 1986 qua các yếu tố: nhân vật, cốt truyện, ngôn ngữ  và  
  7. 7 giọng điệu. Bùi Việt Thắng với  Tiểu thuyết đương đại  (2005),  Nxb Quân  đội nhân dân phát hành, gồm 2 phần: Phần 1 có 12 bài viết mang tính chất  nhận diện và chỉ  ra những đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam từ  sau 1986 ;  Phần 2 có 27 bài, tác giả đi vào phân tích 29 tác phẩm (viết từ sau 1986) của   27 nhà văn, trong đó có Tô Hoài, Lê Lựu, Đoàn Minh Phượng, Chu Lai, Đào   Thắng, v.v…  Từ  2006 đến 2008, bàn về  văn xuôi nói chung và tiểu thuyết Việt Nam  đương đại nói riêng, có thể kể đến Hoàng Ngọc Hiến với Những ngả đường   văn học (Nxb Văn học), Bích Thu với “Môt cach tiêp cân tiêu thuyêt Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ ̉ ́ ̣   thơi ky đôi m ̀ ̀ ̉ ơi” ́   (Nghiên cưu văn hoc ́ ̣ , sô 11 ́ /2006), Văn Giá với “Thử  nhận  diện   tiểu   thuyết   ngắn   Việt   Nam   gần   đây”   (Văn   nghệ,   số   26/2006),   Mai  Hương với “Đổi mới tư  duy văn học và đóng góp của một số  cây bút văn  xuôi” (Nghiên cứu văn học, số 11/2006), Nguyễn Trường Lịch với “Đổi mới  tiểu thuyết trong bối cảnh giao lưu văn hóa” (Văn nghệ, số 4/2007), Trân Thi ̀ ̣  Mai Nhân (2008)với Nhưng đôi m ̃ ̉ ơi trong tiêu thuyêt Viêt Nam t ́ ̉ ́ ̣ ừ 1986 – 2000   (luận án Tiến sĩ), v.v... Các công trình này đều đề  cập đến sự  đổi mới, cách  tân của tiểu thuyết đương đại trên các phương diện nội dung tư tưởng cũng  như thi pháp thể loại. Trong Lời giới thiệu chuyên luận Những cách tân nghệ thuật trong tiểu   thuyết Việt Nam đương đại (2009) của Mai Hải Oanh, Trần Đình Sử  nhận  định: “Bắt đầu từ tư duy mới về thể loại tiểu thuyết, quan ni ệm m ới v ề con   người, sự  tìm tòi các phương thức biểu hiện và cấu trúc mới, tiểu thuyết   Việt Nam đã có những khuynh hướng sáng tác nổi bật...” [137; 6]. Các tác   giả  khác như  Đô Hai Ninh ̃ ̉   với “Quan niêm vê lich s ̣ ̀ ̣ ử  trong tiêu thuyêt cua ̉ ́ ̉   ́ ” (Nghiên cưu văn hoc Nguyên Xuân Khanh ̃ ́ ̣ , sô 2 ́ /2009), Nguyễn Thành với  “Khuynh hướng lạ hóa trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại – một số bình   diện tiêu biểu” (Nghiên cứu văn học, số 4/2012), Bích Thu với “Một vài cảm  nhận về  ngôn ngữ  tiểu thuyết Việt Nam đương đại” (Nghiên cứu văn học,  số  3/2013) và “Bước đầu nhận diện tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu  thế kỷ XXI” (trong Văn học Việt Nam hiện đại – Sáng tạo và tiếp nhận, Nxb 
  8. 8 Văn học, 2015)...khẳng định tiểu thuyết có những đổi mới về nội dung phản  ánh, cái nhìn hiện thực và đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người với   tư tưởng nhân văn phương Đông.  Trong  “Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ  đổi mới (1986–2016) – Những   bước thăng trầm” (Văn nghệ, số 24/2016), Bùi Việt Thắng xác định, văn học  Việt Nam 1975  –  1986 là giai đoạn tiền đổi mới, chưa vượt thoát ra khỏi  phạm trù “sử  thi và lãng mạn” của văn học cách mạng. Theo tác giả, tiểu   thuyết thật sự bước vào cao trào đổi mới là vào khoảng cuối những năm tám  mươi, đầu những năm chín mươi của thế kỷ XX. Tác giả xem Thời xa vắng  (1986) của Lê Lựu là sự  đột phá của tiểu thuyết đổi mới, tác phẩm thấm  đượm nhiệt hứng nhận thức lại thực tại, về sau trở thành một khuynh hướng   quan trọng của văn học đương đại được viết theo tinh thần của “cái bi kịch”  và mở ra một dòng tiểu thuyết tự thuật được các nhà văn ưa chuộng sau này;   v.v… Ngoài những bài báo, công trình đề  cập đến các vấn đề  mang tính lý  luận, khái quát diện mạo hoặc chỉ ra những cách tân nghệ  thuật tiểu thuyết  như xây dựng nhân vật, cấu trúc tác phẩm, nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ,   giọng điệu còn có không ít những bài báo quan tâm đến các tác phẩm cụ thể  như  Mùa lá rụng trong vườn, Ba người khác, Nỗi buồn chiến tranh, Mảnh   đất lắm người nhiều ma, Thượng đế  thì cười, Giã biệt bóng tối,   các tiểu  thuyết Hồ  Quý Ly, Mẫu thượng ngàn,  Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân  Khánh nói riêng và tiểu thuyết lịch sử  nói chung… Ngoài những bài viết  mang tính cập nhật hoặc rải rác sau khi tác phẩm ra  đời, nếu cuốn tiểu  thuyết nào gây được chú ý trong dư luận, thường Báo  Văn nghệ hoặc một số  báo, Viện tổ  chức tọa đàm, thảo luận: Thảo luận về  tiểu thuyết  Mưa mùa   hạ (Viện Văn học); Thao luân vê tiêu thuyêt  ̉ ̣ ̀ ̉ ́ ươi không co giây gia thu ́ Đam c ́ ́ ́ ́ ́  (Văn nghệ, sô 6 ̉ ̀Lơi nguyên hai trăm năm ́ /1990); Trao đôi vê  ̀ ̀ ̉ ́ ̉    – tiêu thuyêt cua Khôi Vũ (Văn nghệ, sô 26 ̉ ̣ ̀ ̉ ́ /1990); Thao luân vê tiêu thuyêt  ̉ ́ Manh đât lăm ng ́ ́ ươì   nhiêu ma ̀  (Baó  Văn nghệ, sô 11 ̉ ̣ ̀ ̉ ́ /1991);Thao luân vê tiêu thuyêt  ̣ ̀   ́ Thân phân tinh yêu (Văn nghệ, sô 37 ̉ ̣ ̀ ̉ ́ /1991); Thao luân vê tiêu thuyêt  ́ Ăn may di vang  ̉ ̀ ̃ ̃ cua Chu  
  9. 9 Lai (Văn nghệ,  sô 29 ̣ ̉ ̀ ̉ ́ /1992); Hôi thao vê tiêu thuyêt  ́ Hô Quy Ly ̀ ́  (Văn nghệ, số  41/2000); Nguyễn Khắc Phê với “Sông Côn mùa lũ” (Nhà văn, số 4/2000); Lê  Nguyên Cẩn với “Thế  giới kỳ   ảo trong   Mảnh đất lắm người nhiều ma  từ  điểm nhìn văn hóa” (Nghiên cứu văn học, số 8/2006); “Toa đam vê tiêu thuyêt ̣ ̀ ̀ ̉ ́  ̣ ơi va cha con Luât đ ̀ ̀ ́  và  18/2006); Hội Nhà văn Hà Nội tổ  ” (Văn nghệ, sô 17 chức trao đổi  Ba người khác  của Tô Hoài (22/12/2006), Viện Văn học tổ  chức hội thảo về tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh (được tập hợp   lại trong cuốn Nguyễn Xuân Khánh – Cái nhìn lịch sử nghệ thuật (2003), Nxb  Phụ  nữ); Hội Nhà văn (2013) tổ  chức hội thảo về  tiểu thuyết lịch sử   của  Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Mộng Giác, Hoàng Quốc Hải, Võ Thị  Hảo,  Nam Dao; v.v… Ngoài ra, còn rất nhiều bài báo lẻ khác như  Vân Thanh với  ̣ ̉ “Môt manh đơi trong cuôc sông hôm nay qua  ̀ ̣ ́ ̀ ́ ̣ Mua la rung trong v ươǹ ” (Văn  hoc̣ , sô 3 ́ /1986); Mai Huy Bích với “Trở  lại với tiểu thuyết  Thời xa vắng:  Hôn nhân, gia đình, xã hội qua một tiểu thuyết” ( Văn nghệ, số  23/1987);  Nguyên Huy Thông  ̃ với “Vê cuôn tiêu thuyêt  ̀ ́ ̉ ̉ ́ Ngôì cua Nguyên Binh Ph ̃ ̀ ương”  (Văn nghệ,  sô 51 ̣ ́  với  “Mươi le môt đêm ́ /2006);  Nguyên Thi Minh Thai ̃ ̀ ̉ ̣ , caí  ̀ ́ ́ ừ phia sau” nhin hăt sang t ́ ́ /2006)... Nhìn chung, các hội thảo,   (Văn nghệ, sô 23 trao đổi, tọa đàm, các bài báo trên đều khẳng định tiểu thuyết Việt Nam đã   tạo ra những cao trào từ  cuối những năm tám mươi, đầu những năm chín  mươi của thế kỷ trước. Tiểu thuyết thời đổi mới đã đi được những bước tự  tin và thành tựu của mình với nhiều tác giả thuộc nhiều thế hệ. Khi thể loại  tiểu thuyết – “cỗ  máy cái văn học” ngự  trị  văn đàn thì văn học thật sự  đổi  mới. Có thể thấy, dư luận chung đều khẳng định tiểu thuyết đương đại ngày  càng phát triển mạnh mẽ, giàu chất văn xuôi, mang tính hướng nội, có nhiều   cách tân, sáng tạo trong nhận thức và thể hiện cuộc sống. 1.1.1.2. Vấn đề  nghiên cưu cac khuynh h ́ ́ ương vân đông, phat triên c ́ ̣ ̣ ́ ̉ ủa   ̉ ̣ tiêu thuyêt Viêt Nam đ ́ ương đaị Khuynh hướng, trào lưu là các khái niệm dùng để chỉ những hiện tượng  của quá trình văn học, là  “những cộng đồng các hiện tượng văn học được 
  10. 10 liên kết lại trên cơ sở một sự thống nhất tương đối về các định hướng thẩm  mỹ – tư tưởng và về các nguyên tắc thể hiện nghệ thuật” [10; 173].  Trào lưu  văn học  được đánh dấu bằng sự  xuất hiện hàng loạt sáng tác của nhóm  nhiều tác giả, biểu hiện thành cương lĩnh riêng, có những đặc điểm cơ  bản  giống nhau, “có quan điểm tư  tưởng – xã hội và quan điểm thẩm mỹ  tương  đối gần gũi, thống nhất với nhau” [58; 302]. Một số nhà nghiên cứu xem trào  lưu  là  phạm trù  rộng,  dung  chứa nhiều  khuynh hướng.  Tuy nhiên,  “quan  niệm được dùng phổ biến hơn thì coi khuynh hướng là phạm trù rộng, dung   chứa nhiều trào lưu” [10; 173]. Khuynh hướng “ghi nhận tính cộng đồngvề  cơ sở tư tưởng thẩm mỹ của nội dung nghệ thuật; tính cộng đồng này được  quy định bởi sự  thống nhất về  truyền thống nghệ thuật và văn hóa, bởi sự  gần gũi trong cách hiểu của các nhà văn đối với các vấn đề của đời sống, bởi  sự  giống nhau về  các tình thế  xã hội, thời đại, văn hóa, nghệ  thuật” [10;   174].  Khuynh hướng văn học không đòi hỏi phải có   “một sự  gần gũi trực  tiếp về tư tưởng và nghệ thuật, một sự thống nhất mang tính cương lĩnh về  thẩm mỹ  của các thành viên” [10; 174]. Khuynh hướng là “Sự  thiên về  một  phía nào đó trong hoạt động, trong quá trình phát triển” [135; 498]. Khái niệm   khuynh hướng  ở  đây được hiểu với ý nghĩa chỉ  những tiểu thuyết có chung  một số đặc điểm nổi trội về vấn đề nhận thức và phản ánh hiện thực –  một  vấn đề  quan trọng của lịch sử văn học. Sự  hình thành và phát triển của các   khuynh hướng tiểu thuyết giúp chúng ta nhận thức được sự biến đổi và phát  triển trong nội dung tư  tưởng và thi pháp thể  loại của một giai đoạn, một   thời kỳ, một nền văn học. Theo D.X. Likhatsev trong  Thi pháp của nền văn   học Nga cổ (Nxb Khoa học, Leningrad 1967, Phan Ngọc dịch), khuynh hướng  văn học cũng là một biểu hiện quan trọng của thi pháp văn học, đánh dấu   trình độ phát triển của nghệ thuật ngôn từ trong các giai đoạn khác nhau của  lịch sử văn học. Từ  giữa những năm 80 của thế  kỷ  trước, nhiều nhà nghiên   cứu Việt Nam vận dụng các khái niệm lý luận của G.N. Pospelov (Nga),   nhận thấy văn học Việt Nam sau 1975 có khuynh hướng phi sử thi hóa, thế  sự  hóa và đời tư  hóa. Trong bài  Các khuynh hướng phê bình văn học Việt  
  11. 11 Nam   hiện   nay,   Trần   Đình   Sử   nhận   xét,   cách   phân   biệt   khuynh   hướng   trên“còn được vận dụng, gắn với quan niệm về sự giải thiêng, giải huyền   thoại, khuynh hướng thế  tục hóa văn học,  khuynh hướng biểu hiện chấn  thương tinh thần”. Nhìn chung, sự phân chia các khuynh hướng trên có những   đặc điểm giống với khuynh hướng văn học thuộc các nước xã hội chủ nghĩa   trước đây. Tính khuynh hướng là “điều kiện cần thiết để có tính tư tưởng và  tính nghệ thuật” [58; 294]. Khuynh hướng văn học “không phải là ý đồ  chủ  quan không có cơ  sở  của nhà văn mà là một xu thế  tư  tưởng bắt nguồn từ  cuộc sống,…bao giờ cũng toát ra một cách tự nhiên từ sự miêu tả  sinh động  của đời sống chứ không phải qua những lời lý thuyết khô khan, hoặc những   tư tưởng trừu tượng” [58; 294].  Trong Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời điểm đổi mới   đến nay  (2008),  Nguyễn Thị  Bình  chon trong tâm nghiên c ̣ ̣ ưu la t ́ ̀ ư  duy thể  ̣ ̀ ̣ ̉ loai, tiêu chi phân chia la đăc điêm bút pháp ́ . Tac gia cho r ́ ̉ ằng: “môt lôi t ̣ ́ ư duy  bao giờ cung đ ̃ ược biêu hiên ra ngoai băng môt but phap t ̉ ̣ ̀ ̀ ̣ ́ ́ ương ưng”, và phân ́   chia tiểu thuyết Việt Nam đương đại thành các khuynh hướng: tiêu thuyêt ̉ ́  theo phong cach ̣ ́  “lich sử  hoa”, tiêu thuyêt theo phong cach ́ ̉ ́ ́  “tự  thuât”, tiêu ̣ ̉   ́ ư  liêu – bao chi, tiêu thuyêt hiên th thuyêt t ̣ ́ ́ ̉ ́ ̣ ực kiêu truyên thông và tiêu thuyêt ̉ ̀ ́ ̉ ́  ̣ ̣ ̣ . Trong Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1995 những   theo phong cach hâu hiên đai ́ đổi mới cơ bản, Nguyễn Thị Bình đã nghiên cứu bước ngoặt trong hệ hình ý  thức của nhà văn, đánh giá tính đối thoại trong tác phẩm đồng thời chỉ ra căn   bệnh xã hội đã trở thành đối tượng phê phán của nhà văn trong tiểu thuyết  Ly  thân  và  Chuyện làng Cuội  [18; 99]. Theo tác giả, với cảm hứng đó, những   căn bệnh xã hội đã trở  thành lố  bịch, phi lý khi nó được thể  hiện với giọng  giễu nhại và trào lộng. Mai Hải Oanh với Nhưng cach tân nghê thuât trong tiêu thuyêt Viêt Nam ̃ ́ ̣ ̣ ̉ ́ ̣   đương đaị   giai đoạn  1986 –  2006  (2008) đã  luận giải sự  đa dạng về  cách  thức thể  hiện của tiểu thuyết trên cơ  sở  đề  cập đến một số  bút pháp nghệ  thuật. Theo tác giả, tiểu thuyết thực sự đã trở thành “nhân vật chính” trên văn   đàn và thâm nhập mạnh mẽ vào các thể loại, đồng thời thu hút vào nó các thể 
  12. 12 loại khác để  tạo nên cấu trúc nghệ  thuật đa tầng. Một thay đổi quan trọng  trong nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết là sự đa dạng và linh hoạt về bút pháp   nghệ  thuật. Căn cứ vao cac nguyên tăc và but phap nghê thuât, tác gi ̀ ́ ́ ́ ́ ̣ ̣ ả  chia  ̉ ́ ương đai thanh các khuynh h tiêu thuyêt đ ̣ ̀ ương nh ́ ư: tiểu thuyết ta th ̉ ực mơi; ́  tiểu thuyết phung du, huyên thoai; ti ́ ̣ ̀ ̣ ểu thuyết trao lông giêu nhai; ti ̀ ̣ ̃ ̣ ểu thuyết   tượng trưng… Bùi Việt Thắng với  Tiểu thuyết đương đại  muốn khái quát diện mạo  của tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975 qua những giai đoạn ngắn và đề  cập  đến một số  khuynh hướng vân đông, phat triên c ̣ ̣ ́ ̉ ủa tiểu thuyết đương đại.  Ông nhận định, “sẽ là không đầy đủ trong công việc nhận diện văn học nếu   không nói đến tiểu thuyết”.  Theo ông, tiểu thuyết đương đại Việt Nam đã   tiếp thu được nhiều kinh nghiệm nghệ  thuật tiểu thuyết thế  giới, ít mô tả  thế giới hơn là tạo ra một thế giới theo cách của nó và ở  đó, “con người có   thể chiêm ngưỡng mình từ nhiều chiều hơn là chỉ thấy cái bóng của mình đổ  dài xuống lịch sử” [161; 202].   Luận án Kết cấu tiểu thuyết Việt Nam đương đại (2012) của Nguyễn  Thị Ninh đi vào nghiên cứu những đổi mới kết cấu của xu hướng tiểu thuyết   cách tân theo thi pháp hiện đại trong việc đối sánh với tiểu thuyết truyền   thống. Tác giả nhận diện sự xuất hiện của xu hướng tiểu thuyết mới từ cuối   thập niên 1980, hình thành rõ nét từ giữa thập niên 1990 đến nay – xu hướng   tiểu thuyết có nhiều đổi mới cách tân, đặc biệt là kỹ  thuật viết. Luận án   khám phá một số  phương diện kết cấu đặc sắc của xu hướng tiểu thuyết   mới như: đổi mới kết cấu văn bản trần thuật và kết cấu hình tượng trong   quan hệ  với cốt truyện và hiện thực được phản ánh; kết cấu nhịp điệu và   ngôn ngữ như là phương tiện để  biến kết cấu trong hình dung tưởng tượng  của nhà văn thành một thực thể sinh động. Luận án Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới  (2012)  của Nguyễn Thị Kim Tiến tập trung tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con   người và khái quát các dạng thái con người trong tiểu thuyết từ sau 1986: con   người dưới góc nhìn nhân bản xã hội (người lính, người nông dân, người trí 
  13. 13 thức), con người dưới góc nhìn loại hình văn học (con người lịch sử  –  văn  hóa, con người “huyền thoại”, con người “dị biệt”). Tác giả luận án cũng chỉ  ra một số phương diện của nghệ thuật biểu hiện con người trong tiểu thuy ết   thời kỳ đổi mới, trong đó có giọng điệu giễu nhại.  Luận án Tiểu thuyết về chiến tranh trong văn học Việt Nam sau 1975 –   những   khuynh   hướng   và   sự   đổi   mới   nghệ   thuật  (2012)   của   Nguyễn   Thị  Thanh căn cứ các quan niệm: “Văn học là nhân học” (M. Gorki),  Tiểu thuyết   giáo dục và ý nghĩa của nó trong lịch sử chủ nghĩa hiện thực  (M. Bakhtin) và  sự  thay đổi quan niệm về  hiện thực và con người, chia tiểu thuyết viết về  chiến tranh sau 1975 thành các khuynh hướng như: khuynh hướng khám phá  người   anh   hùng   lưỡng   diện,   khuynh   hướng   thể   hiện   con   người   bị   chấn   thương và những số  phận bi kịch, khuynh hướng thể  hiện con người  đời  thường và những vấn đề thế sự. Thai Phan Vang Anh v ́ ̀ ới Cac khuynh h ́ ương tiêu thuyêt Viêt Nam đâu thê ́ ̉ ́ ̣ ̀ ́  ̉ ky XXI   (2013) xem tiểu thuyết là “cỗ  máy cái của văn học”, là trụ  cột của   một nền văn học và luôn thích nghi với những chuyển động phong phú của   đời sống. Từ góc nhìn thể loại, tác giả nhận thấy tiểu thuyết ngày càng xuất  hiện nhiều khuynh hướng, thể  hiện sự  cách tân triệt để  trong xu thế  hội  nhập. Căn cứ vao my hoc hâu hiên đai, tác gi ̀ ̃ ̣ ̣ ̣ ̣ ả  chia tiểu thuyết thanh các ̀   khuynh hương: ti ́ ểu thuyết tân lịch sử – sự phản tư lịch sử, tiểu thuyết hiện   sinh – sự phân rã những mảnh hiện tồn, tiểu thuyết tính dục – sự phì đại của   dòng văn chương thân xác, tiểu thuyết nữ quyền – phụ nữ không phải là “cái  khác vắng mặt”. Ngô Thị Quỳnh Nga với luận án Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 viết về   chiến tranh (2015), trên một số nét chính đã phác họa lại diện mạo của tiểu   thuyết với những đường hướng vận động và phát triển của nó.  Các công trình trên tuy chưa trực tiếp tìm hiểu các khuynh hướng vận  động và phát triển của tiểu thuyết Việt Nam đương đại một cách hệ  thống,   nhưng đã tạo dựng, phác thảo được những đường nét quan trọng, có cơ sở.
  14. 14 Theo tác giả luận án, khuynh hướng văn học nói chung và khuynh hướng  tiểu thuyết nói riêng được phân loại theo nhiều cách khác nhau, trong đó có  hai cách thường được chú ý là phân loại theo nội dung, tư tưởng và phân loại   theo thi pháp thể  loại hoặc bút pháp. Cùng chiếm lĩnh một hiện thực đời   sống, nhưng từng nhà văn có cách thức nhận thức và xử  lý chất liệu khác  nhau, có quyền tự do lựa chọn cho mình một  khuynh hướng nghệ thuật nhất  định bên cạnh các khuynh hướng nghệ  thuật khác. Có thể  thấy, tiểu thuyết  Việt Nam từ sau 1986 thể hiện sự đa dạng, phong phú về các khuynh hướng  nội dung tư tưởng và khuynh hướng thẩm mỹ. Sự  hình thành, phát triển các  khuynh hướng trong  tiểu  thuyết  thể  hiện  sự   đổi mới  về  tư  tưởng  nghệ  thuật,  bút  pháp nghệ  thuật, là sự  thể  hiện những lập trường nghệ  thuật  không giống nhau trong văn học. Sự xuất hiện các khuynh hướng tiểu thuyết  cũng chính là biểu hiện của quá trình dân chủ  hoá trong văn học Việt Nam   đương đại.  Khảo sát tiến trình vận động, phát triển của tiểu thuyết Việt  Nam   đương   đại,   có   thể   thấy   mối   quan   hệ   cộng   hưởng   của   các   khuynh  hướng trong hệ  thống thể  loại. Mỗi hệ  thống thể  loại tạo thành một hệ  thống nghệ  thuật và các yếu tố  hợp thành hệ  thống có sự  tác động qua lại  lẫn nhau. Từ sau 1986, tiểu thuyết Việt Nam có những đặc điểm và quy luật   vận động riêng, có sự  phân định và cũng có sự  cộng sinh giữa các khuynh  hướng. Những “đổi mới, cách tân của tiểu thuyết thời gian qua, đặc biệt trên   phương diện thi pháp thể  loại nhờ  vận dụng, pha trộn nhiều thủ  pháp, kỹ  thuật của lối viết mới với muôn kiểu “trò chơi” (chơi ngôn ngữ, chơi lịch sử,   chơi cấu trúc, chơi kết cấu, chơi nhân vật…), lắm những thủ  pháp (“cắt  dán”, “lồng ghép” – “phân mảnh” – modular, phỏng nhại, liên văn bản, ký  hiệu hóa, số hóa, vật hóa, v.v…) quả thực có làm cho diện mạo và đặc điểm  của tiểu thuyết Việt Nam đương đại khác trước” [44; 7] , không ngừng đổi  mới về  nội dung tư  tưởng và thi pháp thể  loại. Về  nội dung tư tưởng, bức   tranh hiện thực trong tiểu thuyết mang đậm hơi thở cuộc sống, nhiều mảng   màu đan xen hỗn tạp. Về thi pháp thể loại, tiểu thuyết đã có những đổi mới   về bút pháp, phương thức trần thuật và khắc họa nhân vật. 
  15. 15 Việc nhân diên cac khuynh h ̣ ̣ ́ ương tiêu thuyêt dù d ́ ̉ ́ ựa vao tiêu chí nào ̀   ́ ương đôi, b cũng đêu mang tinh t ̀ ́ ởi chúng co nh ́ ưng đi ̃ ểm giao thoa vơi nhau ́ .  Căn cứ  chủ  yếu vào bút pháp, tác giả  luận án có thể  nhận diện tiểu thuyết  Việt Nam đương đại vận động và phát triển theo các khuynh hướng nổi trội  như: khuynh hướng hiện thực – trào lộng, khuynh hướng hiện thực – huyền   ảo, khuynh hướng hiện thực – tâm lý, khuynh hướng hiện thực – hiện sinh,  khuynh hướng hiện thực – lịch sử... (“Một số khuynh hướng của tiểu thuyết   Việt Nam đương đại”, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại  học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, số 1(66)/ 2015, tr. 156 – 163). Cách nhận diện trên phần nào cho thấy được diện mạo của tiểu thuyết   Việt Nam đương đại, tuy nhiên, nó chỉ  có tính chất tương đối, vì thường  trong một tác phẩm có thể tìm thấy sự giao thoa, chuyển hóa giữa các khuynh  hướng khác nhau.  Sự  phân chia cac khuynh h ́ ương nh ́ ằm nhân diên toan bô ̣ ̣ ̀ ̣  ̣ ̣ ̉ ́ ệt Nam đương đai th diên mao tiêu thuyêt Vi ̣ ực ra la vân đê ph ̀ ́ ̀ ức tạp và không   ̉ ưng lai, vi  thê d ̀ ̣ ̀tiểu thuyết là thể loại chưa hoàn thành, đang tiếp diễn. Nhà  văn không những nhận thức mà còn thể hiện bản chất của đời sống và hiện  thực, bởi như  ý của Nguyễn Minh Châu nói trong   Di cảo: đó mới là hiện  thực cuộc sống đích thực.  Bằng tai năng và b ̀ ản lĩnh nghệ  thuật cua minh, ̉ ̀   mỗi nha văn luôn tim toi sáng t ̀ ̀ ̀ ạo, găn thê loai v ́ ̉ ̣ ơi đ ́ ời sống  và  co cai nhin ́ ́ ̀  mơi vê hiên th ́ ̀ ̣ ực, nhằm tao nên m ̣ ột diên mao m ̣ ̣ ơi cho n ́ ền tiêu thuyêt n ̉ ́ ước  nhà. 1.1.2.  Vân đê tim hiêu, nghiên c ́ ̀ ̀ ̉ ứu khuynh hương hiên th ́ ̣ ực – trào   lông trong tiêu thuyêt Viêt Nam đ ̣ ̉ ́ ̣ ương đaị 1.1.2.1. Về  tìm hiểu, nghiên cứu tiếng cười trào lộng trong tiểu thuyết   Việt Nam đương đại  Nhiều nhà nghiên cứu trong nước và trên thế  giới cho rằng, tiếng cười  là một trong những yếu tố ghi nhận trình độ  trưởng thành của nhà văn cũng  như của một nền văn học. Sự xuất hiện tiếng cười là một biểu hiện của sự  vận động đa dạng hóa hình thức thẩm mỹ  trong tiểu thuyết Việt Nam đương  đại. Tiếng cười xuất hiện trong tiểu thuyết với tần số ngày càng cao sau một  
  16. 16 thời gian dài “ngủ  đông” đã cho thấy vai trò quan trọng của vấn đề  dân chủ  trong đời sống xã hội, là điều kiện để tiếng cười hồi sinh và phát triển. Hầu  hết, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy sự  xuất hiện trở  lại của tiếng cười   trong hàng loạt tiểu thuyết xuất hiện từ sau 1986 như là một khuynh hướng   chủ  đạo. Vượt lên sự  trang nghiêm của phương pháp hiện thực xã hội chủ  nghĩa và tư duy sử thi trước đó, tiểu thuyết Việt Nam ngày càng chủ ý dùng  tiếng cười như  một phương tiện hữu hiệu để  nhận thức và phản ánh đời  sống. Tiếng cười thường thể hiện tính cách của con người, thậm chí là phản  ánh phẩm chất của một dân tộc. Nguyễn Tuân đã tìm ra hơn một trăm từ ngữ  dùng để chỉ các dạng thái tiếng cười của người Việt. Khi so sánh về tính dân  tộc của tiếng cười, Đỗ Lai Thúy cho rằng: “Khác với tiếng cười Trung Hoa,   người Tàu dùng tiếng cười như công cụ để chuyển tải tư tưởng, từ  Nho lâm  ngoại sử  của Ngô Kính Tử  đến A.Q chính truyện của Lỗ  Tấn. Đó là tiếng  cười thiên về  châm biếm, đả  kích một cách thâm nho, lộng óc. Còn tiếng   cười Việt Nam thì xuất phát từ  bụng (cười rung bụng) tưởng như vô nghĩa   (vì ít dùng làm công cụ), mà thâm hậu” [171; 207]. Nhìn một cách khái quát, công cuộc đổi mới văn học đã làm thay đổi tư  duy thể loại tiểu thuyết; quan niệm về hiện thực, v ề con ng ười và phương  thức trần thuật là những vấn đề  được bàn đến trong các bài viết, công trình   nghiên cứu của Phong Lê, Trần Đình Sử, La Khắc Hòa, Nguyễn Văn Long,  Lê Ngọc Trà, Hà Văn Đức, Nguyễn Thị Bình, Lưu Khánh Thơ, Mai Hương,   Tôn Phương Lan, Bích Thu, Trần Đăng Suyền, Biện Minh Điền, Nguyễn  Đăng Điệp, Lê Quang Hưng, Mai Hải Oanh... Nhiều nhà nghiên cứu cho  rằng, sự xuất hiện trở lại của tiếng cười trong tiểu thuyết Vi ệt Nam đương  đại là minh chứng cho sự đổi mới và phát triển của thể loại văn học này. ̉ Trong “Cam h ưng phê phan trong văn ch ́ ́ ương hiên nay ̣ ”,  Huynh Nh ̀ ư  Phương nhận xét về tiếng cười trong văn học: “Giống như trong câu chuyện  cổ  vềông vua có tai lừa, văn chương ta, nhiều năm qua, trongkhi viết về xã  hội đương đại, đã cố gắng che nhau, các tác phẩm có tiếng vang đều bộc lộ 
  17. 17 cảm hứng phê phán của nhà văn có một cái gì như  là sự  “phục thù” đối với  quá khứ, một quá khứ thừa những bài tụng ca... ” [141; 2].  Trong “Văn học Việt Nam sau 1945 – nhìn từ  các mục tiêu của công  việc “Viết” (Nghiên cứu văn học, số 3/2005), Phong Lê khái quát đặc trưng  thẩm mỹ  nổi bật của văn học sau 1975 nói chung, văn xuôi nói riêng bằng  mệnh đề: “Cái hài bên cái bi và một giai đoạn mới của văn học”. Tác giả  khẳng định sự  xuất hiện trở  lại của tiếng cười  đã mở  ra một  “giai đoạn  mới” là từ nhu cầu cười, một nhu cầu tự nhiên của con người. Tiếng cười là  một phần của cuộc sống, có quyền tồn tại và phát triển trong văn học:  “Cái  cười, nhu cầu cười, không chỉ cái cười nghiêm trang của sự đả kích mọi loại   kẻ thù mà còn là cười vui, cười nghịch, cười chế giễu, cười trong hàng ngũ  chúng ta, cười chính chúng ta, theo dạng truyện tiếu lâm, thơ Bút Tre, lúc nào  cũng đòi quyền tồn tại, như là một lẽ tự nhiên, mà thiếu nó, cuộc sống không   chỉ mất đi ý vị mà còn là không bình thường” [95; 88]. Theo ông, nhu cầu trở  lại tự nhiên ấy đã diễn ra vào thập niên cuối của thế kỷ trước, tính từ 1986,   nó đã xuất hiện trong tiểu thuyết của  Đoàn Lê, Lê Lựu, Ma Văn Kháng,  Phạm Thị Hoài. Ông nhấn mạnh, cái hài và cái bi chính là một cặp tạo nên sự  cân đối, hài hòa cho văn học, giúp cho văn học nói chung, tiểu thuyết nói  riêng đi vào quỹ đạo để hòa nhập với khu vực và thế giới. Hoàng Ngọc Hiến khẳng định: “Hài hước là một tình cảm mỹ  học có  giá trị nhân bản và sức cảm hóa to lớn. Tình cảm hài hước chế giễu những gì   đáng khinh ghét, đồng thời làm dịu đi những tình cảm khinh ghét”[63; 96].  La Khắc Hòa cho rằng, việc bút pháp trào lộng xuất hiện ngày càng   nhiều trong tiểu thuyết đương đại như một sự cân bằng trạng thái trong văn   học, nhằm phần nào giải tỏa áp lực của đời sống. Theo ông, “Văn học thời  kỳ đổi mới không thể cất lên thành tiếng hát. Cái vô lý, phi lý, chất văn xuôi  và vẻ đẹp cuộc sống phồn tạp chỉ có thể  hóa thân vào tiếng cười trào tiếu,   giễu nhại để văn học thế sự biến thành tiếng nói nghệ thuật” ( Văn học Việt   Nam sau 1975 – Những vấn đề  nghiên cứu và giảng dạy) [101; 66]. Ông nhận  định, chưa bao giờ thơ trào tiếu, truyện cười giễu nhại dân gian lại xuất hiện  
  18. 18 nhiều như  những năm 1980 của thế  kỷ  trước, “hình như  giễu nhại đã trở  thành kiểu quan hệ đời sống mang phong cách thời đại” [101; 66]. Ông phát   hiện ra tiếng cười trào tiếu, giễu nhại thấm đẫm cảm hứng trào lộng trong   nhiều tiểu thuyết của Nguyễn Khắc Trường, Ma Văn Kháng, Nguyễn Quang   Thân, Phạm Thị Hoài... Ông nhấn mạnh: “Sau 1975, văn học thế  sự chuyển  tiếng nói thành tiếng cười trào tiếu, giễu nhại. Tiếng cười giễu nhại, trào  tiếu mở  đường cho văn xuôi phát triển, tạo môi trường để  văn xuôi nói to  hơn thơ” [101; 69].  Trong “Chất hài hước, nghịch dị  trong   Mười lẻ  một đêm” Hoài Nam  nhận thấy, việc sáng tác tiểu thuyết bị  đè xuống bởi sự  đạo mạo, nghiêm   trang thì không thể  bật ra tiếng cười  đúng nghĩa của nó: “Nếu tôi không  nhầm thì kể từ khi Số đỏ của Vũ Trọng Phụng ra đời đến nay, văn xuôi nghệ  thuật nói chung và tiểu thuyết Việt Nam nói riêng đã đánh mất (một cách rất   đáng tiếc) tiếng cười hài hước. Suốt một thời gian dài các nhà văn Việt Nam  ít cười và cũng ít muốn độc giả phải bật cười thông qua tác phẩm của mình.  Chúng ta quá trang nghiêm, trang nghiêm tới mức coi sự cười cợt thoải mái là  một trò lố, một sự vô bổ và thậm chí có hại” [215; 384]. Có thể  thấy, tiếng   cười trào lộng đã khai phá, mở đường cho văn xuôi Việt Nam phát triển. Với bài viết “Cười – chất lượng cao” (Văn nghệ Trẻ, sô 9/2007 ́ ), Vương  ̀ khẳng định chức năng chính của tiếng cười là giúp vào việc nhận  Tri Nhan  ́ thức, khi nào nhân loại còn muốn và cần phát hiện lại đời sống, họ còn được  cười. Tác giả  cho rằng: “Những nhà văn viết hay là những người sắc sảo,   câu chuyện của họ luôn mang đến tiếng cười. Khả năng hài hước thường là   tỉ lệ thuận với tài năng văn học” [114; 7].  Trong   “Cảm   hứng   trào   lộng   trong   văn   xuôi   sau   1975”   (Văn   học,   số  3/2008), Nguyễn Thị Bình nhấn mạnh cảm hứng trào lộng trong văn xuôi sau  1975 gắn bó mật thiết với quan niệm đa chiều về  cuộc sống và con người,   một quan niệm ít tính lý tưởng nhưng chân thực và sâu sắc hơn. Nó là bằng   chứng của tư  duy văn học mang đậm tinh thần dân chủ  của ý thức cá nhân  được giải phóng, đã đóng góp cho truyền thống nhân văn của văn học dân tộc 
  19. 19 nhiều vẻ đẹp mới. Tác giả nhận định: “Không có độc giả nào không nhận ra  sự  “phục sinh” của tiếng cười như một đổi thay quan trọng trong nội dung   cảm hứng của văn xuôi giai đoạn này, nó mang đậm sắc thái dân chủ hóa và   đem lại nhiều giá trị  nhân văn quý giá, chi phối cả  giọng điệu văn chương”   [320; 39]. Theo tác giả, cảm hứng trào lộng gắn liền với sự  phát hiện cái   xấu, đây là phương diện thể  hiện tích cực xã hội của văn xuôi nói chung,  tiểu thuyết nói riêng. Trong “Vấn đề  nhận thức và xử  lý chất liệu hiện thực của tiểu thuyết   Việt Nam đương đại”, Biện Minh Điền nhấn mạnh vấn đề nhận thức và xử  lý chất liệu hiện thực bằng tiếng cười trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam   đương đại: “Quan sát toàn bộ văn học Việt Nam, không khó để nhận thấy có   hai thời kỳ cảm hứng trào phúng/ trào lộng phát triển mạnh trong văn học: 1,  từ giữa thế kỷ XIX đến 1945; 2, từ 1986 đến nay. Đây là hai thời kỳ có lắm  cái để  cười nhất, kho cất giữ  cái hài trong đời sống luôn luôn đầy  ắp. Vấn   đề là có người biết cười, thích cười và cười giỏi hay không mà thôi” [44; 5].  Luận án Yếu tố trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (2012)  của Trần Thị  Hạnh  đã góp thêm một tiếng nói khẳng định về  tiếng cười   trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại bằng những khảo sát về  yếu tố  trào  lộng và sự  đổi mới văn học Việt Nam đương đại, yếu tố  trào lộng và các   chủ  đề  cơ  bản của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, nghệ  thuật biểu hiện   yếu tố trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Qua nhiều khảo sát   về tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tác giả nhận định: “Bằng việc tạo tiếng   cười trong tiểu thuyết, các nhà văn đã làm nhuận sắc tiếng cười trong văn   xuôi thời kỳ  đổi mới, tiếp nối tiếng cười trong văn mạch truyền thống dân   tộc… Tiểu thuyết dùng tiếng cười vạch ra những mâu thuẫn, những nghịch   lý, phi lý, những lệch chuẩn đáng cười… Tiếng cười trong tiểu thuyết Việt   Nam đương đại mang ý nghĩa xã hội thẩm mỹ, thấm đẫm nhân bản, đưa văn  học Việt Nam hòa nhập vào cộng đồng văn chương nhân loại” [60; 196]. Bên cạnh các nhà nghiên cứu, lý luận phê bình văn học, các nhà văn, nhà  thơ  tên tuổi cũng có những nhận xét xác đáng về  tiếng cười trào lộng trong  
  20. 20 tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Nguyễn Huy Thiệp nhận định: “Chỉ  khi  nào tố chất hài kịch xuất hiện ở trong tác phẩm của nhà văn lúc ấy mới biết   chắc rằng nhà văn có thật nhà văn hay không... Cười được nghĩa là bay lên  được trên các bi kịch, trên các thành kiến và nguyên tắc” [165; 91]. Ma Văn  Kháng khái quát về tiếng cười trào lộng trong tiểu thuyết đương đại: “Chất  trào phúng, giễu nhại cay chua mà tâm thiện” [78; 326]. v.v…  Các bài viết, các công trình nghiên cứu trên đều khẳng định tiếng cười   xuất hiện ngày càng nhiều trong tiểu thuyết đương đại, và đó là một phẩm  chất quý của nền văn học hiện đại. Thời mở cửa, cuộc sống phơi bày tất cả  những gì tạo nên khuôn mặt thật của nó, sự  gia tăng tiếng cười trong tiểu   thuyết là điều tất yếu và vô cùng cần thiết. Tiếng cười trong tiểu thuyết   Việt Nam đương đại đa dạng, phong phú, có khả năng cảnh bao và th ́ ức tỉnh   người đọc. 1.1.2.2.  Vấn đề  nghiên cưu khuynh h ́ ương hiên th ́ ̣ ực  –  trao lông trong ̀ ̣   ̉ ̣ tiêu thuyêt Viêt Nam đ ́ ương đaị Cảm hứng trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986 gắn với sự  đổi mới tư  duy, quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người. Nhà văn  chiếu vào cuộc sống và con người cái nhìn đời tư, thế sự, trên tinh thần dân  chủ và sự tôn trọng ý thức cá nhân. Việc sử dụng phổ biến bút pháp trào lộng  là biểu hiện rõ nét quan niệm về bản chất dân chủ của thể loại,  cái hài được  thể hiện đậm nét qua các phương diện, các yếu tố cấu thành tác phẩm. Giới  nghiên cứu, phê bình cũng như  sáng tác đã có những nhận xét xác đáng về  không ít tác phẩm viết theo khuynh hương hiên th ́ ̣ ực – trao lông trong tiêu ̀ ̣ ̉   ̣ thuyêt Viêt Nam đ ́ ương đai. ̣ Thời xa vắng  (1986) của Lê Lựu tuy không thuộc khuynh hướng hiện  thực – trào lộng nhưng rất đáng được xem là cuốn tiểu thuyết đã “chuyển   hướng rõ rệt trong phong cách nghệ thuật. Do cách nhìn hiện thực mới, sâu   sắc và nhuần nhị  hơn, đã đem lại cảm hứng mới, giọng điệu mới cho tác  giả” (Nguyễn Văn Lưu) [197; 104].  Thời xa vắng  là “một tiểu thuyết giễu  nhại độc đáo. Nó không cần sử dụng những thủ pháp lạ hóa quen thuộc như 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2