Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
lượt xem 7
download
Luận án nhằm xác định có một khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại với những nét riêng trong nhận thức, phản ánh hiện thực và thi pháp thể loại; góp phần vào việc nghiên cứu tiểu thuyết nước nhà trước yêu cầu của xu thế đổi mới và hội nhập.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Trong văn học hiện đại, tiểu thuyết là thể loại đóng vai trò chủ lực. Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, văn học Việt Nam đã có những bước chuyển đổi sâu sắc, đặc biệt là tiểu thuyết. Từ sau 1986, đổi mới đã trở thành nhu cầu bức thiết của nhà văn, của công chúng và của chính bản thân văn học. Công cuộc đổi mới cho phép nhà văn phát huy sáng tạo, vận dụng nhiều bút pháp, thủ pháp nghệ thuật khác nhau, đào sâu hơn vào bản thể tâm hồn con người, mở rộng hơn biên độ hiện thực được nhận thức, phản ánh. Cuộc sống và con người trong tiểu thuyết được thể hiện đa dạng về nội dung, phong phú về hình thức nghệ thuật. Để tiếp cận, khám phá hiện thực phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ của thời đại, các nhà văn đã vận dụng sáng tạo nhiều thủ pháp nghệ thuật hoặc đã có từ trước, hoặc mới du nhập từ nước ngoài như trào lộng, huyền ảo, kỹ thuật dòng ý thức, phân tâm học, kỹ thuật phân mảnh, lắp ghép, kỹ thuật độc thoại nội tâm, nghệ thuật đồng hiện, liên văn bản... Tiểu thuyết đương đại, trong tình hình đó, đã kết tinh được những giá trị thẩm mỹ mới. 1.2. Khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết là một khuynh hướng nghệ thuật đã có từ đầu thế kỷ XX, đặc biệt là giai đoạn 1930 – 1945, với sự xuất hiện và phát triển vững vàng của chủ nghĩa hiện thực. Các tác gia lớn như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao... đã đóng góp cho lịch sử văn học dân tộc nhiều tác phẩm có giá trị. Với bút pháp và giọng điệu chủ đạo là trào lộng – trào phúng – giễu nhại, nhiều tiểu thuyết hiện thực 1930 – 1945 đã góp phần quan trọng làm thay đổi diện mạo tiểu thuyết Việt Nam hiện đại trước 1945 và đẩy thể loại này bước thêm những bước phát triển mới. Từ sau 1945, khuynh hướng này lắng xuống và đứt gãy trong một thời gian dài do sự chi phối của chiến tranh, phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa... Từ sau 1975, nhất là từ sau 1986, khuynh hướng trào lộng trong tiểu thuyết tái sinh và ngày càng phát triển mạnh mẽ với các tác giả như Tô Hoài, Nguyễn Khải, Lê Lựu, Ma Văn
- 2 Kháng, Vũ Bão, Đỗ Minh Tuấn, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Đặng Thân, Thuận, v.v... Tiểu thuyết hiện thực – trào lộng phát triển mạnh trong điều kiện đời sống xã hội dân chủ, mỗi tác phẩm là những giả thuyết hàm chứa ý nghĩa sâu sắc về cuộc sống. Cùng với các nguồn cảm hứng khác, cảm hứng về cái hài có vai trò tạo nên sự phong phú, đa dạng cho tiểu thuyết. Sự trở lại của tiếng cười là dấu hiệu lạc quan, nó tạo ra nhiều bè, nhiều giọng điệu nghệ thuật và nhiều giá trị mới trong tiểu thuyết. 1.3. Việc nghiên cứu các khuynh hướng khác nhau của tiểu thuyết đã được không ít các bài báo, công trình, luận văn, luận án tìm hiểu từ nhiều góc độ. Tiến trình đổi mới văn học ở nước ta nói chung, tiểu thuyết nói riêng diễn ra ngót ba thập kỷ với rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần được nhìn nhận, lý giải, đánh giá một cách thỏa đáng và có hệ thống. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào thật chuyên sâu nghiên cứu tiểu thuyết hiện thực – trào lộng với chủ đích xem nó là một khuynh hướng, nhất là trong thời gian gần đây, nhiều tiểu thuyết mới ra đời mà chưa có thêm sự khảo sát. Thực hiện đề tài này, chúng tôi xác định đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu nhằm góp một tiếng nói khẳng định có một khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Khuynh hướng này là một biểu hiện cụ thể đời sống dân chủ trong văn học, góp phần tạo nên sự đa dạng của tiểu thuyết trên nhiều phương diện. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Như tên đề tài đã xác định, đôi t ́ ượng nghiên cưu cua luân an la ́ ̉ ̣ ́ ̀Khuynh hương hiên th ́ ̣ ực – trao lông trong tiêu thuyêt Viêt Nam đ ̀ ̣ ̉ ́ ̣ ương đaị . 2.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án bao quát tiêu thuyêt Viêt Nam đ ̉ ́ ̣ ương đai (t ̣ ừ sau 1986) để tìm hiểu khuynh hương hiên th ́ ̣ ực – trao lông (ti ̀ ̣ ểu thuyết trước 1986, đặc biệt là tiểu thuyết trào lộng giai đoạn 1930 – 1945 được xem như là một tiền đề và là một đối tượng để đối sánh). Theo yêu cầu của đề tài, luận án tập trung đi sâu khảo sát các tiểu thuyết đương đại viết theo khuynh hướng hiện thực –
- 3 trào lộng (những tiểu thuyết có thể không thuộc khuynh hướng hiện thực – trào lộng nhưng chứa nhiều yếu tố trào lộng cũng được quan tâm) của các tác giả: Tô Hoài, Nguyễn Khải, Lê Lựu, Phạm Thị Hoài, Ma Văn Kháng, Nguyễn Bắc Sơn, Vũ Bão, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Thuận, Đỗ Minh Tuấn, Nguyễn Khắc Trường, Võ Văn Trực, Nguyễn Quang Vinh, Nguyễn Việt Hà, Trịnh Thanh Phong, Nguyễn Đình Tú, Đặng Thân, Lê Minh Quốc, Trần Nhương,... 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận án nhằm xác định có một khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại với những nét riêng trong nhận thức, phản ánh hiện thực và thi pháp thể loại; góp phần vào việc nghiên cứu tiểu thuyết nước nhà trước yêu cầu của xu thế đổi mới và hội nhập. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.2.1. Trên cơ sở bao quat tiêu thuyêt Viêt Nam đ ́ ̉ ́ ̣ ương đai, t ̣ ổng quan vấn đề nghiên cứu và xác lập cơ sở lý thuyết của đề tài. 3.2.2. Nhận diện khuynh hương hiên th ́ ̣ ực – trao lông ̀ ̣ trong bôi canh đôi ́ ̉ ̉ mơi cua ti ́ ̉ ểu thuyết Việt Nam đương đại. ̉ ́ con người và thế giới hiện thực trong 3.2.3. Đi sâu khao sat, phân tich ́ ̉ ́ ệt Nam đương đai viêt theo khuynh h tiêu thuyêt Vi ̣ ́ ương hi ́ ện thực – trào lộng. ̉ 3.2.4. Đi sâu khao sat, phân tích nh ́ ưng đăc điêm vê ̃ ̣ ̉ ̀thi pháp thể loại của tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng. 4. Phương pháp nghiên cứu Chọn đề tài Khuynh hương hiên th ́ ̣ ực – trao lông trong ̀ ̣ ̉ ̣ tiêu thuyêt Viêt ́ Nam đương đaị , tác giả luân an vân dung nhiêu ph ̣ ́ ̣ ̣ ̀ ương phap nghiên c ́ ưu khac ́ ́ ́ ủ yếu là các phương phap sau: nhau, trong đo ch ́
- 4 4.1. Phương phap liên ngành ́ : Phương pháp này giúp cho việc huy động tri thức của một số ngành khác như văn hóa học, triết học, tâm lý học, ngôn ngữ học... nhằm tham chiếu, soi tỏ các vấn đề được đề cập trong luận án. 4.2. Phương phap thông kê – miêu ta ́ ́ ̉: Phương pháp này vận dụng các thao tác thống kê – miêu tả, tìm tần số xuất hiện có ý nghĩa dự báo tính quy luật của các yếu tố thể hiện qua các tác phẩm, giúp các nhận định có cơ sở khoa học. 4.3. Phương phap phân tich – tông h ́ ́ ̉ ợp: Phương pháp này đi vào phân tích tác phẩm, các vấn đề, trên cơ sở đó, tổng hợp theo định hướng của luận án. 4.4. Phương phap l ́ ịch sử: Phương pháp này giúp cho việc nhìn nhận, xác định tiểu thuyết viết theo khuynh hương hiên th ́ ̣ ực – trao lông trong ti ̀ ̣ ến trình đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tái diễn những nét chính của bối cảnh lịch sử – văn hóa – xã hội có ảnh hưởng đến khuynh hướng tiểu thuyết này. 4.5. Phương phap so sanh – loai hinh ́ ́ ̣ ̀ : Phương pháp này được dùng để đối chiếu, so sánh các tác phẩm và các vấn đề văn học cùng hoặc khác loại hình nhằm chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt của tiểu thuyết viết theo khuynh hương hiên th ́ ̣ ực – trao lông và ti ̀ ̣ ểu thuyết viết theo khuynh hướng khác. 4.6. Phương phap câu truc – hê thông ́ ́ ́ ̣ ́ : Phương pháp này được dùng để xâu chuỗi, hệ thống các vấn đề nghiên cứu trong tính thống nhất chỉnh thể. 5. Đóng góp của luận án ̣ ́ ̀ ̉ Luân an la công trinh tim hiêu, nghiên c ̀ ̀ ưu ti ́ ểu thuyết viết theo khuynh hương hiên th ́ ̣ ực trao lông ̀ ̣ vơi môt cai nhin tâp trung, hê thông. ́ ̣ ́ ̀ ̣ ̣ ́ Luận án là một sự nỗ lực bao quát và xác định có một khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tổng quan vấn đề nghiên cứu và xác lập cơ sở lý thuyết cho việc nghiên cứu vấn đề này.
- 5 Luận án tạo dựng và phác thảo bức tranh tiểu thuyết Việt Nam đương đại, trên cơ sở đó khu biệt và nhận diện diện mạo, vị thế, đường hướng vận động của tiểu thuyết viết theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng. Luận án là công trình đi sâu khảo sát con người, thế giới hiện thực và chỉ ra, làm rõ những đặc điểm nổi bật về thi pháp thể loại của tiểu thuyết viết theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng. ̉ Kêt qua nghiên c ́ ưu cua luân an có th ́ ̉ ̣ ́ ể được dùng làm tai liêu tham khao ̀ ̣ ̉ ̣ cho viêc nghiên cưu và vân dung vào viêc dayhoc ́ ̣ ̣ ̣ ̣ ̣ ở học đường về thể loại ̉ tiêu thuyêt, trong đó có khuynh h ́ ướng hiện thực – trào lộng. 6. Cấu trúc luận án ̀ Mở đâù , Kêt luân Ngoai ́ ̣ và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luâṇ ́ ược triển khai thành 4 chương: an đ Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài Chương 2. Khuynh hương hiên th ́ ̣ ực – trao lông ̀ ̣ trong bôi canh đôi m ́ ̉ ̉ ơí ̉ ểu thuyết Việt Nam đương đại cua ti Chương 3. Con người và thế giới hiện thực trong tiêu thuyêt Vi ̉ ́ ệt Nam đương đai viêt theo khuynh h ̣ ́ ương hiên th ́ ̣ ực – trao lông. ̀ ̣ Chương 4. Thi pháp thể loại của tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng. Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 1.1.1. Các khuynh hướng vận động, phát triển của tiêu thuyêt Vi ̉ ́ ệt Nam đương đại trên lịch trình nghiên cứu 1.1.1.1. Vấn đề nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam đương đại Tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975, nhất là từ sau 1986 đến nay phát triển mạnh mẽ, ngày càng phong phú và đa dạng. Thể loại văn học này
- 6 không ngừng đổi mới, cách tân trên các phương diện như chức năng, nội dung và thi pháp thể loại. Biên độ phản ánh hiện thực của tiểu thuyết được mở rộng do sự vận động, phát triển của cuộc sống và đổi mới tư duy sáng tạo của nhà văn. Việc nghiên cứu, đánh giá tiểu thuyết từ sau đổi mới vì thế mà hấp dẫn đối với giới nghiên cứu, phê bình văn học. Trong số các công trình đó, chúng tôi chú ý đến những công trình nghiên cứu có tính chất chuyên sâu về thể loại tiểu thuyết. Năm 1995, trong Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 (khảo sát trên nét lớn), Nguyễn Thị Bình nhấn mạnh cảm hứng phê phán ở một số tiểu thuyết do tinh thần dân chủ hóa và ý thức nghệ thuật của nhà văn đã có những thay đổi quan trọng. Trong đó có Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Chuyện làng ngày ấy... Năm 1996, Nxb (Nhà xuất bản) Hội Nhà văn ấn hành Khảo về tiểu thuyết của Vương Trí Nhàn. Tập sách thể hiện sự quan sát tinh tế các hiện tượng trên tiến trình tiểu thuyết Việt Nam và những vấn đề, những khía cạnh có ý nghĩa lý luận về thể loại. Một số tác giả khác với các bài viết, các công trình rất đáng chú ý, như Lê Huy Bắc với “Đồng hiện trong văn xuôi” (Văn học, số 6/1996); Ma Văn Kháng với “Tiểu thuyết, nghệ thuật khám phá cuộc sống” (Văn nghệ quân đội, số 11/1998); Bùi Việt Thắng (2000) với Bàn về tiểu thuyết (Nxb Văn hoá Thông tin); Phan Cự Đệ với “Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thời kỳ đổi mới” (Văn nghệ quân đội, số 3/2001); Lý Hoai Thu ̀ với “Cac nha văn ban vê tiêu thuyêt” ́ ̀ ̀ ̀ ̉ ̣ ̣ sô ́3/2001); ́ (Văn nghê quân đôi, Tôn Phương Lan (2002) với “Một số vấn đề trong văn xuôi thời kỳ đổi mới” (sách Văn học Việt Nam thế kỷ XX , Nxb Chính trị quốc gia); Nguyễn Xuân Khánh (2003) với Suy nghĩ về hiện thực trong đổi mới tiểu thuyết (Nxb Hội Nhà văn); v.v... Năm 2005, trong Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 (in trong Văn học Việt Nam sau 1975 – những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Văn học), Bích Thu đã có những nhận xét xác đáng về sự đổi mới của tiểu thuyết từ sau 1986 qua các yếu tố: nhân vật, cốt truyện, ngôn ngữ và
- 7 giọng điệu. Bùi Việt Thắng với Tiểu thuyết đương đại (2005), Nxb Quân đội nhân dân phát hành, gồm 2 phần: Phần 1 có 12 bài viết mang tính chất nhận diện và chỉ ra những đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986 ; Phần 2 có 27 bài, tác giả đi vào phân tích 29 tác phẩm (viết từ sau 1986) của 27 nhà văn, trong đó có Tô Hoài, Lê Lựu, Đoàn Minh Phượng, Chu Lai, Đào Thắng, v.v… Từ 2006 đến 2008, bàn về văn xuôi nói chung và tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói riêng, có thể kể đến Hoàng Ngọc Hiến với Những ngả đường văn học (Nxb Văn học), Bích Thu với “Môt cach tiêp cân tiêu thuyêt Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ ̉ ́ ̣ thơi ky đôi m ̀ ̀ ̉ ơi” ́ (Nghiên cưu văn hoc ́ ̣ , sô 11 ́ /2006), Văn Giá với “Thử nhận diện tiểu thuyết ngắn Việt Nam gần đây” (Văn nghệ, số 26/2006), Mai Hương với “Đổi mới tư duy văn học và đóng góp của một số cây bút văn xuôi” (Nghiên cứu văn học, số 11/2006), Nguyễn Trường Lịch với “Đổi mới tiểu thuyết trong bối cảnh giao lưu văn hóa” (Văn nghệ, số 4/2007), Trân Thi ̀ ̣ Mai Nhân (2008)với Nhưng đôi m ̃ ̉ ơi trong tiêu thuyêt Viêt Nam t ́ ̉ ́ ̣ ừ 1986 – 2000 (luận án Tiến sĩ), v.v... Các công trình này đều đề cập đến sự đổi mới, cách tân của tiểu thuyết đương đại trên các phương diện nội dung tư tưởng cũng như thi pháp thể loại. Trong Lời giới thiệu chuyên luận Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (2009) của Mai Hải Oanh, Trần Đình Sử nhận định: “Bắt đầu từ tư duy mới về thể loại tiểu thuyết, quan ni ệm m ới v ề con người, sự tìm tòi các phương thức biểu hiện và cấu trúc mới, tiểu thuyết Việt Nam đã có những khuynh hướng sáng tác nổi bật...” [137; 6]. Các tác giả khác như Đô Hai Ninh ̃ ̉ với “Quan niêm vê lich s ̣ ̀ ̣ ử trong tiêu thuyêt cua ̉ ́ ̉ ́ ” (Nghiên cưu văn hoc Nguyên Xuân Khanh ̃ ́ ̣ , sô 2 ́ /2009), Nguyễn Thành với “Khuynh hướng lạ hóa trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại – một số bình diện tiêu biểu” (Nghiên cứu văn học, số 4/2012), Bích Thu với “Một vài cảm nhận về ngôn ngữ tiểu thuyết Việt Nam đương đại” (Nghiên cứu văn học, số 3/2013) và “Bước đầu nhận diện tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI” (trong Văn học Việt Nam hiện đại – Sáng tạo và tiếp nhận, Nxb
- 8 Văn học, 2015)...khẳng định tiểu thuyết có những đổi mới về nội dung phản ánh, cái nhìn hiện thực và đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người với tư tưởng nhân văn phương Đông. Trong “Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986–2016) – Những bước thăng trầm” (Văn nghệ, số 24/2016), Bùi Việt Thắng xác định, văn học Việt Nam 1975 – 1986 là giai đoạn tiền đổi mới, chưa vượt thoát ra khỏi phạm trù “sử thi và lãng mạn” của văn học cách mạng. Theo tác giả, tiểu thuyết thật sự bước vào cao trào đổi mới là vào khoảng cuối những năm tám mươi, đầu những năm chín mươi của thế kỷ XX. Tác giả xem Thời xa vắng (1986) của Lê Lựu là sự đột phá của tiểu thuyết đổi mới, tác phẩm thấm đượm nhiệt hứng nhận thức lại thực tại, về sau trở thành một khuynh hướng quan trọng của văn học đương đại được viết theo tinh thần của “cái bi kịch” và mở ra một dòng tiểu thuyết tự thuật được các nhà văn ưa chuộng sau này; v.v… Ngoài những bài báo, công trình đề cập đến các vấn đề mang tính lý luận, khái quát diện mạo hoặc chỉ ra những cách tân nghệ thuật tiểu thuyết như xây dựng nhân vật, cấu trúc tác phẩm, nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ, giọng điệu còn có không ít những bài báo quan tâm đến các tác phẩm cụ thể như Mùa lá rụng trong vườn, Ba người khác, Nỗi buồn chiến tranh, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Thượng đế thì cười, Giã biệt bóng tối, các tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh nói riêng và tiểu thuyết lịch sử nói chung… Ngoài những bài viết mang tính cập nhật hoặc rải rác sau khi tác phẩm ra đời, nếu cuốn tiểu thuyết nào gây được chú ý trong dư luận, thường Báo Văn nghệ hoặc một số báo, Viện tổ chức tọa đàm, thảo luận: Thảo luận về tiểu thuyết Mưa mùa hạ (Viện Văn học); Thao luân vê tiêu thuyêt ̉ ̣ ̀ ̉ ́ ươi không co giây gia thu ́ Đam c ́ ́ ́ ́ ́ (Văn nghệ, sô 6 ̉ ̀Lơi nguyên hai trăm năm ́ /1990); Trao đôi vê ̀ ̀ ̉ ́ ̉ – tiêu thuyêt cua Khôi Vũ (Văn nghệ, sô 26 ̉ ̣ ̀ ̉ ́ /1990); Thao luân vê tiêu thuyêt ̉ ́ Manh đât lăm ng ́ ́ ươì nhiêu ma ̀ (Baó Văn nghệ, sô 11 ̉ ̣ ̀ ̉ ́ /1991);Thao luân vê tiêu thuyêt ̣ ̀ ́ Thân phân tinh yêu (Văn nghệ, sô 37 ̉ ̣ ̀ ̉ ́ /1991); Thao luân vê tiêu thuyêt ́ Ăn may di vang ̉ ̀ ̃ ̃ cua Chu
- 9 Lai (Văn nghệ, sô 29 ̣ ̉ ̀ ̉ ́ /1992); Hôi thao vê tiêu thuyêt ́ Hô Quy Ly ̀ ́ (Văn nghệ, số 41/2000); Nguyễn Khắc Phê với “Sông Côn mùa lũ” (Nhà văn, số 4/2000); Lê Nguyên Cẩn với “Thế giới kỳ ảo trong Mảnh đất lắm người nhiều ma từ điểm nhìn văn hóa” (Nghiên cứu văn học, số 8/2006); “Toa đam vê tiêu thuyêt ̣ ̀ ̀ ̉ ́ ̣ ơi va cha con Luât đ ̀ ̀ ́ và 18/2006); Hội Nhà văn Hà Nội tổ ” (Văn nghệ, sô 17 chức trao đổi Ba người khác của Tô Hoài (22/12/2006), Viện Văn học tổ chức hội thảo về tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh (được tập hợp lại trong cuốn Nguyễn Xuân Khánh – Cái nhìn lịch sử nghệ thuật (2003), Nxb Phụ nữ); Hội Nhà văn (2013) tổ chức hội thảo về tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Mộng Giác, Hoàng Quốc Hải, Võ Thị Hảo, Nam Dao; v.v… Ngoài ra, còn rất nhiều bài báo lẻ khác như Vân Thanh với ̣ ̉ “Môt manh đơi trong cuôc sông hôm nay qua ̀ ̣ ́ ̀ ́ ̣ Mua la rung trong v ươǹ ” (Văn hoc̣ , sô 3 ́ /1986); Mai Huy Bích với “Trở lại với tiểu thuyết Thời xa vắng: Hôn nhân, gia đình, xã hội qua một tiểu thuyết” ( Văn nghệ, số 23/1987); Nguyên Huy Thông ̃ với “Vê cuôn tiêu thuyêt ̀ ́ ̉ ̉ ́ Ngôì cua Nguyên Binh Ph ̃ ̀ ương” (Văn nghệ, sô 51 ̣ ́ với “Mươi le môt đêm ́ /2006); Nguyên Thi Minh Thai ̃ ̀ ̉ ̣ , caí ̀ ́ ́ ừ phia sau” nhin hăt sang t ́ ́ /2006)... Nhìn chung, các hội thảo, (Văn nghệ, sô 23 trao đổi, tọa đàm, các bài báo trên đều khẳng định tiểu thuyết Việt Nam đã tạo ra những cao trào từ cuối những năm tám mươi, đầu những năm chín mươi của thế kỷ trước. Tiểu thuyết thời đổi mới đã đi được những bước tự tin và thành tựu của mình với nhiều tác giả thuộc nhiều thế hệ. Khi thể loại tiểu thuyết – “cỗ máy cái văn học” ngự trị văn đàn thì văn học thật sự đổi mới. Có thể thấy, dư luận chung đều khẳng định tiểu thuyết đương đại ngày càng phát triển mạnh mẽ, giàu chất văn xuôi, mang tính hướng nội, có nhiều cách tân, sáng tạo trong nhận thức và thể hiện cuộc sống. 1.1.1.2. Vấn đề nghiên cưu cac khuynh h ́ ́ ương vân đông, phat triên c ́ ̣ ̣ ́ ̉ ủa ̉ ̣ tiêu thuyêt Viêt Nam đ ́ ương đaị Khuynh hướng, trào lưu là các khái niệm dùng để chỉ những hiện tượng của quá trình văn học, là “những cộng đồng các hiện tượng văn học được
- 10 liên kết lại trên cơ sở một sự thống nhất tương đối về các định hướng thẩm mỹ – tư tưởng và về các nguyên tắc thể hiện nghệ thuật” [10; 173]. Trào lưu văn học được đánh dấu bằng sự xuất hiện hàng loạt sáng tác của nhóm nhiều tác giả, biểu hiện thành cương lĩnh riêng, có những đặc điểm cơ bản giống nhau, “có quan điểm tư tưởng – xã hội và quan điểm thẩm mỹ tương đối gần gũi, thống nhất với nhau” [58; 302]. Một số nhà nghiên cứu xem trào lưu là phạm trù rộng, dung chứa nhiều khuynh hướng. Tuy nhiên, “quan niệm được dùng phổ biến hơn thì coi khuynh hướng là phạm trù rộng, dung chứa nhiều trào lưu” [10; 173]. Khuynh hướng “ghi nhận tính cộng đồngvề cơ sở tư tưởng thẩm mỹ của nội dung nghệ thuật; tính cộng đồng này được quy định bởi sự thống nhất về truyền thống nghệ thuật và văn hóa, bởi sự gần gũi trong cách hiểu của các nhà văn đối với các vấn đề của đời sống, bởi sự giống nhau về các tình thế xã hội, thời đại, văn hóa, nghệ thuật” [10; 174]. Khuynh hướng văn học không đòi hỏi phải có “một sự gần gũi trực tiếp về tư tưởng và nghệ thuật, một sự thống nhất mang tính cương lĩnh về thẩm mỹ của các thành viên” [10; 174]. Khuynh hướng là “Sự thiên về một phía nào đó trong hoạt động, trong quá trình phát triển” [135; 498]. Khái niệm khuynh hướng ở đây được hiểu với ý nghĩa chỉ những tiểu thuyết có chung một số đặc điểm nổi trội về vấn đề nhận thức và phản ánh hiện thực – một vấn đề quan trọng của lịch sử văn học. Sự hình thành và phát triển của các khuynh hướng tiểu thuyết giúp chúng ta nhận thức được sự biến đổi và phát triển trong nội dung tư tưởng và thi pháp thể loại của một giai đoạn, một thời kỳ, một nền văn học. Theo D.X. Likhatsev trong Thi pháp của nền văn học Nga cổ (Nxb Khoa học, Leningrad 1967, Phan Ngọc dịch), khuynh hướng văn học cũng là một biểu hiện quan trọng của thi pháp văn học, đánh dấu trình độ phát triển của nghệ thuật ngôn từ trong các giai đoạn khác nhau của lịch sử văn học. Từ giữa những năm 80 của thế kỷ trước, nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam vận dụng các khái niệm lý luận của G.N. Pospelov (Nga), nhận thấy văn học Việt Nam sau 1975 có khuynh hướng phi sử thi hóa, thế sự hóa và đời tư hóa. Trong bài Các khuynh hướng phê bình văn học Việt
- 11 Nam hiện nay, Trần Đình Sử nhận xét, cách phân biệt khuynh hướng trên“còn được vận dụng, gắn với quan niệm về sự giải thiêng, giải huyền thoại, khuynh hướng thế tục hóa văn học, khuynh hướng biểu hiện chấn thương tinh thần”. Nhìn chung, sự phân chia các khuynh hướng trên có những đặc điểm giống với khuynh hướng văn học thuộc các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Tính khuynh hướng là “điều kiện cần thiết để có tính tư tưởng và tính nghệ thuật” [58; 294]. Khuynh hướng văn học “không phải là ý đồ chủ quan không có cơ sở của nhà văn mà là một xu thế tư tưởng bắt nguồn từ cuộc sống,…bao giờ cũng toát ra một cách tự nhiên từ sự miêu tả sinh động của đời sống chứ không phải qua những lời lý thuyết khô khan, hoặc những tư tưởng trừu tượng” [58; 294]. Trong Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời điểm đổi mới đến nay (2008), Nguyễn Thị Bình chon trong tâm nghiên c ̣ ̣ ưu la t ́ ̀ ư duy thể ̣ ̀ ̣ ̉ loai, tiêu chi phân chia la đăc điêm bút pháp ́ . Tac gia cho r ́ ̉ ằng: “môt lôi t ̣ ́ ư duy bao giờ cung đ ̃ ược biêu hiên ra ngoai băng môt but phap t ̉ ̣ ̀ ̀ ̣ ́ ́ ương ưng”, và phân ́ chia tiểu thuyết Việt Nam đương đại thành các khuynh hướng: tiêu thuyêt ̉ ́ theo phong cach ̣ ́ “lich sử hoa”, tiêu thuyêt theo phong cach ́ ̉ ́ ́ “tự thuât”, tiêu ̣ ̉ ́ ư liêu – bao chi, tiêu thuyêt hiên th thuyêt t ̣ ́ ́ ̉ ́ ̣ ực kiêu truyên thông và tiêu thuyêt ̉ ̀ ́ ̉ ́ ̣ ̣ ̣ . Trong Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1995 những theo phong cach hâu hiên đai ́ đổi mới cơ bản, Nguyễn Thị Bình đã nghiên cứu bước ngoặt trong hệ hình ý thức của nhà văn, đánh giá tính đối thoại trong tác phẩm đồng thời chỉ ra căn bệnh xã hội đã trở thành đối tượng phê phán của nhà văn trong tiểu thuyết Ly thân và Chuyện làng Cuội [18; 99]. Theo tác giả, với cảm hứng đó, những căn bệnh xã hội đã trở thành lố bịch, phi lý khi nó được thể hiện với giọng giễu nhại và trào lộng. Mai Hải Oanh với Nhưng cach tân nghê thuât trong tiêu thuyêt Viêt Nam ̃ ́ ̣ ̣ ̉ ́ ̣ đương đaị giai đoạn 1986 – 2006 (2008) đã luận giải sự đa dạng về cách thức thể hiện của tiểu thuyết trên cơ sở đề cập đến một số bút pháp nghệ thuật. Theo tác giả, tiểu thuyết thực sự đã trở thành “nhân vật chính” trên văn đàn và thâm nhập mạnh mẽ vào các thể loại, đồng thời thu hút vào nó các thể
- 12 loại khác để tạo nên cấu trúc nghệ thuật đa tầng. Một thay đổi quan trọng trong nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết là sự đa dạng và linh hoạt về bút pháp nghệ thuật. Căn cứ vao cac nguyên tăc và but phap nghê thuât, tác gi ̀ ́ ́ ́ ́ ̣ ̣ ả chia ̉ ́ ương đai thanh các khuynh h tiêu thuyêt đ ̣ ̀ ương nh ́ ư: tiểu thuyết ta th ̉ ực mơi; ́ tiểu thuyết phung du, huyên thoai; ti ́ ̣ ̀ ̣ ểu thuyết trao lông giêu nhai; ti ̀ ̣ ̃ ̣ ểu thuyết tượng trưng… Bùi Việt Thắng với Tiểu thuyết đương đại muốn khái quát diện mạo của tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975 qua những giai đoạn ngắn và đề cập đến một số khuynh hướng vân đông, phat triên c ̣ ̣ ́ ̉ ủa tiểu thuyết đương đại. Ông nhận định, “sẽ là không đầy đủ trong công việc nhận diện văn học nếu không nói đến tiểu thuyết”. Theo ông, tiểu thuyết đương đại Việt Nam đã tiếp thu được nhiều kinh nghiệm nghệ thuật tiểu thuyết thế giới, ít mô tả thế giới hơn là tạo ra một thế giới theo cách của nó và ở đó, “con người có thể chiêm ngưỡng mình từ nhiều chiều hơn là chỉ thấy cái bóng của mình đổ dài xuống lịch sử” [161; 202]. Luận án Kết cấu tiểu thuyết Việt Nam đương đại (2012) của Nguyễn Thị Ninh đi vào nghiên cứu những đổi mới kết cấu của xu hướng tiểu thuyết cách tân theo thi pháp hiện đại trong việc đối sánh với tiểu thuyết truyền thống. Tác giả nhận diện sự xuất hiện của xu hướng tiểu thuyết mới từ cuối thập niên 1980, hình thành rõ nét từ giữa thập niên 1990 đến nay – xu hướng tiểu thuyết có nhiều đổi mới cách tân, đặc biệt là kỹ thuật viết. Luận án khám phá một số phương diện kết cấu đặc sắc của xu hướng tiểu thuyết mới như: đổi mới kết cấu văn bản trần thuật và kết cấu hình tượng trong quan hệ với cốt truyện và hiện thực được phản ánh; kết cấu nhịp điệu và ngôn ngữ như là phương tiện để biến kết cấu trong hình dung tưởng tượng của nhà văn thành một thực thể sinh động. Luận án Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới (2012) của Nguyễn Thị Kim Tiến tập trung tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người và khái quát các dạng thái con người trong tiểu thuyết từ sau 1986: con người dưới góc nhìn nhân bản xã hội (người lính, người nông dân, người trí
- 13 thức), con người dưới góc nhìn loại hình văn học (con người lịch sử – văn hóa, con người “huyền thoại”, con người “dị biệt”). Tác giả luận án cũng chỉ ra một số phương diện của nghệ thuật biểu hiện con người trong tiểu thuy ết thời kỳ đổi mới, trong đó có giọng điệu giễu nhại. Luận án Tiểu thuyết về chiến tranh trong văn học Việt Nam sau 1975 – những khuynh hướng và sự đổi mới nghệ thuật (2012) của Nguyễn Thị Thanh căn cứ các quan niệm: “Văn học là nhân học” (M. Gorki), Tiểu thuyết giáo dục và ý nghĩa của nó trong lịch sử chủ nghĩa hiện thực (M. Bakhtin) và sự thay đổi quan niệm về hiện thực và con người, chia tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975 thành các khuynh hướng như: khuynh hướng khám phá người anh hùng lưỡng diện, khuynh hướng thể hiện con người bị chấn thương và những số phận bi kịch, khuynh hướng thể hiện con người đời thường và những vấn đề thế sự. Thai Phan Vang Anh v ́ ̀ ới Cac khuynh h ́ ương tiêu thuyêt Viêt Nam đâu thê ́ ̉ ́ ̣ ̀ ́ ̉ ky XXI (2013) xem tiểu thuyết là “cỗ máy cái của văn học”, là trụ cột của một nền văn học và luôn thích nghi với những chuyển động phong phú của đời sống. Từ góc nhìn thể loại, tác giả nhận thấy tiểu thuyết ngày càng xuất hiện nhiều khuynh hướng, thể hiện sự cách tân triệt để trong xu thế hội nhập. Căn cứ vao my hoc hâu hiên đai, tác gi ̀ ̃ ̣ ̣ ̣ ̣ ả chia tiểu thuyết thanh các ̀ khuynh hương: ti ́ ểu thuyết tân lịch sử – sự phản tư lịch sử, tiểu thuyết hiện sinh – sự phân rã những mảnh hiện tồn, tiểu thuyết tính dục – sự phì đại của dòng văn chương thân xác, tiểu thuyết nữ quyền – phụ nữ không phải là “cái khác vắng mặt”. Ngô Thị Quỳnh Nga với luận án Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 viết về chiến tranh (2015), trên một số nét chính đã phác họa lại diện mạo của tiểu thuyết với những đường hướng vận động và phát triển của nó. Các công trình trên tuy chưa trực tiếp tìm hiểu các khuynh hướng vận động và phát triển của tiểu thuyết Việt Nam đương đại một cách hệ thống, nhưng đã tạo dựng, phác thảo được những đường nét quan trọng, có cơ sở.
- 14 Theo tác giả luận án, khuynh hướng văn học nói chung và khuynh hướng tiểu thuyết nói riêng được phân loại theo nhiều cách khác nhau, trong đó có hai cách thường được chú ý là phân loại theo nội dung, tư tưởng và phân loại theo thi pháp thể loại hoặc bút pháp. Cùng chiếm lĩnh một hiện thực đời sống, nhưng từng nhà văn có cách thức nhận thức và xử lý chất liệu khác nhau, có quyền tự do lựa chọn cho mình một khuynh hướng nghệ thuật nhất định bên cạnh các khuynh hướng nghệ thuật khác. Có thể thấy, tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986 thể hiện sự đa dạng, phong phú về các khuynh hướng nội dung tư tưởng và khuynh hướng thẩm mỹ. Sự hình thành, phát triển các khuynh hướng trong tiểu thuyết thể hiện sự đổi mới về tư tưởng nghệ thuật, bút pháp nghệ thuật, là sự thể hiện những lập trường nghệ thuật không giống nhau trong văn học. Sự xuất hiện các khuynh hướng tiểu thuyết cũng chính là biểu hiện của quá trình dân chủ hoá trong văn học Việt Nam đương đại. Khảo sát tiến trình vận động, phát triển của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, có thể thấy mối quan hệ cộng hưởng của các khuynh hướng trong hệ thống thể loại. Mỗi hệ thống thể loại tạo thành một hệ thống nghệ thuật và các yếu tố hợp thành hệ thống có sự tác động qua lại lẫn nhau. Từ sau 1986, tiểu thuyết Việt Nam có những đặc điểm và quy luật vận động riêng, có sự phân định và cũng có sự cộng sinh giữa các khuynh hướng. Những “đổi mới, cách tân của tiểu thuyết thời gian qua, đặc biệt trên phương diện thi pháp thể loại nhờ vận dụng, pha trộn nhiều thủ pháp, kỹ thuật của lối viết mới với muôn kiểu “trò chơi” (chơi ngôn ngữ, chơi lịch sử, chơi cấu trúc, chơi kết cấu, chơi nhân vật…), lắm những thủ pháp (“cắt dán”, “lồng ghép” – “phân mảnh” – modular, phỏng nhại, liên văn bản, ký hiệu hóa, số hóa, vật hóa, v.v…) quả thực có làm cho diện mạo và đặc điểm của tiểu thuyết Việt Nam đương đại khác trước” [44; 7] , không ngừng đổi mới về nội dung tư tưởng và thi pháp thể loại. Về nội dung tư tưởng, bức tranh hiện thực trong tiểu thuyết mang đậm hơi thở cuộc sống, nhiều mảng màu đan xen hỗn tạp. Về thi pháp thể loại, tiểu thuyết đã có những đổi mới về bút pháp, phương thức trần thuật và khắc họa nhân vật.
- 15 Việc nhân diên cac khuynh h ̣ ̣ ́ ương tiêu thuyêt dù d ́ ̉ ́ ựa vao tiêu chí nào ̀ ́ ương đôi, b cũng đêu mang tinh t ̀ ́ ởi chúng co nh ́ ưng đi ̃ ểm giao thoa vơi nhau ́ . Căn cứ chủ yếu vào bút pháp, tác giả luận án có thể nhận diện tiểu thuyết Việt Nam đương đại vận động và phát triển theo các khuynh hướng nổi trội như: khuynh hướng hiện thực – trào lộng, khuynh hướng hiện thực – huyền ảo, khuynh hướng hiện thực – tâm lý, khuynh hướng hiện thực – hiện sinh, khuynh hướng hiện thực – lịch sử... (“Một số khuynh hướng của tiểu thuyết Việt Nam đương đại”, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, số 1(66)/ 2015, tr. 156 – 163). Cách nhận diện trên phần nào cho thấy được diện mạo của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tuy nhiên, nó chỉ có tính chất tương đối, vì thường trong một tác phẩm có thể tìm thấy sự giao thoa, chuyển hóa giữa các khuynh hướng khác nhau. Sự phân chia cac khuynh h ́ ương nh ́ ằm nhân diên toan bô ̣ ̣ ̀ ̣ ̣ ̣ ̉ ́ ệt Nam đương đai th diên mao tiêu thuyêt Vi ̣ ực ra la vân đê ph ̀ ́ ̀ ức tạp và không ̉ ưng lai, vi thê d ̀ ̣ ̀tiểu thuyết là thể loại chưa hoàn thành, đang tiếp diễn. Nhà văn không những nhận thức mà còn thể hiện bản chất của đời sống và hiện thực, bởi như ý của Nguyễn Minh Châu nói trong Di cảo: đó mới là hiện thực cuộc sống đích thực. Bằng tai năng và b ̀ ản lĩnh nghệ thuật cua minh, ̉ ̀ mỗi nha văn luôn tim toi sáng t ̀ ̀ ̀ ạo, găn thê loai v ́ ̉ ̣ ơi đ ́ ời sống và co cai nhin ́ ́ ̀ mơi vê hiên th ́ ̀ ̣ ực, nhằm tao nên m ̣ ột diên mao m ̣ ̣ ơi cho n ́ ền tiêu thuyêt n ̉ ́ ước nhà. 1.1.2. Vân đê tim hiêu, nghiên c ́ ̀ ̀ ̉ ứu khuynh hương hiên th ́ ̣ ực – trào lông trong tiêu thuyêt Viêt Nam đ ̣ ̉ ́ ̣ ương đaị 1.1.2.1. Về tìm hiểu, nghiên cứu tiếng cười trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại Nhiều nhà nghiên cứu trong nước và trên thế giới cho rằng, tiếng cười là một trong những yếu tố ghi nhận trình độ trưởng thành của nhà văn cũng như của một nền văn học. Sự xuất hiện tiếng cười là một biểu hiện của sự vận động đa dạng hóa hình thức thẩm mỹ trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Tiếng cười xuất hiện trong tiểu thuyết với tần số ngày càng cao sau một
- 16 thời gian dài “ngủ đông” đã cho thấy vai trò quan trọng của vấn đề dân chủ trong đời sống xã hội, là điều kiện để tiếng cười hồi sinh và phát triển. Hầu hết, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy sự xuất hiện trở lại của tiếng cười trong hàng loạt tiểu thuyết xuất hiện từ sau 1986 như là một khuynh hướng chủ đạo. Vượt lên sự trang nghiêm của phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa và tư duy sử thi trước đó, tiểu thuyết Việt Nam ngày càng chủ ý dùng tiếng cười như một phương tiện hữu hiệu để nhận thức và phản ánh đời sống. Tiếng cười thường thể hiện tính cách của con người, thậm chí là phản ánh phẩm chất của một dân tộc. Nguyễn Tuân đã tìm ra hơn một trăm từ ngữ dùng để chỉ các dạng thái tiếng cười của người Việt. Khi so sánh về tính dân tộc của tiếng cười, Đỗ Lai Thúy cho rằng: “Khác với tiếng cười Trung Hoa, người Tàu dùng tiếng cười như công cụ để chuyển tải tư tưởng, từ Nho lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử đến A.Q chính truyện của Lỗ Tấn. Đó là tiếng cười thiên về châm biếm, đả kích một cách thâm nho, lộng óc. Còn tiếng cười Việt Nam thì xuất phát từ bụng (cười rung bụng) tưởng như vô nghĩa (vì ít dùng làm công cụ), mà thâm hậu” [171; 207]. Nhìn một cách khái quát, công cuộc đổi mới văn học đã làm thay đổi tư duy thể loại tiểu thuyết; quan niệm về hiện thực, v ề con ng ười và phương thức trần thuật là những vấn đề được bàn đến trong các bài viết, công trình nghiên cứu của Phong Lê, Trần Đình Sử, La Khắc Hòa, Nguyễn Văn Long, Lê Ngọc Trà, Hà Văn Đức, Nguyễn Thị Bình, Lưu Khánh Thơ, Mai Hương, Tôn Phương Lan, Bích Thu, Trần Đăng Suyền, Biện Minh Điền, Nguyễn Đăng Điệp, Lê Quang Hưng, Mai Hải Oanh... Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, sự xuất hiện trở lại của tiếng cười trong tiểu thuyết Vi ệt Nam đương đại là minh chứng cho sự đổi mới và phát triển của thể loại văn học này. ̉ Trong “Cam h ưng phê phan trong văn ch ́ ́ ương hiên nay ̣ ”, Huynh Nh ̀ ư Phương nhận xét về tiếng cười trong văn học: “Giống như trong câu chuyện cổ vềông vua có tai lừa, văn chương ta, nhiều năm qua, trongkhi viết về xã hội đương đại, đã cố gắng che nhau, các tác phẩm có tiếng vang đều bộc lộ
- 17 cảm hứng phê phán của nhà văn có một cái gì như là sự “phục thù” đối với quá khứ, một quá khứ thừa những bài tụng ca... ” [141; 2]. Trong “Văn học Việt Nam sau 1945 – nhìn từ các mục tiêu của công việc “Viết” (Nghiên cứu văn học, số 3/2005), Phong Lê khái quát đặc trưng thẩm mỹ nổi bật của văn học sau 1975 nói chung, văn xuôi nói riêng bằng mệnh đề: “Cái hài bên cái bi và một giai đoạn mới của văn học”. Tác giả khẳng định sự xuất hiện trở lại của tiếng cười đã mở ra một “giai đoạn mới” là từ nhu cầu cười, một nhu cầu tự nhiên của con người. Tiếng cười là một phần của cuộc sống, có quyền tồn tại và phát triển trong văn học: “Cái cười, nhu cầu cười, không chỉ cái cười nghiêm trang của sự đả kích mọi loại kẻ thù mà còn là cười vui, cười nghịch, cười chế giễu, cười trong hàng ngũ chúng ta, cười chính chúng ta, theo dạng truyện tiếu lâm, thơ Bút Tre, lúc nào cũng đòi quyền tồn tại, như là một lẽ tự nhiên, mà thiếu nó, cuộc sống không chỉ mất đi ý vị mà còn là không bình thường” [95; 88]. Theo ông, nhu cầu trở lại tự nhiên ấy đã diễn ra vào thập niên cuối của thế kỷ trước, tính từ 1986, nó đã xuất hiện trong tiểu thuyết của Đoàn Lê, Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Phạm Thị Hoài. Ông nhấn mạnh, cái hài và cái bi chính là một cặp tạo nên sự cân đối, hài hòa cho văn học, giúp cho văn học nói chung, tiểu thuyết nói riêng đi vào quỹ đạo để hòa nhập với khu vực và thế giới. Hoàng Ngọc Hiến khẳng định: “Hài hước là một tình cảm mỹ học có giá trị nhân bản và sức cảm hóa to lớn. Tình cảm hài hước chế giễu những gì đáng khinh ghét, đồng thời làm dịu đi những tình cảm khinh ghét”[63; 96]. La Khắc Hòa cho rằng, việc bút pháp trào lộng xuất hiện ngày càng nhiều trong tiểu thuyết đương đại như một sự cân bằng trạng thái trong văn học, nhằm phần nào giải tỏa áp lực của đời sống. Theo ông, “Văn học thời kỳ đổi mới không thể cất lên thành tiếng hát. Cái vô lý, phi lý, chất văn xuôi và vẻ đẹp cuộc sống phồn tạp chỉ có thể hóa thân vào tiếng cười trào tiếu, giễu nhại để văn học thế sự biến thành tiếng nói nghệ thuật” ( Văn học Việt Nam sau 1975 – Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy) [101; 66]. Ông nhận định, chưa bao giờ thơ trào tiếu, truyện cười giễu nhại dân gian lại xuất hiện
- 18 nhiều như những năm 1980 của thế kỷ trước, “hình như giễu nhại đã trở thành kiểu quan hệ đời sống mang phong cách thời đại” [101; 66]. Ông phát hiện ra tiếng cười trào tiếu, giễu nhại thấm đẫm cảm hứng trào lộng trong nhiều tiểu thuyết của Nguyễn Khắc Trường, Ma Văn Kháng, Nguyễn Quang Thân, Phạm Thị Hoài... Ông nhấn mạnh: “Sau 1975, văn học thế sự chuyển tiếng nói thành tiếng cười trào tiếu, giễu nhại. Tiếng cười giễu nhại, trào tiếu mở đường cho văn xuôi phát triển, tạo môi trường để văn xuôi nói to hơn thơ” [101; 69]. Trong “Chất hài hước, nghịch dị trong Mười lẻ một đêm” Hoài Nam nhận thấy, việc sáng tác tiểu thuyết bị đè xuống bởi sự đạo mạo, nghiêm trang thì không thể bật ra tiếng cười đúng nghĩa của nó: “Nếu tôi không nhầm thì kể từ khi Số đỏ của Vũ Trọng Phụng ra đời đến nay, văn xuôi nghệ thuật nói chung và tiểu thuyết Việt Nam nói riêng đã đánh mất (một cách rất đáng tiếc) tiếng cười hài hước. Suốt một thời gian dài các nhà văn Việt Nam ít cười và cũng ít muốn độc giả phải bật cười thông qua tác phẩm của mình. Chúng ta quá trang nghiêm, trang nghiêm tới mức coi sự cười cợt thoải mái là một trò lố, một sự vô bổ và thậm chí có hại” [215; 384]. Có thể thấy, tiếng cười trào lộng đã khai phá, mở đường cho văn xuôi Việt Nam phát triển. Với bài viết “Cười – chất lượng cao” (Văn nghệ Trẻ, sô 9/2007 ́ ), Vương ̀ khẳng định chức năng chính của tiếng cười là giúp vào việc nhận Tri Nhan ́ thức, khi nào nhân loại còn muốn và cần phát hiện lại đời sống, họ còn được cười. Tác giả cho rằng: “Những nhà văn viết hay là những người sắc sảo, câu chuyện của họ luôn mang đến tiếng cười. Khả năng hài hước thường là tỉ lệ thuận với tài năng văn học” [114; 7]. Trong “Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi sau 1975” (Văn học, số 3/2008), Nguyễn Thị Bình nhấn mạnh cảm hứng trào lộng trong văn xuôi sau 1975 gắn bó mật thiết với quan niệm đa chiều về cuộc sống và con người, một quan niệm ít tính lý tưởng nhưng chân thực và sâu sắc hơn. Nó là bằng chứng của tư duy văn học mang đậm tinh thần dân chủ của ý thức cá nhân được giải phóng, đã đóng góp cho truyền thống nhân văn của văn học dân tộc
- 19 nhiều vẻ đẹp mới. Tác giả nhận định: “Không có độc giả nào không nhận ra sự “phục sinh” của tiếng cười như một đổi thay quan trọng trong nội dung cảm hứng của văn xuôi giai đoạn này, nó mang đậm sắc thái dân chủ hóa và đem lại nhiều giá trị nhân văn quý giá, chi phối cả giọng điệu văn chương” [320; 39]. Theo tác giả, cảm hứng trào lộng gắn liền với sự phát hiện cái xấu, đây là phương diện thể hiện tích cực xã hội của văn xuôi nói chung, tiểu thuyết nói riêng. Trong “Vấn đề nhận thức và xử lý chất liệu hiện thực của tiểu thuyết Việt Nam đương đại”, Biện Minh Điền nhấn mạnh vấn đề nhận thức và xử lý chất liệu hiện thực bằng tiếng cười trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại: “Quan sát toàn bộ văn học Việt Nam, không khó để nhận thấy có hai thời kỳ cảm hứng trào phúng/ trào lộng phát triển mạnh trong văn học: 1, từ giữa thế kỷ XIX đến 1945; 2, từ 1986 đến nay. Đây là hai thời kỳ có lắm cái để cười nhất, kho cất giữ cái hài trong đời sống luôn luôn đầy ắp. Vấn đề là có người biết cười, thích cười và cười giỏi hay không mà thôi” [44; 5]. Luận án Yếu tố trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (2012) của Trần Thị Hạnh đã góp thêm một tiếng nói khẳng định về tiếng cười trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại bằng những khảo sát về yếu tố trào lộng và sự đổi mới văn học Việt Nam đương đại, yếu tố trào lộng và các chủ đề cơ bản của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, nghệ thuật biểu hiện yếu tố trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Qua nhiều khảo sát về tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tác giả nhận định: “Bằng việc tạo tiếng cười trong tiểu thuyết, các nhà văn đã làm nhuận sắc tiếng cười trong văn xuôi thời kỳ đổi mới, tiếp nối tiếng cười trong văn mạch truyền thống dân tộc… Tiểu thuyết dùng tiếng cười vạch ra những mâu thuẫn, những nghịch lý, phi lý, những lệch chuẩn đáng cười… Tiếng cười trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại mang ý nghĩa xã hội thẩm mỹ, thấm đẫm nhân bản, đưa văn học Việt Nam hòa nhập vào cộng đồng văn chương nhân loại” [60; 196]. Bên cạnh các nhà nghiên cứu, lý luận phê bình văn học, các nhà văn, nhà thơ tên tuổi cũng có những nhận xét xác đáng về tiếng cười trào lộng trong
- 20 tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Nguyễn Huy Thiệp nhận định: “Chỉ khi nào tố chất hài kịch xuất hiện ở trong tác phẩm của nhà văn lúc ấy mới biết chắc rằng nhà văn có thật nhà văn hay không... Cười được nghĩa là bay lên được trên các bi kịch, trên các thành kiến và nguyên tắc” [165; 91]. Ma Văn Kháng khái quát về tiếng cười trào lộng trong tiểu thuyết đương đại: “Chất trào phúng, giễu nhại cay chua mà tâm thiện” [78; 326]. v.v… Các bài viết, các công trình nghiên cứu trên đều khẳng định tiếng cười xuất hiện ngày càng nhiều trong tiểu thuyết đương đại, và đó là một phẩm chất quý của nền văn học hiện đại. Thời mở cửa, cuộc sống phơi bày tất cả những gì tạo nên khuôn mặt thật của nó, sự gia tăng tiếng cười trong tiểu thuyết là điều tất yếu và vô cùng cần thiết. Tiếng cười trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại đa dạng, phong phú, có khả năng cảnh bao và th ́ ức tỉnh người đọc. 1.1.2.2. Vấn đề nghiên cưu khuynh h ́ ương hiên th ́ ̣ ực – trao lông trong ̀ ̣ ̉ ̣ tiêu thuyêt Viêt Nam đ ́ ương đaị Cảm hứng trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986 gắn với sự đổi mới tư duy, quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người. Nhà văn chiếu vào cuộc sống và con người cái nhìn đời tư, thế sự, trên tinh thần dân chủ và sự tôn trọng ý thức cá nhân. Việc sử dụng phổ biến bút pháp trào lộng là biểu hiện rõ nét quan niệm về bản chất dân chủ của thể loại, cái hài được thể hiện đậm nét qua các phương diện, các yếu tố cấu thành tác phẩm. Giới nghiên cứu, phê bình cũng như sáng tác đã có những nhận xét xác đáng về không ít tác phẩm viết theo khuynh hương hiên th ́ ̣ ực – trao lông trong tiêu ̀ ̣ ̉ ̣ thuyêt Viêt Nam đ ́ ương đai. ̣ Thời xa vắng (1986) của Lê Lựu tuy không thuộc khuynh hướng hiện thực – trào lộng nhưng rất đáng được xem là cuốn tiểu thuyết đã “chuyển hướng rõ rệt trong phong cách nghệ thuật. Do cách nhìn hiện thực mới, sâu sắc và nhuần nhị hơn, đã đem lại cảm hứng mới, giọng điệu mới cho tác giả” (Nguyễn Văn Lưu) [197; 104]. Thời xa vắng là “một tiểu thuyết giễu nhại độc đáo. Nó không cần sử dụng những thủ pháp lạ hóa quen thuộc như
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với thành ngữ tiếng Anh)
322 p | 419 | 84
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Giao thoa nghệ thuật giữa hai khuynh hướng văn xuôi lãng mạn và văn xuôi hiện thực thời kì 1932 - 1945
217 p | 364 | 81
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ngôn ngữ báo chí Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh
184 p | 277 | 47
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Đối chiếu cấu trúc – ngữ nghĩa tục ngữ tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt
237 p | 188 | 33
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: So sánh truyện cổ tích thần kỳ người Khmer Nam Bộ với truyện cổ tích thần kỳ người Việt (một số type và motif cơ bản)
169 p | 124 | 26
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay từ cách đọc chấn thương
164 p | 76 | 24
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Vị trí của Hồ Biểu Chánh trong văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900 - 1930)
232 p | 135 | 23
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: So sánh phương thích nối trong văn bản tiếng Việt và tiếng Anh
202 p | 115 | 22
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghiên cứu thơ đi sứ của Đoàn Nguyễn Thục và Đoàn Nguyễn Tuấn
90 p | 108 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Nho lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử
172 p | 133 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Cấu tạo và phương thức thể hiện tiếng cười của truyện cười hiện đại Việt Nam
179 p | 66 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Biểu tượng trong tiểu thuyết Haruki Murakami
32 p | 26 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Phản trinh thám trong bộ ba New York của Paul Auster
167 p | 108 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập
282 p | 32 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Mĩ cảm trong tiểu thuyết Haruki Murakami
237 p | 15 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Tư tưởng thị tài trong thơ trung đại Việt Nam
490 p | 12 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Tiểu thuyết William Faulkner từ góc nhìn nhân học văn hóa
27 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay từ cách đọc chấn thương
27 p | 20 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn