Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Vấn đề tình yêu - hôn nhân - gia đình trong truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại
lượt xem 7
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài "Vấn đề tình yêu - hôn nhân - gia đình trong truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại" nhằm xác định đây là một vấn đề mang ý nghĩa xã hội - thẩm mỹ sâu sắc, rộng lớn của văn học Việt Nam đương đại được nhìn qua con mắt của các nhà văn nữ, qua một thể loại văn xuôi mang tính cập nhật và gần gũi nhất với đông đảo công chúng độc - giả: truyện ngắn. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Vấn đề tình yêu - hôn nhân - gia đình trong truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRẦN THỊ HỒNG NHUNG VẤN ĐỀ TÌNH YÊU - HÔN NHÂN - GIA ĐÌNH TRONG TRUYỆN NGẮN CÁC NHÀ VĂN NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN NGHỆ AN, 2022
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRẦN THỊ HỒNG NHUNG VẤN ĐỀ TÌNH YÊU - HÔN NHÂN - GIA ĐÌNH TRONG TRUYỆN NGẮN CÁC NHÀ VĂN NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 9220121 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Biện Minh Điền NGHỆ AN, 2022
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Biện Minh Điền. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác. Tác giả luận án
- 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................3 1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................3 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................5 4. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................6 5. Đóng góp mới của luận án ......................................................................................7 6. Cấu trúc của luận án ................................................................................................8 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI............................................................................................9 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ......................................................................9 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước...................................................................9 1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ................................................................22 1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài ................................................................................27 1.2.1. Về vấn đề tình yêu - hôn nhân - gia đình trong đời sống xã hội và trong văn học .............................................................................................................................27 1.2.2. Về thể loại truyện ngắn và chủ thể sáng tác là các nhà văn nữ .......................33 Chương 2: TRUYỆN NGẮN VÀ THIÊN HƯỚNG LỰA CHỌN VẤN ĐỀ TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI ..................................................................39 2.1. Sự phát triển mạnh mẽ của truyện ngắn các nhà văn nữ ............................39 2.1.1. Tiền đề cho sự phát triển truyện ngắn các nhà văn nữ ....................................39 2.1.2. Vị thế tác giả và truyện ngắn của các nhà văn nữ ...........................................49 2.2. Thiên hướng lựa chọn vấn đề tình yêu – hôn nhân – gia đình của truyện ngắn các nhà văn nữ ...............................................................................................58 2.2.1. Tình yêu - hôn nhân - gia đình là đối tượng chính của sự chiếm lĩnh nghệ thuật trong truyện ngắn các nhà văn nữ ....................................................................58 2.2.2. Tình yêu - hôn nhân - gia đình, vấn đề lớn, xuyên suốt truyện ngắn của các nhà văn nữ .................................................................................................................62 Chương 3: NHẬN THỨC MỚI VỀ TÌNH YÊU - HÔN NHÂN - GIA ĐÌNH TRONG TRUYỆN NGẮN CÁC NHÀ VĂN NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI ...67 3.1. Nhận thức mới về vai trò các thành tố và quan hệ giữa các thành tố tình yêu - hôn nhân - gia đình .......................................................................................67 3.1.1. Về vai trò các thành tố tình yêu, hôn nhân, gia đình trong cấu trúc câu chuyện hạnh phúc của con người thời đương đại ..................................................................67
- 2 3.1.2. Về mối quan hệ giữa các thành tố tình yêu - hôn nhân - gia đình trong trong cấu trúc câu chuyện hạnh phúc thời đương đại .........................................................71 3.1.3. Về những hạnh phúc và bi kịch trong câu chuyện tình yêu - hôn nhân - gia đình ............................................................................................................................75 3.2. Vấn đề bản năng tính dục trong câu chuyện tình yêu - hôn nhân - gia đình thời đương đại..........................................................................................................82 3.2.1. Bản năng tính dục với vẻ đẹp phồn thực và khát khao cháy bỏng của giới nữ trên con đường tìm kiếm tình yêu, hạnh phúc ..........................................................82 3.2.2. Vấn đề hạnh phúc và bi kịch từ khát khao giải phóng bản năng tính dục trong câu chuyện tình yêu – hôn nhân – gia đình ...............................................................88 3.3. Vấn đề bình đẳng giới và vai trò của giới nam, giới nữ trong câu chuyện tình yêu - hôn nhân - gia đình thời đương đại ......................................................93 3.3.1. Về vấn đề bình đẳng giới ................................................................................93 3.3.2. Giới nữ và vấn đề bình đẳng giới trong câu chuyện tình yêu - hôn nhân - gia đình ............................................................................................................................95 3.3.3. Giới nam và vấn đề bình đẳng giới trong câu chuyện tình yêu - hôn nhân - gia đình ..........................................................................................................................100 Chương 4: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TÌNH YÊU - HÔN NHÂN - GIA ĐÌNH TRONG TRUYỆN NGẮN CÁC NHÀ VĂN NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI 105 4.1. Nghệ thuật tạo dựng tình huống và xung đột truyện..................................105 4.1.1. Kiểu tình huống và nghệ thuật tạo dựng tình huống truyện..........................105 4.1.2. Kiểu xung đột và nghệ thuật tạo dựng xung đột ...........................................110 4.2. Nghệ thuật tạo dựng và tổ chức cốt truyện .................................................117 4.2.1. Loại truyện có cốt truyện và cách tổ chức cốt truyện ...................................117 4.2.2. Loại truyện có cốt truyện mờ hoặc bị phân rã và cách cấu trúc ...................120 4.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ......................................................................124 4.3.1. Nhìn chung về thế giới nhân vật trong truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại ........................................................................................................124 4.3.2. Nhân vật nữ và nghệ thuật xây dựng của truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại ........................................................................................................128 4.4. Nghệ thuật tổ chức giọng điệu và ngôn ngữ ................................................132 4.4.1. Nghệ thuật tổ chức giọng điệu ......................................................................132 4.4.2. Nghệ thuật sử dụng và tổ chức ngôn ngữ .....................................................140 KẾT LUẬN ............................................................................................................148 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................152
- 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Sau 1975, đặc biệt từ sau 1986, văn học Việt Nam bước vào chặng đường của thời kỳ đổi mới và hội nhập với những nỗ lực cách tân mạnh mẽ trên nhiều phương diện. Trong bước chuyển nhanh chóng ấy, truyện ngắn với ưu thế đặc biệt của thể loại đã đóng vai trò then chốt, cùng với tiểu thuyết tạo dựng trụ cột của nền văn học đương đại Việt Nam. Trong dòng chảy bộn bề của đổi mới, truyện ngắn nữ đã nổi lên như một hiện tượng văn hóa, xã hội và thẩm mỹ độc đáo. Sự lớn mạnh về lực lượng, sự quyết liệt, bản lĩnh trong sáng tạo, các cây bút truyện ngắn nữ đã khẳng định được tiếng nói và vị thế quan trọng, khó có thể thay thế trong văn học đương đại. Sự độc đáo và đóng góp của truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại không chỉ thể hiện ở số lượng tác giả, tác phẩm, sự chú ý, đón đợi nồng nhiệt của độc giả mà còn ở chiều sâu thể hiện sự trỗi dậy của một thực thể văn hóa nữ. Nghiên cứu về những tìm tòi, thể nghiệm cách tân cả về nội dung tư tưởng, hình thức biểu đạt của truyện ngắn nữ từ sau 1975 tuy đã được đặt ra, nhất là trong bối cảnh các lý thuyết mới được dịch và giới thiệu, nhưng chỉ là những bước khởi động, chưa thực sự tương xứng với tầm vóc và vai trò của đối tượng. Có thể nói, truyện ngắn Việt Nam đương đại nói chung, truyện ngắn nữ nói riêng vẫn đang là đối tượng cần được tiếp tục nghiên cứu trên nhiều phương diện. 1.2. Tình yêu - hôn nhân - gia đình là vấn đề có ý nghĩa lớn đối với đời sống cá nhân mỗi con người, đồng thời có ý nghĩa văn hóa quan trọng đối với sự phát triển của mỗi cộng đồng xã hội, dân tộc. Với ý nghĩa xã hội quan trọng như thế, các thành tố tình yêu - hôn nhân - gia đình và mối quan hệ giữa các thành tố đó đã trở thành đối tượng, chủ đề, thành nguồn cảm hứng lớn của văn học nhân loại nói chung, văn học Việt Nam nói riêng. Trong lịch sử vận động, phát triển của văn học, ở từng giai đoạn, văn học viết về vấn đề tình yêu - hôn nhân - gia đình mang những diện mạo và đặc điểm khác nhau. Dưới thời phong kiến, văn học trung đại chủ yếu với quan điểm “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí”, nhận thức vấn đề này không được thường trực và trong thể hiện không tránh khỏi những hạn chế do ràng buộc của chủ nghĩa quy phạm. Văn học dân gian do đặc thù của loại hình folklore dường như chỉ là nơi bộc lộ những khát vọng về hạnh phúc lứa đôi, về cuộc sống hôn nhân, gia đình hạnh phúc. Đầu thế kỷ XX, trong cơn “mưa Âu gió Mỹ”, sự phát triển của yếu
- 4 tố thị thành cùng những đòi hỏi giải phóng cá nhân, câu chuyện tình yêu - hôn nhân - gia đình gắn liền với hạnh phúc con người đã được văn học quan tâm khai phá, ghi dấu những bước đột phá quan trọng. Thế nhưng hành trình ấy đã không thể liền mạch khi văn học “bẻ lái” cùng dân tộc đi vào hai cuộc kháng chiến vĩ đại để bảo vệ giang sơn, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong bầu khí quyển sử thi, vấn đề tình yêu - hôn nhân - gia đình tuy vẫn là đối tượng sáng tạo quan trọng nhưng chịu sự chi phối mạnh mẽ từ trường lực của những vấn đề mang tầm vóc cộng đồng, bởi vậy mà có nhiều thiết hụt. Sau 1975, trong dòng chủ âm của thể tài thế sự, đời tư, vấn đề này thu hút sự thể nghiệm sáng tạo của rất nhiều tác giả. Đó thực sự là cuộc khai thông và tiếp nối dòng chảy dở dang của văn học đầu thế kỷ trước, đồng thời có những bước phát triển mạnh mẽ. Trong xu thế vận động tất yếu đó, các cây bút truyện ngắn nữ với tất cả những ưu thế trong trải nghiệm giới đã nhanh chóng thể hiện sức mạnh và vị thế diễn ngôn về vấn đề tình yêu - hôn nhân - gia đình. Từ vấn đề tưởng chừng như quen thuộc ấy, các cây bút nữ đã đạt được những thành quả sáng tạo to lớn, quan trọng. Có thể nói, chính vấn đề độc đáo này đã định hình bản sắc trong truyện ngắn nữ. Nghiên cứu vấn đề tình yêu - hôn nhân - gia đình trong truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại là là vấn đề quan trọng, cho phép nhận diện, đánh giá sự thành công và cả những giới hạn của đối tượng độc đáo này. 1.3. Truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975 nói chung, truyện ngắn các nhà văn nữ nói riêng là những đối tượng nghiên cứu, giảng dạy quan trọng trong nhà trường từ bậc học phổ thông đến bậc đại học và sau đại học. Việc tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề tình yêu - hôn nhân - gia đình trong truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại sẽ góp phần bổ sung tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và dạy – học nhiều nội dung có ý nghĩa thiết thực trên nhiều phương diện (văn hóa, xã hội, thẩm mỹ) trong nhà trường. Xuất phát từ những lý do lý luận và thực tiễn như trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu Vấn đề tình yêu - hôn nhân - gia đình trong truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là Vấn đề tình yêu - hôn nhân - gia đình trong truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại.
- 5 2.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài bao quát vấn đề tình yêu – hôn nhân – gia đình trong truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại. Khái niệm đương đại được dùng ở đây chỉ khoảng thời gian từ 1975 đến nay. Theo đó, truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại là truyện ngắn của các nhà văn nữ được công bố, xuất bản từ 1975 đến 2020 – một khối lượng tác phẩm không hề nhỏ và không phải không bề bộn, phức tạp, không phải tất cả đều có giá trị nghệ thuật. Chính vì vậy, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát, phân tích những tác phẩm thực sự có giá trị nghệ thuật đồng thời cũng là những tác phẩm được dư luận chú ý. Luận án tập trung khảo sát truyện ngắn của các tác giả nữ tiêu biểu: Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Võ Thị Hảo, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Lê Minh Khuê, Trần Thùy Mai, Dạ Ngân, Nguyễn Ngọc Tư,.... Một số tuyển tập truyện ngắn của các tác giả nữ khác ở trong nước và hải ngoại xuất bản trong khoảng thời gian nói trên dĩ nhiên cũng được luận án chú ý. Trong quá trình triển khai thực thi đề tài, khi cần thiết, luận án cũng tập trung phân tích, so sánh với một số tác phẩm của các tác giả nam đương đại và các tác giả nữ trong giai đoạn trước năm 1975 (Danh mục các tác phẩm được khảo sát, luận án trình bày ở phần Tài liệu tham khảo). Về tài liệu mang tính lý luận/ lý thuyết, một số tài liệu liên quan đến việc thực hiện đề tài, luận án cũng bao quát và vận dụng tùy theo yêu cầu khoa học của các vấn đề cụ thể (xin xem ở mục cơ sở lý thuyết của đề tài). 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Qua khảo sát, phân tích, luận giải vấn đề tình yêu – hôn nhân – gia đình trong truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại (từ sau 1975 đến nay), luận án nhằm xác định đây là một vấn đề mang ý nghĩa xã hội – thẩm mỹ sâu sắc, rộng lớn của văn học Việt Nam đương đại được nhìn qua con mắt của các nhà văn nữ, qua một thể loại văn xuôi mang tính cập nhật và gần gũi nhất với đông đảo công chúng độc giả: truyện ngắn. Cũng qua đây, luận án nhằm đánh giá những thành công, đóng góp và cả những hạn chế, khiếm khuyết trong nhận thức vấn đề tình yêu – hôn nhân – gia đình của truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại.
- 6 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.2.1. Tổng hợp, hệ thống hóa, phân tích, đánh giá tình hình nghiên cứu vấn đề tình yêu - hôn nhân - gia đình trong truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại, trên cơ sở đó thiết lập hướng nghiên cứu và xây dựng cơ sở lý thyết cho đề tài. 3.2.2. Đưa ra cái nhìn chung về truyện ngắn và thiên hướng lựa chọn nghệ thuật đối với vấn đề tình yêu - hôn nhân - gia đình của các nhà văn nữ trong văn học Việt Nam đương đại. 3.2.3. Khảo sát, chỉ ra, phân tích, luận giải những nội dung mới trong nhận thức về tình yêu – hôn nhân – gia đình của truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại. 3.2.4. Khảo sát, chỉ ra, phân tích, luận giải nghệ thuật thể hiện tình yêu – hôn nhân – gia đình của truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại. Cuối cùng, rút ra một số kết luận về đặc điểm, về những thành công và hạn chế của truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại trong nhận thức và thể hiện vấn đề tình yêu – hôn nhân – gia đình. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Vận dụng, phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau Để tiếp cận và giải quyết vấn đề nghiên cứu, tác giả luận án sử dụng nhiề u phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó chủ yếu là các phương pháp: phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích – tổ ng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp liên ngành, phương pháp loại hình, phương pháp tiếp cận theo lý thuyết thi pháp học, phương pháp cấ u trúc – hê ̣ thố ng,... 4.2. Vai trò của các phương pháp được sử dụng trong luận án Phương pháp lịch sử giúp cho việc nhìn nhận, xác định diễn trình của truyện ngắn Việt Nam đương đại nói chung, truyện ngắn các nhà văn nữ nói riêng, tái diễn những nét chính của bối cảnh lịch sử – văn hóa – xã hội có ảnh hưởng, tác động đến truyện ngắn các nhà văn nữ trong nhận thức vấn đề tình yêu – hôn nhân – gia đình. Phương pháp phân tích – tổ ng hợp giúp cho việc phân tích và tổng hợp các vấn đề, các nội dung được khảo sát theo định hướng của luận án. Phương pháp so sánh được dùng giúp cho việc làm rõ đặc trưng của đối tượng trong tương quan với truyện ngắn của các tác giả nam cùng thời và truyện ngắn nữ các giai đoạn trước viết về vấn đề tình yêu - hôn nhân - gia đình. Phương pháp liên ngành giúp cho việc huy động tri thức của một số ngành
- 7 khác như văn hóa học, triết học, xã hội học, tâm lý học, ngôn ngữ học... nhằm nhận diện, cắt nghĩa các vấn đề được khảo sát, tìm hiểu trong luận án. Phương pháp loại hình chú ý đến quan hệ cộng đồng giá trị, giúp cho việc xem xét truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại viết về tình yêu – hôn nhân – gia đình như một loại hình hình với những đặc trưng thẩm mỹ riêng. Phương pháp tiếp cận theo lý thuyết thi pháp học giúp cho việc nhận diện, cắt nghĩa vấn đề tình yêu – hôn nhân – gia đình qua cảm nhận, quan niệm và cách triển khai thể hiện của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại. Phương pháp cấ u trúc – hê ̣ thố ng chú ý đến các mối quan hệ của đối tượng nghiên cứu, được vận dụng trong luận án ở cả cấp độ vĩ mô và vi mô, giúp cho việc nhận thức những biểu hiện đa dạng và thống nhất của truyện ngắn các nhà văn nữ, giúp cho việc nhìn nhận truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại viết về tình yêu – hôn nhân – gia đình trong một hệ thống chỉnh thể với những đặc điểm mang tính quy luật... 5. Đóng góp mới của luận án Luâ ̣n án là công trình nghiên cứu vấn đề tình yêu – hôn nhân – gia đình trong truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại với một cái nhìn vừa bao quát nhiều phương diện khác nhau, vừa mang tính tập trung và hệ thống. Luận án là một sự nỗ lực khảo sát, phân tích và luận giải, chứng minh tình yêu – hôn nhân – gia đình là vấn đề cốt lõi tạo nên tiếng nói, bản sắc và những đóng góp của truyện ngắn các nhà văn nữ cho văn học dân tộc trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế với nhiều thử thách đặt ra, đặc biệt ở đây là thử thách cho người cầm bút. Luận án vận dụng một số lý thuyết và phương pháp nghiên cứu khác nhau làm rõ vấn đề tình yêu - hôn nhân - gia đình trong truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại với tư cách là một thực thể văn hóa - thẩm mỹ độc đáo cũng chính là đã góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận văn học cụ thể khi vận dụng vào nghiên cứu thực tiễn văn học. Kế t quả nghiên cứu của luâ ̣n án hy vo ̣ng sẽ là tài liê ̣u tham khảo hữu ích cho viê ̣c tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề tình yêu – hôn nhân – gia đình trong truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại nói riêng, trong văn học Việt Nam đương đại nói chung.
- 8 Kết quả nghiên cứu của luận án một mặt góp phần vào thành quả nghiên cứu nói chung, mặt khác góp phần phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập và giảng dạy bộ môn lí thuyết và lịch sử văn học, văn học Việt Nam hiện đại ở các cấp học trong nhà trường. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài Chương 2: Truyện ngắn và thiên hướng lựa chọn vấn đề tình yêu – hôn nhân – gia đình của các nhà văn nữ trong văn học Việt Nam đương đại Chương 3: Nhận thức mới về tình yêu - hôn nhân - gia đình của truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại Chương 4: Nghệ thuật thể hiện tình yêu - hôn nhân - gia đình của truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại
- 9 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước 1.1.1.1. Về nghiên cứu truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam sau 1975 Với những thành tựu đạt được, truyện ngắn Việt Nam từ sau năm 1975 đã trở thành đối tượng thu hút, quan tâm đáng kể của các nhà nghiên cứu, phê bình. Tuy nhiên, đối với truyện ngắn nữ, những công trình nghiên cứu hiện có còn khá hạn chế và chưa tương xứng với những đóng góp của đối tượng này trong bức tranh chung của truyện ngắn Việt Nam đương đại. Ngoài những đánh giá lồng ghép trong các công trình nghiên cứu về văn học, văn xuôi và truyện ngắn nói chung hay phê bình những tác giả, tác phẩm cụ thể, những nghiên cứu độc lập và chuyên sâu về truyện ngắn của các cây bút nữ chưa nhiều, chủ yếu ở mức độ các bài viết riêng lẻ đăng tải trên các báo, tạp chí. Trong phạm vi bao quát tư liệu của luận án, chúng tôi đề cập đến ba xu hướng nghiên cứu chính về truyện ngắn nữ Việt Nam từ sau 1975. Thứ nhất, các công trình đã tập trung tổng kết, đánh giá thành tựu và những đóng góp của các cây bút nữ ở thể loại truyện ngắn. Về cơ bản, các ý kiến đều thống nhất nhận định, truyện ngắn nữ từ sau năm 1975, đặc biệt là sau năm 1986 đã có những bước phát triển vượt trội, khẳng định vị trí vững chắc và có những đóng góp quan trọng tạo nên diện mạo truyện ngắn nói riêng, văn học Việt Nam đương đại nói chung. Bùi Việt Thắng là một trong những nhà nghiên cứu luôn quan tâm, dõi theo sự vận động và khẳng định những thành tựu của truyện ngắn nữ. Ngay từ năm 1993, trong bài viết “Khi người ta trẻ” (I) (“Tản mạn về truyện ngắn của những cây bút nữ trẻ”), ông đã thể hiện sự tri ân với sự xuất hiện của tác giả trẻ. Ông đã khẳng định sự xuất hiện và những đóng góp quan trọng của họ nhằm tạo nên diện mạo của thể loại độc đáo này: “Truyện ngắn hôm nay đang khởi sắc nhờ sự đóng góp không nhỏ của các cây bút nữ trẻ. Dung nhan của thể loại nhỏ đang lấp lánh những giọng điệu trẻ trung của Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Ấm, Y Ban, Nguyễn Minh Dậu và Phan Thị Vàng Anh” [148; 189]. Trong bài viết này, tác giả đã bày tỏ những băn khoăn, lo ngại nhất định đối với chặng đường tương lai của các cây bút
- 10 truyện ngắn trẻ. Thế nhưng, gần hai mươi năm sau, tại hội thảo khoa học, nhân việc ra mắt cuốn sách Phái đẹp – cuộc đời và cây bút, trong bài tham luận “Văn chương mang gương mặt nữ”, tác giả đã thể hiện niềm tin với thành tựu và sự khẳng định của các cây bút văn xuôi nữ. Nhận thấy thành tựu “muôn hoa đua sắc” của họ, tác giả đã nhiệt thành khẳng định “tương lai của văn chương nói chung, cũng chính là tương lai của văn chương nữ nói riêng” [150]. Bích Thu trong bài viết “Văn xuôi của phái đẹp” đã phân tích và chỉ ra những đổi mới cả về nội dung và hình thức nghệ thuật của văn xuôi nữ nói chung, truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại nói riêng. Với những nỗ lực, tìm tòi sáng tạo không mệt mỏi, các cây bút nữ đã khẳng định vị thế cân bằng với các tác giả nam trên hành trình cách tân thể loại: “Bằng những trang viết của mình, các chị đã góp phần nâng cao tính thẩm mỹ thể loại, đặc biệt vẫn giữ được “bình đẳng” với đồng nghiệp nam giới về hiệu quả và chất lượng nghệ thuật” [155; 112]. Tác giả đã nhấn mạnh, việc tạo ra hương sắc riêng, tiếng nói riêng đã mang lại những đóng góp quan trọng, tạo ra diện mạo phong phú và đa dạng của văn xuôi đương đại. Trong bài viết “Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại” (Trong cuốn “Văn học và nữ giới (Một số vấn đề lý luận và lịch sử)”, Nguyễn Đăng Điệp khẳng định: “Ở Việt Nam, văn học sau 1986 cũng chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của văn học nữ tính đến mức có người cho rằng đây là thời kỳ “âm thịnh dương suy” với sự góp mặt của những cây bút có thực tài như Phạm Thị Hoài, Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ,… và gần đây là Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư,… Những cây bút này đã đem đến cho văn đàn những tiếng nói mới mẻ, buộc các nhà văn và các nhà phê bình nam giới phải thừa nhận tài năng của họ”[47; 249]. Ở nhận định này, mặc dù khảo sát văn học nữ Việt Nam đương đại nhưng việc dẫn giải những tác giả tiêu biểu cũng cho thấy vị thế áp đảo tuyệt đối của thể loại truyện ngắn trong sáng tác của họ. Lê Thị Hường trong công trình Ba mươi năm truyện ngắn nữ trong xu thế hội nhập đã nhận định: “Cuối thế kỷ XX, truyện ngắn vươn thành thể loại chính cùng với sự xuất hiện ồ ạt của giới nữ đem lại sinh khí mới trong văn học. Bằng sự mẫn cảm của nữ giới, họ đã góp phần thể hiện đậm nét bề sâu của cuộc sống, con người trong giai đoạn mới. Có thể kể ra hàng loạt tên tuổi nổi bật Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phạm Sông Hồng, Võ Thị Hảo, Dạ Ngân, Y Ban, Nguyễn Thị Ấm,
- 11 Trần Thùy Mai, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư,… và rất nhiều tên tuổi khác” [76; 35]. Khi đánh giá vị trí của các cây bút nữ, tác giả bài viết cho rằng, mặc dù không thể phục dựng diện mạo thể loại truyện ngắn ở Việt Nam từ sau 1986 nếu chỉ nhìn từ thành tựu của nữ giới mà bỏ qua những trụ cột nam giới như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp,… Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, “sau 1986, chỉ riêng sự xuất hiện đột biến của nữ giới ở nhiều lĩnh vực đã chứng tỏ sự đổi thay trong đời sống văn học, trong quan niệm thể loại. Trong diễn trình cách tân thể loại, nhìn vào sự phát triển của sáng tác nữ có thể nhận ra diện mạo truyện ngắn ba mươi năm với những bước thăng trầm của nó” [76; 46 ]. Tiếp cận truyện ngắn nữ dưới góc độ các lý thuyết hiện đại, cả Đoàn Ánh Dương và Thái Phan Vàng Anh đều đánh giá cao sự xuất hiện và đánh giá cao đóng góp của đối tượng này trong bức tranh văn học đương đại Việt Nam. Đoàn Ánh Dương trong bài viết “Trải nghiệm về giới nữ sau đổi mới nhìn từ văn học nữ” cho rằng, bước ngoặt thực sự của văn học, của hình ảnh người phụ nữ trong văn học Việt Nam từ sau Đổi mới gắn bó sâu đậm đặc biệt với sự xuất hiện của những nữ nhà văn chuyên chú ở văn xuôi, nhất là truyện ngắn: “Bắt đầu bằng những cách tân trong thơ, rồi xen gài giữa truyện ngắn và tiểu thuyết, nhất là với truyện ngắn, văn học nữ dần định hình diện mạo từ sau Đổi mới. Nhìn văn học nữ từ bộ phận những truyện ngắn đặc sắc của các nhà văn nữ giai đoạn này, phần tinh túy làm nên bản lai diện mục, dễ thấy trong không khí đổi mới chung, truyện ngắn nữ đã có được sự bứt phá, làm nên một tư trào, vừa xác lập hình ảnh mới về phụ nữ, vừa đột kích vào những cách tân về nghệ thuật, làm nên một dấu ấn đáng kể trên tiến trình văn học Việt Nam hiện đại” [39; 97]. Thái Phan Vàng Anh trong bài viết “Văn xuôi các nhà văn nữ thế hệ sau năm 1975 nhìn từ diễn ngôn giới” đánh giá, văn xuôi nói chung, truyện ngắn nữ nói riêng đã không còn “đi bên lề” mà “dần sóng đôi” với các nhà văn nam giới, để cùng làm nên diện mạo nói chung của văn xuôi sau 1975. Tác giả khẳng định: “Ở đề tài nào, thể loại nào, các nhà văn nữ cũng tạo nên những dấu ấn nhất định, không chỉ bởi tài năng, bởi những nhọc nhằn nghiêm túc của nghiệp viết lách, mà còn bởi những đặc trưng giới tính đậm nhạt trong các trang văn” [125; 192]. Ngoài những ý kiến nổi bật trên đây, còn có thể kể đến các bài viết: “Những tác giả nữ trong nền văn xuôi cách mạng” in trong cuốn sách Truyện ngắn các tác giả nữ (tuyển chọn, 1945 - 1995) của Hà Minh Đức; “Văn xuôi của một số cây bút
- 12 nữ” của Vũ Đức Tân; “Phác thảo vài nét về diện mạo truyện ngắn đương đại và sự góp mặt của một số cây bút nữ” của Nguyễn Thị Thành Thắng; “Điểm qua về sự vận động của truyện ngắn các cây bút nữ” của Lê Hương Thủy; “Sức bật mới của những cây bút nữ” của Lê Viết Thọ; “Vũ điệu văn chương trẻ” của Phạm Xuân Nguyên; “Một góc nhìn về văn xuôi nữ” của Trần Thục; “Phụ nữ và văn chương” của Châm Khanh;… Những bài viết này đều gặp nhau ở sự tin tưởng, đánh giá cao những đóng góp của truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại như chúng tôi đã đề cập. Tuy nhiên, thảng hoặc đâu đó vẫn có nhận định hoài nghi khả năng và những đóng góp của họ. Tiêu biểu là nhận định của Nguyễn Thanh Sơn trong bài viết “Các nhà văn nữ và sự khủng hoảng trong văn học Việt Nam hiện đại”. Ở bài viết này, tác giả đã phân tích sự khám phá và biểu hiện những đề tài trọng tâm của văn xuôi nữ nói chung, đặc biệt là truyện ngắn, chỉ ra những hạn chế về tư tưởng, tri thức tình cảm để đi đến khẳng định: “Những nhà văn nữ đã mang lại gì cho công chúng? Các nhà phê bình đáng kính của chúng ta luôn luôn có sẵn câu trả lời muôn thuở cho câu hỏi ấy: họ đã mang đến một làn gió mới, một diện mạo mới, một phong cách mới cho văn học nước nhà. Rất nhiều cái mới. Họ đã lặp lại câu nói đó cả ngàn lần, thêm lần một ngàn lẻ một cũng không có gì khó khăn cả. Nhưng thật ra, những nhà văn nữ Việt Nam, theo tôi, có lẽ chẳng mang đến cái gì mới bởi còn lâu họ mới tự đổi mới được” [137]. Thời điểm công bố bài viết đã qua hơn hai mươi năm cũng là thời gian để các giá trị có thể bộc lộ, khẳng định và vượt qua những hoài nghi như thế. Tuy nhiên, việc có những ý kiến thiếu tin tưởng, thậm chí hoài nghi cũng phản ánh những khó khăn, thăng trầm trên hành trình khẳng định mình của những cây bút truyện ngắn nữ. Thứ hai, các nghiên cứu đã tập trung phân tích, khẳng định những đổi mới về tư duy thể loại và cách tân thi pháp của các cây bút truyện ngắn nữ. Trong các công trình nghiên cứu về truyện ngắn nói chung, truyện ngắn nữ từ sau 1975 nói riêng, dù hướng tiếp cận có khác nhau nhưng các tác giả đều đề cập và chỉ ra những nỗ lực cách tân thi pháp thể loại của các cây bút nữ. Tập trung và có hệ thống nhất đối với xu hướng này là các luận án tiến sĩ nghiên cứu về truyện ngắn và truyện ngắn nữ từ sau 1975. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu: Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1875 - 1995 (Luận án phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 1995) của Lê Thị Hường; Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (Nhìn từ góc độ thể loại) (Luận
- 13 án Tiến sĩ Văn học, Học viện Khoa học xã hội, 2013) của Lê Hương Thủy; Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – Nhìn từ góc độ thể loại (Luận án Tiến sĩ Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2015) của Nguyễn Thị Năm Hoàng; Truyện ngắn các nhà văn nữ đương đại – Tư duy nghệ thuật và đặc trưng thể loại (Luận án Tiến sĩ Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2015) của Phạm Thị Thanh Phượng; Truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay (Luận án Tiến sĩ Văn học, Học viện Khoa học xã hội, 2019) của Trần Thị Quỳnh Lê. Trong số các luận án kể trên, công trình của Lê Thị Hường, Lê Hương Thủy, Nguyễn Thị Năm Hoàng không trực tiếp và chuyên biệt bàn về các đặc trưng thi pháp truyện ngắn nữ. Tuy nhiên, trong cả ba công trình này, truyện ngắn nữ xuất hiện với vai trò là nguồn ngữ liệu quan trọng để các tác giả khái quát các luận điểm nghiên cứu. Bởi vậy, các phương diện cơ bản trong thi pháp truyện ngắn của các cây bút nữ từ sau 1975 đã được nhận diện và phân tích như kết cấu, cốt truyện, nhân vật, thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật, ngôn ngữ trần thuật,… Điều thú vị là trong các công trình này, không phải lúc nào các nhận định về truyện ngắn đương đại cũng ôm trùm hết bản sắc của các cây bút nữ. Bởi vậy, có những khi các tác giả đã dành những luận điểm riêng để nhận định, kiến giải về nỗ lực đổi mới của truyện ngắn nữ. Chẳng hạn, Lê Thị Hương Thủy trong luận án của mình đã cho rằng: “Cũng cần nói đến hiện tượng truyện ngắn của các cây bút nữ vào những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90. Đây được coi là thời kỳ thăng hoa của truyện ngắn nữ với sự gia tăng của các cây bút nữ, nhất là truyện ngắn có lối viết và giọng điệu khác nhau. Sự xuất hiện đông đảo của người viết nữ cùng với nỗ lực và ý thức cách tân lối viết đã đem đến cho người đọc những cảm quan mới mẻ” [162; 27-28]. Điều này cho thấy vị trí và vai trò quan trọng của truyện ngắn nữ trên hành trình cách tân lối viết thể loại này ở Việt Nam từ sau năm 1975. Luận án Truyện ngắn các nhà văn nữ đương đại – Tư duy nghệ thuật và đặc trưng thể loại của Phạm Thị Thanh Phượng là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về đặc trưng tư duy nghệ thuật và thi pháp thể loại của truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại. Với đối tượng nghiên cứu là truyện ngắn của các tác giả nữ Việt Nam đương đại từ 1986 đến nay, tác giả đã xem xét, kiến giải bối cảnh lịch sử, văn hóa, văn học thời kỳ đổi mới, trên cơ sở đó chỉ ra một cách tương đối thuyết phục chất “nữ tính” ở bề sâu tư duy nghệ thuật ở bốn phương diện cơ bản: hình tượng cuộc sống, thế giới nhân vật, thế giới biểu tượng và không gian, thời gian
- 14 nghệ thuật. Bên cạnh đó, luận án cũng tập trung phân tích các yếu tố nghệ thuật cơ bản tạo nên đặc trưng thể loại truyện ngắn trong truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại: người kể chuyện ngôi thứ nhất, nghệ thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật tổ chức cốt truyện, những sáng tạo về mặt kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu. Tác giả đi đến kết luận: “Tư duy nghệ thuật của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại là một tư duy đậm chất nữ tính, mềm mại như nước, luôn hướng về những giá trị nhân văn bền vững, luôn hướng về nhận thức thế giới tâm hồn đầy bí ẩn của con người. Vì thế nó tạo ra những “sản phẩm nghệ thuật” – những tác phẩm truyện ngắn luôn song hành cùng những chân giá trị, những Chân – Thiện – Mỹ của đời sống con người đương đại” [132; 148]. Luận án Tiến sĩ Truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay của Trần Thị Quỳnh Lê nghiên cứu sự vận động, phát triển của truyện ngắn nữ trong bối cảnh đổi mới và hội nhập của văn chương Việt Nam đương đại để thấy được sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của truyện ngắn nữ không chỉ là sự vận động tất yếu của đời sống văn học mà còn là quá trình cộng hưởng từ nhiều yếu tố lịch sử, xã hội, văn hóa và tư tưởng. Đồng thời, công trình cũng tập trung làm rõ đặc trưng của truyện ngắn nữ thông qua sự khác biệt trong việc xây dựng mô hình giao tiếp và các dạng thức biểu hiện của lối viết nữ để đem lại một cái nhìn tương đối toàn diện về đối tượng độc đáo này. Với hướng tiếp cận từ lý thuyết ký hiệu học, tác giả đã chỉ ra các mô hình giao tiếp đặc trưng: mô hình giao tiếp với tự nhiên; mô hình giao tiếp với cuộc sống và con người; mô hình giao tiếp với chính mình. Từ đó tác giả nhận thấy: “Những mô hình giao tiếp trong truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay đã thể hiện cách thức chiếm lĩnh đời sống của những cây bút nữ. Trong giao tiếp với thiên nhiên hay con người và cuộc đời, các nữ văn sĩ đều thể hiện sự độc đáo riêng của bản sắc nữ. Đó là cái nhìn được đặt trong trục quy chiếu về cuộc đời và thân phận nữ” [96; 107]. Bên cạnh đó, những yếu tố căn bản của dạng thái biểu hiện, bao gồm không gian và thời gian nghệ thuật; diễn ngôn mang đặc trưng giới cũng được đề cập và phân tích một cách tương đối thuyết phục. Thứ ba, các tác giả đã cố gắng kiến giải đặc trưng về tư duy nghệ thuật của giới nữ như một đóng góp độc đáo của họ cho bức tranh truyện ngắn Việt Nam đương đại. Với việc tiếp thu và vận dụng các lý thuyết hiện đại, đặc biệt là nữ quyền luận và phân tâm học trong nghiên cứu, phê bình văn học, truyện ngắn nữ đã được bàn thảo, nhận diện với những đặc trưng giới, mang lại những kiến giải tương đối
- 15 thuyết phục. Dưới giác độ này, những đặc trưng trong tư duy nghệ thuật, trong lối cảm, lối nghĩ, lối viết của các cây bút truyện ngắn nữ đã được khẳng định, mang lại sự phong phú sắc điệu cho bức tranh thể loại này ở Việt Nam. Trần Thiện Khanh trong bài viết “Kháng cự tình trạng mất tiếng nói: Tiếng nói như một thân phận và như một hành động” (Trong cuốn “Văn học và nữ giới (Một số vấn đề lý luận và lịch sử)” đã xem xét vấn đề tiếng nói của giới nữ trong văn học trải từ thời trung đại đến đương đại, từ đó có một số đánh giá đáng chú ý. Theo tác giả: “Nếu thế hệ nhà văn nữ trong ngữ cảnh văn hóa Nho giáo, xã hội phong kiến là thế hệ nhà văn tòng thuộc, bước sang thời kỳ hiện đại, trong ngữ cảnh đất nước có chiến tranh, là thế hệ giới nữ bị nam tính hóa, thì từ 1986 đến nay là thế hệ cởi trói, tự cởi trói khỏi các thiết chế nam quyền” [151; 185]. Trong nghiên cứu này, khi nhìn trong mạch nguồn vận động xuyên suốt, văn xuôi nữ nói chung, truyện ngắn nữ nói riêng đã bộc lộ tầm vóc văn hóa đáng chú ý, là sự gợi mở cho nhiều nghiên cứu tiếp sau. Trong bài viết “Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại” mà chúng tôi đã đề cập ở trên, Nguyễn Đăng Điệp đã khảo sát chủ yếu các sáng tác của các cây bút nữ, đồng thời khẳng định sự hiện diện qua bốn phương diện cơ bản: 1) Ngôn ngữ trong tác phẩm của các cây bút nữ quyết liệt, mạnh mẽ không kém gì nam giới, thậm chí, nhiều cây bút có ý thức gây hấn và gây shock bằng sức mạnh của ngôn từ; 2) Không ít cây bút nữ công khai xét lại lịch sử và các điển phạm nghệ thuật bằng cái nhìn riêng của cá nhân và giới nữ mà không ngán/ ngại vấp phải sự phản ứng của người đọc; 3) Công khai bày tỏ thái độ chống lại sự lệ thuộc vào thế giới đàn ông và dám xông vào các đề tài cấm kỵ một cách tự do, nhất là đề tài tình dục; 4) Tuy quyết liệt, mạnh mẽ nhưng hơi ấm nữ tính trong nhiều trường hợp vẫn được “bảo lưu một cách vô thức” đã tạo ra hương vị riêng cho tác phẩm của các nhà văn nữ [47; 295-296]. Cũng trong bài viết này, tác giả đã chỉ ra dấu ấn nam quyền đã ngự trị, chi phối nhiều mặt với những biểu hiện cụ thể ở nhiều quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. Sự chuyển dịch tư tưởng từ trong đời sống văn hóa, xã hội đến sáng tạo văn chương, đặc biệt từ sau năm 1986 đã cho thấy: “Sự hiện diện của văn học nữ tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam có thể coi là một bước phát triển thực sự của văn học theo hướng dân chủ hóa” [47; 297]. Nguyễn Thị Bình trong bài viết “Ý thức phái tính trong văn xuôi nữ đương đại” đã điểm lại các tuyên ngôn về sự viết của các tác giả truyện ngắn nữ nổi bật như Phạm Thị Hoài, Y Ban, Trần Thùy Mai, Võ Thị Xuân Hà,… đi đến khẳng định:
- 16 “Người phụ nữ hiện đại chọn viết văn “để được sống một cuộc sống khác” và họ đã viết bằng thái độ kiêu hãnh tự tin khác hẳn, họ không ao ước “đổi phận làm trai” mà chủ động xác lập quyền bình đẳng ở nơi cá tính trở thành giá trị. Dùng văn chương, họ tấn công vào những quan niệm đầy màu sắc “nam quyền”, tố cáo tình trạng bị nhào nặn thành phụ nữ theo những tín điều người khác giới áp đặt cho mình” [23; 300]. Trên cơ sở đó, tác giả tiếp tục phân tích những kiểu nhân vật và ngôn ngữ biểu đạt in đậm ý thức phái tính để đi đến kết luận, rằng họ đều gặp nhau “ở nhu cầu khẳng định “cái tôi nữ tính” với ý thức chống lại kiểu người phụ nữ bị động trước số phận, chịu khuôn mình trong quan niệm mà ai cũng biết được thiết lập bởi nam quyền. Khát vọng sáng tạo văn chương ở họ đồng thời cũng là khát vọng đập vỡ những khuôn phép, những định kiến trói buộc nữ giới bao đời nay” [23; 302]. Thái Phan Vàng Anh trong bài viết “Văn xuôi các nhà văn nữ thế hệ sau 1975 nhìn từ diễn ngôn giới” đã khẳng định: “Ở Việt Nam, các nhà văn nữ, đặc biệt là thế hệ sau 1975, cũng là những người đưa ý thức giới từ đời sống vào văn học, và ngược lại, bằng văn học, nâng cao những nhận thức về giới”...; “Đa dạng về phong cách, thể loại, những người đàn bà viết thế hệ sau 1975 đã đi từ những diễn ngôn cá nhân đến những diễn ngôn của giới, biến những ý thức về giới trong xã hội thành những “tuyên bố” của giới nữ thông qua những câu chuyện trải nghiệm giới tính trong văn chương” [125; 194-195]. Từ việc phân tích các cứ liệu văn xuôi sau 1975, đặc biệt là truyện ngắn nữ, tác giả đi đến nhận định, chính việc viết để khẳng định nhân vị giới, khẳng định bản ngã đã tạo thành bản sắc và những đóng góp của họ. Đồng quan điểm này, Đoàn Ánh Dương cũng khẳng định chính màu sắc nữ tính và nữ quyền làm nên sức hấp dẫn và đóng góp của truyện ngắn nữ từ sau 1975. Tác giả cho rằng: “Sự xen cài giữa màu sắc nữ quyền và nữ tính trong sáng tác của thế hệ các nhà văn nữ này, làm nên sức hấp dẫn riêng có của nó, mời gọi tiếp nhận nhưng đồng thời thách thức các nỗ lực diễn giải” [39; 101]. Ở hướng nghiên cứu này, ngoài những công trình trên, còn có thể kể đến một số bài viết đáng chú ý, như: “Ý thức nữ quyền và sự phát triển bước đầu của văn học nữ Nam Bộ trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc đầu thế kỷ XX”; “Ý thức về địa vị “giới thứ hai” trong một số sáng tác văn xuôi của tác giả nữ Việt Nam và Trung Quốc từ năm 1980 đến nay”; “Tự thuật tính dục – một lối viết nữ trong văn xuôi Việt Nam từ năm 1990 đến nay” của Hồ Khánh Vân; “Quan niệm về thân thể người nữ trong văn học Việt Nam – một cái nhìn phác thảo” của Mai Hồng
- 17 Tuyết và Hoàng Thị Duyên; “Dấu hiệu nữ quyền trong văn học nữ đương đại” của Bùi Thị Thủy; “Xét lại” thế giới đàn ông bằng cái nhìn đàn bà – một trong những biểu hiện của âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi nữ Việt Nam những năm gần đây” của Nguyễn Thị Thanh Xuân; “Phức cảm tình yêu trong một số truyện ngắn của các nhà văn nữ đương đại” của Nguyễn Trọng Hiếu; “Hướng tiếp cận phân tâm học trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975”; “Tình yêu trong truyện ngắn hiện đại Việt Nam từ các phức cảm” của Hồ Thế Hà;… Đặc biệt, trong hướng nghiên cứu này còn phải kể đến hai công trình tương đối hệ thống: Truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại từ góc nhìn phân tâm học (Luận án Tiến sĩ Văn học, Học viện Khoa học Xã hội, 2017) của Nguyễn Trọng Hiếu; Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại (Qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu) (Luận án Tiến sĩ Văn học, Học viện Khoa học Xã hội, 2013); Tinh thần nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam sau 1986 (Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2015). Những công trình nghiên cứu kể trên đã cùng lúc mang đến hai đóng góp đáng kể: 1) chỉ ra những đặc trưng trong tư duy nghệ thuật của văn xuôi nữ nói chung, truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại nói riêng; 2) thể nghiệm và ứng dụng tương đối thành công các lý thuyết văn học hiện đại phương Tây trong nghiên cứu đối tượng có tính chất đặc thù, mở ra những vấn đề quan trọng cần tiếp tục khai thác. Ngoài ba xu hướng chính trên đây, những nghiên cứu về các trường hợp cụ thể đối với các tác giả nữ cũng đã mang lại những giá trị nhất định. Đặc sắc truyện ngắn của từng cây bút nữ đã trở thành đối tượng của những bài phê bình, các nghiên cứu ở phạm vi Luận văn Thạc sĩ hoặc Khóa luận tốt nghiệp Đại học. Điểm nổi bật của những tiểu luận này là đã tập trung chỉ ra những đặc sắc độc đáo và đóng góp của từng cây bút nữ tiêu biểu như Võ Thị Hảo, Lê Minh Khuê, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Trần Thùy Mai, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Thị Thu Huệ,… trong những nỗ lực tìm tòi, cách tân tư duy nghệ thuật và thi pháp thể loại. Phù hợp với đối tượng và phạm vi nghiên cứu, chúng tôi không đặt mục tiêu tổng thuật tất cả các công trình, bài viết này mà sẽ đề cập, kiến giải đối với nội dung có liên quan ở các chương sau của luận án. 1.1.1.2. Về nghiên cứu vấn đề tình yêu - hôn nhân - gia đình trong truyện ngắn nữ Việt Nam sau 1975
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với thành ngữ tiếng Anh)
322 p | 421 | 84
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Giao thoa nghệ thuật giữa hai khuynh hướng văn xuôi lãng mạn và văn xuôi hiện thực thời kì 1932 - 1945
217 p | 375 | 81
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ngôn ngữ báo chí Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh
184 p | 279 | 48
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Đối chiếu cấu trúc – ngữ nghĩa tục ngữ tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt
237 p | 195 | 33
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: So sánh truyện cổ tích thần kỳ người Khmer Nam Bộ với truyện cổ tích thần kỳ người Việt (một số type và motif cơ bản)
169 p | 129 | 28
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Phạm trù nội động/ngoại động trong tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
186 p | 138 | 25
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay từ cách đọc chấn thương
164 p | 87 | 24
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Vị trí của Hồ Biểu Chánh trong văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900 - 1930)
232 p | 135 | 23
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: So sánh phương thích nối trong văn bản tiếng Việt và tiếng Anh
202 p | 115 | 22
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghiên cứu thơ đi sứ của Đoàn Nguyễn Thục và Đoàn Nguyễn Tuấn
90 p | 109 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Nho lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử
172 p | 136 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Cấu tạo và phương thức thể hiện tiếng cười của truyện cười hiện đại Việt Nam
179 p | 97 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Biểu tượng trong tiểu thuyết Haruki Murakami
32 p | 28 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Phản trinh thám trong bộ ba New York của Paul Auster
167 p | 109 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập
282 p | 40 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Tiểu thuyết William Faulkner từ góc nhìn nhân học văn hóa
27 p | 20 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay từ cách đọc chấn thương
27 p | 26 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: So sánh truyện cổ tích thần kỳ người Khmer Nam Bộ với truyện cổ tích thần kỳ người Việt (một số type và motif cơ bản)
55 p | 41 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn