intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Quản lý công: Thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập ở Việt Nam

Chia sẻ: ViJenlice ViJenlice | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:270

27
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập ở Việt Nam; Những vấn đề lý luận trong thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập ở Việt Nam; Thực tiễn thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập ở Việt Nam; Giải pháp bảo đảm thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập ở Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Quản lý công: Thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập ở Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN TUẤN HƢNG THỰC HIỆN TỰ CHỦ VỀ TỔ CHỨC CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI - 2021
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN TUẤN HƢNG THỰC HIỆN TỰ CHỦ VỀ TỔ CHỨC CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Quản lý công Mã số : 0 34 04 03 LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Nguyễn Quốc Sửu 2. PGS.TS Nguyễn Văn Quang HÀ NỘI - 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Nguyễn Tuấn Hƣng
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC HIỆN TỰ CHỦ VỀ TỔ CHỨC CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM 9 1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài đối với những vấn đề lý luận trong thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập 9 1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước đối với những vấn đề lý luận trong thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập 15 1.3. Tình hình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến thực tiễn thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập ở Việt Nam 25 1.4. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập ở Việt Nam 29 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN TRONG THỰC HIỆN TỰ CHỦ VỀ TỔ CHỨC CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM 34 2.1. Tự chủ đại học ở Việt Nam 34 2.2. Trường đại học công lập và tổ chức trường đại học công lập trong điều kiện tự chủ đại học ở Việt Nam 44 2.3. Những khía cạnh căn bản trong thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập ở Việt Nam 55 2.4. Kinh nghiệm thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học tại một số quốc gia trên thế giới và hàm ý cho các trường đại học công lập ở Việt Nam 76 Chƣơng 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN TỰ CHỦ VỀ TỔ CHỨC CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM 85 3.1. Hiện trạng chính sách và thể chế thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập ở Việt Nam 85
  5. 3.2. Thực tiễn triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức của các trường đại học công lập ở Việt Nam 105 3.3. Những vấn đề đặt ra trong thực tiễn thực hiện tự chủ về tổ chức hiện nay của các trường đại học công lập ở Việt Nam 112 Chƣơng 4: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN TỰ CHỦ VỀ TỔ CHỨC CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM 127 4.1. Quan điểm và định hướng trong bảo đảm thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập ở Việt Nam 127 4.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập ở Việt Nam 133 KẾT LUẬN 158 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 160 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 161 PHỤ LỤC 168
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT GDĐH : Giáo dục đại học GDĐT : Giáo dục - đào tạo HĐT : Hội đồng trường NCS : Nghiên cứu sinh QLNN : Quản lý nhà nước TCĐH : Tự chủ đại học TĐH : Trường đại học TĐHCL : Trường đại học công lập TNGT : Trách nhiệm giải trình
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 3.1 Hiện trạng thể chế thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở Việt Nam (Trước khi Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH năm 2012 - Luật số 34) 86 3.2 Một số hạn chế của thể chế thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở Việt Nam (Giai đoạn trước khi Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH năm 2012 - Luật số 34) 91 3.3 Hiện trạng thể chế thực hiện tự về chủ tổ chức của TĐHCL đã được sửa đổi, bổ sung 93 3.4 Hiện trạng thể chế nội bộ điều chỉnh thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL 102 3.5 Thực tiễn triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL không theo cơ chế của Nghị quyết 77/2014/NQ-CP 108 3.6 Tham chiếu cơ cấu thành viên của các trường tự chủ theo Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP 119 4.1 Ba trụ cột trong hệ thống thực thi TNGT của TĐHCL 156
  8. DANH MỤC CÁC HÌNH Số hiệu Tên hình Trang hình 3.1 Mô hình quản trị TĐHCL ở Việt Nam 125
  9. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trên thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay, tự chủ đại học (TCĐH) là xu hướng tất yếu để đổi mới và phát triển giáo dục đại học (GDĐH) hiện đại. TCĐH đã trải qua lịch sử phát triển hàng trăm năm, gắn với sự phát triển của các trường đại học (TĐH) trong bối cảnh có sự thay đổi căn bản mối quan hệ giữa Nhà nước và TĐH dưới tác động của điều kiện chính trị - kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn cầu cũng như ở từng quốc gia. Sự thay đổi căn bản của GDĐH từ chức năng sản sinh ra tri thức trở thành một ngành/lĩnh vực mang tính dịch vụ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn đầu vào cho hoạt động của mọi ngành/nghề/lĩnh vực trong xã hội cũng như lĩnh vực quản lý nhà nước (QLNN) đã đặt ra yêu cầu cần có sự điều chỉnh lại mối quan hệ hai chiều giữa Nhà nước và TĐH. Cụ thể, trong mối quan hệ với TĐH, Nhà nước phải ngày càng giảm dần sự can thiệp trực tiếp vào hoạt động quản trị, quản lý của các trường để trao quyền tự chủ nhiều hơn cho TĐH. Ngược trở lại, TĐH trong mối quan hệ với Nhà nước buộc phải tăng cường sự tự chủ và trách nhiệm giải trình (TNGT) đối với mọi hoạt động giáo dục - đào tạo (GDĐT) trên cơ sở tiếp thu các yếu tố hợp lý, hiệu quả từ hoạt động QLNN. Sự điều chỉnh có tính kết hợp hai mặt này của mối quan hệ Nhà nước - TĐH được duy trì và phát triển qua mô hình TCĐH, trong đó, vai trò truyền thống của Nhà nước là quản lý trực tiếp trường đại học công lập (TĐHCL) dần chuyển sang vai trò phi truyền thống là giám sát, hướng dẫn hoạt động GDĐT của các TĐH. Sự chuyển đổi khách quan này diễn ra ở mọi quốc gia và Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Trong bối cảnh chung đó, thời gian qua ở Việt Nam, môi trường thể chế về TCĐH đã có những chuyển biến tích cực. Hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh TCĐH đã được ban hành, như Luật Giáo dục (2005); Luật Giáo dục đại học (2012); Điều lệ Trường đại học (2014); Nghị định “Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập” (Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006); Nghị định “Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập” (Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015); Nghị quyết “Về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập, giai đoạn 2014-2017” (Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 1
  10. 24/10/2014); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH (Luật số 34/2018/QH14 ngày 19/11/2018); Nghị định “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học” (Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019); Nghị định “Quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập” (Nghị định số 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020)... Cùng với hệ thống thể chế, đã có nhiều chủ trương lớn về TCĐH cho thấy rõ quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong việc thúc đẩy tiến trình TCĐH của các TĐHCL. Nghị quyết số 29 Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khóa XI ngày 4/11/2013 (gọi tắt là Nghị quyết số 29) thống nhất chỉ đạo nhiệm vụ, giải pháp cho toàn hệ thống GDĐT của cả nước phải nhanh chóng: Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục - đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng. Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo và trách nhiệm quản lý theo ngành, lãnh thổ của các bộ, ngành, địa phương. Phân định công tác quản lý nhà nước với quản trị của cơ sở giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh phân cấp, nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục - đào tạo [13]. Trên mọi bình diện, TCĐH đặt ra không ít những yêu cầu mới về cả tư duy, lý luận cũng như hoạt động thực tiễn của hệ thống QLNN về GDĐH và các TĐHCL. Song, cho đến nay, hiệu quả TCĐH của các TĐHCL, nhất là hiệu quả thực hiện tự chủ về tổ chức của các trường vẫn đang tồn tại khá nhiều vấn đề, trong đó: Công tác đổi mới hệ thống tổ chức các đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm. Quy hoạch mạng lưới đơn vị sự nghiệp công lập chủ yếu còn theo đơn vị hành chính, chưa chú trọng quy hoạch theo ngành, lĩnh vực, đặc điểm vùng miền và nhu cầu thực tế. Hệ thống tổ chức các đơn vị sự nghiệp còn cồng kềnh, manh mún, phân tán, chồng chéo; quản trị nội bộ yếu kém, chất lượng, hiệu quả dịch vụ thấp [14]. Nhận định của Nghị quyết Trung ương số 19 nêu trên về thực trạng tổ chức của các đơn vị sự nghiệp công lập phản ánh khá rõ những vấn đề liên quan tới thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL, cụ thể: 2
  11. Thứ nhất, cách tiếp cận đối với quyền tự chủ về tổ chức của TĐHCL. Tự chủ về tổ chức là một trong bốn trụ cột cơ bản của quyền TCĐH, phản ánh bản chất tư cách pháp lý tự chủ của một đơn vị sự nghiệp công lập và một tổ chức đại học. Việc thực hiện tự chủ về tổ chức chịu sự tác động trực tiếp từ thẩm quyền QLNN của chủ thể quản lý trực tiếp TĐHCL. Đây là quyền tự chủ có điều kiện, nhưng việc vận hành quyền tự chủ này liệu có cần phải đánh đổi bằng kết quả thực hiện tự chủ về tài chính của TĐHCL hay không thì vẫn còn có những cách hiểu và tiếp cận khác nhau. Thứ hai, trong hoạt động quản lý công, tự chủ về tổ chức của TĐHCL được thực hiện trên cơ sở mối quan hệ phân cấp/ ủy quyền hợp lý, hiệu quả giữa Nhà nước và TĐHCL. Nhưng việc phân vai và thực tiễn thực hiện sự phân vai này qua thực thi chức năng QLNN về GDĐH và thực hiện chức năng quản trị, quản lý TĐHCL vẫn chưa loại bỏ hết các rào cản về thể chế, về năng lực, về mô hình và phương thức quản trị, quản lý TĐHCL. Đó là chưa kể đến sự không tương thích của nguồn lực, bộ máy, hệ thống quản trị với hiệu quả của các hoạt động quản trị, quản lý nhà trường trong điều kiện thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL. Thứ ba, kết quả thí điểm thực hiện TCĐH về cả bốn phương diện: Thực hiện nhiệm vụ chuyên môn học thuật; tổ chức; nhân sự; tài chính và tài sản của nhóm các trường theo Nghị quyết “Về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập, giai đoạn 2014 - 2017” (Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014) đã cho thấy khá rõ những mặt mạnh và mặt hạn chế về tổ chức bộ máy của các TĐHCL trong điều kiện áp dụng cơ chế thực hiện tự chủ về tổ chức. Thứ tư, việc đúc rút kinh nghiệm từ cơ chế thí điểm của nhóm các trường theo Nghị quyết số 77 để đẩy mạnh tiến trình TCĐH toàn diện đối với các cơ sở GDĐH công lập, trong đó có các TĐHCL đã được Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH (Luật số 34/2018/QH14 ngày 19/11/2018) đặt ra, theo đó, đến thời điểm sau tháng 8 năm 2020, các cơ sở GDĐH công lập phải hoàn thành việc thành lập Hội đồng trường (HĐT), cơ quan quyền lực tối cao của nhà trường để triển khai thực hiện TCĐH một cách toàn diện. Khi các TĐHCL xúc tiến việc thành lập HĐT để thực hiện tự chủ về tổ chức thì đã nảy sinh không ít vấn đề như: (1) Chuyển giao quyền lực từ Hiệu trưởng sang HĐT; (2) mối quan hệ giữa HĐT với Đảng ủy và Hiệu trưởng; (3) Chủ tịch HĐT có phải là người đứng đầu HĐT hay không? (4) Xác định ai là người đứng đầu TĐHCL? 3
  12. (5) Cơ chế thực hiện thẩm quyền của chủ thể quản lý trực tiếp TĐHCL tại HĐT và thực thi chức năng QLNN về GDĐH; (6) vấn đề đổi mới mô hình, phương thức quản trị đại học của các TĐHCL trong thực hiện cơ chế tự chủ về tổ chức... Hàng loạt vấn đề nêu trên hiện chưa có sự đầu tư nghiên cứu, tiếp cận và chuẩn bị một cách bài bản về nhiều phương diện, nhất là từ phương diện lý luận, thể chế quản lý công và thực tiễn thực hiện tự chủ về tổ chức của nhiều TĐHCL. Từ thực tế trên thì việc đặt vấn đề nghiên cứu sâu sắc, toàn diện đối với thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở Việt Nam dưới nhiều góc độ, nhất là góc độ quản lý công là vô cùng cần thiết, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. Với tầm nhìn đó, nghiên cứu sinh (NCS) đã lựa chọn vấn đề “Thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập ở Việt Nam” để thực hiện luận án tiến sĩ, chuyên ngành quản lý công. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận án hướng tới mục đích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở Việt Nam, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm góp phần tạo ra những thay đổi tích cực cả về lý luận cũng như hiệu quả hoạt động thực tiễn đối với quá trình hiện thực hóa quyền tự chủ này của các TĐHCL trong thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu * Về lý luận Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về tự chủ tổ chức và thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL (khái niệm, đặc điểm TCĐH; khái niệm, đặc điểm của tổ chức của TĐHCL trong cơ chế TCĐH; bản chất mối quan hệ giữa Nhà nước và TĐHCL trong thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL; nội dung, công cụ, thiết chế, phương thức, TNGT của TĐHCL trong thực hiện tự chủ về tổ chức; kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới trong thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐH). * Về thực tiễn - Nghiên cứu thực trạng nhận thức của các cơ quan nhà nước, TĐHCL và các bên liên quan đối với thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL. - Nghiên cứu thực trạng thể chế, thực tiễn và các giải pháp bảo đảm thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL thời gian tới. 4
  13. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Lý luận thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở Việt Nam hiện nay; - Thực trạng chính sách, thể chế, thiết chế và thực tiễn thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL từ sau khi Luật GDĐH năm 2012 có hiệu lực cho đến nay. - Về đối tượng và nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu lý luận, thể chế, và thực tiễn thực hiện tự chủ về tổ chức bộ máy mà không mở rộng nghiên cứu các vấn đề thực hiện tự chủ về tổ chức nhân sự của nhóm TĐHCL trực thuộc sự quản lý của Bộ GDĐT và các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực khác. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận Luận án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; tư duy đổi mới, hội nhập và tư duy quản lý công mới, tư duy quản trị hiện đại, áp dụng đối với TĐHCL trong điều kiện thực hiện tự chủ về tổ chức. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Thứ nhất, các phương pháp thu thập, tổng hợp, phân tích thông tin, dữ liệu về đối tượng nghiên cứu, phù hợp với phạm vi nghiên cứu. Cụ thể, luận án tiếp cận công trình nghiên cứu đã công bố, các chính sách, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; các báo cáo quốc tế - quốc gia; quy chế quản lý nội bộ và thực tiễn quản trị, quản lý hiện nay về tổ chức TĐHCL ở Việt Nam để có căn cứ, cơ sở cho việc phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa và luận giải các vấn đề lý luận, thực tiễn thuộc nhiệm vụ nghiên cứu của luận án. Thứ hai, phương pháp nghiên cứu dự báo, phỏng vấn sâu đối với một số các nhà khoa học đồng thời là những giảng viên đang làm công tác quản lý trong TĐHCL thuộc một số lĩnh vực (đào tạo ngành luật; đào tạo tư pháp; đào tạo về quản lý công; đào tạo về quản lý về lao động - xã hội) để giải quyết một trong số nội dung được xác 5
  14. định là đóng góp của luận án liên quan đến quan điểm và đề xuất giải pháp bảo đảm thực hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL (tại phụ lục 4 của luận án). Ngoài ra, phương pháp liên hệ, so sánh, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn cũng sẽ được sử dụng trong quá trình hoàn thành luận án. 5. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu * Câu hỏi nghiên cứu thứ nhất: Hệ thống lý luận quản lý công về tự chủ tổ chức của TĐHCL ở Việt Nam hiện nay được hiểu và tiếp cận như thế nào? * Giả thuyết nghiên cứu thứ nhất: Tự chủ về tổ chức là một trong bốn trụ cột cơ bản của quyền TCĐH, được tiếp cận là quyền tự quyết định mục tiêu, sứ mạng, tầm nhìn và cách thức vận hành tổ chức bộ máy của TĐHCL; có mối tương quan theo chiều nghịch/chiều thuận với thẩm quyền QLNN về GDĐH và các lĩnh vực tự chủ về thực hiện nhiệm vụ học thuật, nhân sự, tài chính - tài sản của TĐHCL; thể hiện bản chất tư cách pháp lý của một cơ sở GDĐH công lập và tổ chức đại học. Sự phân cấp/ủy quyền của Nhà nước và tư cách pháp lý là cơ sở của quyền tự chủ về tổ chức của TĐHCL; điều kiện để TĐHCL thực hiện tự chủ về tổ chức là phải có HĐT, có quy chế tổ chức và hoạt động, có sự phân cấp tự chủ cho các đơn vị thuộc/trực thuộc. * Câu hỏi nghiên cứu thứ hai: Hệ thống lý luận quản lý công về thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở Việt Nam hiện nay được hiểu và tiếp cận như thế nào? * Giả thuyết nghiên cứu thứ hai: Thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL trên cơ sở nguyên tắc, nội dung, thể chế, thiết chế, phương thức phù hợp, mang lại hiệu quả cho thực hiện TCĐH; tương thích giữa hệ thống QLNN về GDĐH với mô hình, phương thức thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL; (ii) phù hợp giữa năng lực quản trị, quản lý nhà trường với điều kiện, yêu cầu, nội dung, nhiệm vụ thực hiện tự chủ về tổ chức của từng TĐHCL; hiện thực hóa mục tiêu kép là thực hiện sứ mạng, tầm nhìn của TĐHCL và đổi mới toàn diện hệ thống GDĐH Việt Nam. * Câu hỏi nghiên cứu thứ ba: Cần nhận diện và đánh giá như thế nào về thực trạng hệ thống chính sách, thể chế, thiết chế thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở Việt Nam hiện nay? Đâu là những khó khăn vướng mắc, hạn chế và nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc, hạn chế trong thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL? * Giả thuyết nghiên cứu thứ ba: Hệ thống chính sách, thể chế chung của Nhà nước, thể chế, thiết chế quản trị, quản lý nội bộ của TĐHCL ở Việt Nam hiện nay đã có 6
  15. nhiều những thay đổi tích cực, tiệm cận với xu hướng phát triển của các TĐHCL trên thế giới; những khó khăn, vướng mắc, hạn chế và nguyên nhân của khó khăn, vướng mắc, hạn chế trong thực tiễn thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL được nhận diện từ nhiều phương diện (chính sách, thể chế, thiết chế, tư duy, năng lực, nguồn lực, phương thức QLNN về GDĐH, quản trị, quản lý tổ chức bộ máy của các nhà trường). Câu hỏi nghiên cứu thứ tư: Thực tiễn thí điểm thực hiện cơ chế tự chủ về tổ chức của nhóm TĐHCL theo Nghị quyết 77/2014 và thực tiễn triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở Việt Nam như thế nào? Đâu là những vấn đề đang đặt ra cho TĐHCL? Giả thuyết nghiên cứu thứ tư: Kết quả thu được của nhóm các TĐHCL thí điểm áp dụng cơ chế tự chủ theo Nghị quyết 77/2014 là một trong số căn cứ quan trọng để thay đổi cách tiếp cận của các chủ thể QLNN và cơ sở GDĐH công lập về TCĐH; khó khăn, vướng mắc, hạn chế về thực hiện tự chủ tổ chức của TĐHCL từ quá trình thí điểm đã được Luật số 34 tháo gỡ một phần căn bản nhưng thực tế triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL hiện vẫn đang phải đối diện với nhiều vấn đề liên quan đến cách hiểu và áp dụng thể chế mới theo Luật số 34; sự thiếu thống nhất và đồng bộ của luật chuyên ngành và luật liên quan về TCĐH; năng lực QLNN về GDĐH; năng lực, mô hình, phương thức quản trị, quản lý hệ thống tổ chức nhà trường trong điều kiện triển khai đồng loạt việc thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL theo Luật số 34. * Câu hỏi nghiên cứu thứ năm: Quan điểm và giải pháp thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở Việt Nam thời gian tới? * Giả thuyết nghiên cứu thứ năm: Việc thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL trong thời gian tới phải đảm bảo dựa trên quan điểm khoa học, nhất quán, rõ ràng, với những giải pháp tổng thể, khả thi, đáp ứng yêu cầu trước mắt cũng như về lâu dài đối với hiệu quả QLNN về GDĐH trong cơ chế TCĐH và hiệu quả quản trị, quản lý TĐHCL triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức. 6. Những đóng góp mới của luận án 6.1. Đóng góp về nghiên cứu lý luận - Làm sáng tỏ bản chất tự chủ về tổ chức và thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL; - Góp phần tạo ra sự thay đổi tích cực về nhận thức; phương thức tổ chức và triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL; 7
  16. - Đóng góp một số khái niệm khoa học cốt lõi trong lĩnh vực quản lý công đối với thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL. 6.2. Đóng góp về nghiên cứu thực tiễn Đánh giá, phân tích, luận giải những bất cập, hạn chế đối với thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL thời gian qua, từ đó đóng góp cho việc định hướng và đề xuất giải pháp khả thi, hiệu quả, phù hợp để dần hoàn thiện cơ chế thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở Việt Nam thời gian tới. 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án - Về lý luận, luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu đối với lĩnh vực thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL. Các nghiên cứu của luận án nhằm chỉ ra bản chất, yêu cầu và vấn đề phải thực hiện đối với tự chủ về tổ chức của TĐHCL. Luận án chỉ rõ yêu cầu, nội dung và kết quả cần đạt được trong thực hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL. - Về thực tế, luận án đề xuất giải pháp hữu ích trong thực hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL ở Việt Nam thời gian tới. Luận án sau khi hoàn thành có giá trị tham khảo đối với các TĐHCL tại Việt Nam trong việc xây dựng và phát triển hệ thống quản trị, quản lý tổ chức, phù hợp với cơ chế TCĐH tại Việt Nam thời gian tới. 8. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập ở Việt Nam. Chương 2: Những vấn đề lý luận trong thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập ở Việt Nam. Chương 3: Thực tiễn thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập ở Việt Nam. Chương 4: Giải pháp bảo đảm thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập ở Việt Nam. 8
  17. Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC HIỆN TỰ CHỦ VỀ TỔ CHỨC CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM 1.1. Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài đối với những vấn đề lý luận trong thực hiện tự chủ về tổ chức của trƣờng đại học công lập 1.1.1. Đối với sách tham khảo * Shattock Michael, năm 2006, “Managing good governance in higher education, Open University Press, McGraw - Hill Education, United Kingdom (Quản trị giáo dục đại học hiệu quả): Đây là công trình nghiên cứu có giá trị về tổ chức của TĐH từ góc nhìn thiết chế. Ở nội dung chương 2 (Nguồn gốc và sự phát triển của quản trị đại học hiện đại), tác giả đã phân tích một số mô hình quản trị đại học, như Oxbridge, Scotland, Quản trị đại học công dân, Giáo dục Đại học Tập đoàn và Quản trị Đại học Hoa Kỳ. Tác giả cũng đi sâu phân tích về vai trò của Hiệu trưởng và Phó hiệu trưởng đại học cùng trưởng đơn vị thuộc đại học. Tác giả cũng nêu lên vấn đề quản trị đại học và môi trường thay đổi. Tác giả quan tâm bàn về chiến lược của các đại học và Nhà nước. Cuốn sách bàn đến vấn đề quản trị đại học hiệu quả trong thực tiễn, như vấn đề bổ nhiệm Hiệu trưởng; giám sát quyền điều hành, vấn đề đánh giá hiệu quả và hiệu suất; vấn đề về xung đột lợi ích và áp lực thay đổi trong quản trị đại học. * Frankh.T.Rhodes, năm 2009, “Creation of the Future - Tạo dựng tương lai, vai trò của các viện đại học Hoa Kỳ”, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn: Cuốn sách phân tích nhiều nội dung liên quan đến công việc của một TĐH, như nội dung về Hội đồng trường (HĐT)/Hội đồng quản trị, trách nhiệm của HĐT là quản trị theo kiểu “nhúng mũi vào nhưng bỏ tay ra” [39, tr. 507] chứ không phải quản lý. Tác giả cũng phân tích rõ vai trò của HĐT nằm ở chức năng tuyển chọn, bổ nhiệm, đưa ra đánh giá và không ngừng hỗ trợ Hiệu trưởng quản lý, điều hành TĐHCL. Cuốn sách chỉ ra các thành tố căn bản làm nên mối quan hệ then chốt giữa HĐT và Hiệu trưởng. * Clark Kerr, năm 2013, “The uses of the university - Các công dụng của đại học”, Nhà xuất bản Tri thức. Các nghiên cứu của tác giả về GDĐH Hoa Kỳ trước hết là “những thông tin, phân tích, đánh giá, khái quát hóa một cách chân thực, khoa học về sự thay đổi diện mạo của Đại học Hoa Kỳ qua những dấu mốc lịch sử” [23, tr. 31-32]. 9
  18. Một nhận xét rất cần được quan tâm khai thác về công dụng của đại học khi nghiên cứu về quyền TCĐH, đó là đại học có tác dụng hữu hiệu cho xã hội hay phản hữu hiệu tùy theo cách sử dụng nó. Nó thay đổi căn bản xã hội nếu thực hiện được đầy đủ các chức năng hàn lâm bình thường của nó mà qua đó, nó đã có chỗ đứng ngàn năm. Nhưng mọi sự thao túng đại học vào mục tiêu chính trị sẽ thay đổi bản chất đại học xấu đi hơn là nó thay đổi tốt cho xã hội [23, tr. 35]. “Hôm nay chúng ta đứng vững. Nhưng ngày mai khoa học sẽ tiến thêm một bước nữa và lúc đó, sẽ không thể có sự khẩn cầu xét lại một bản án được dành cho những kẻ không được giáo dục và Kerr khẳng định đó là công dụng của giáo dục” [23, tr. 35-36]. Trong cuốn sách, tác giả đã viện dẫn đến phát biểu của Kerr về TCĐH một cách ngắn gọn nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa: “Tôi không tin vào nguyên tắc rằng bởi vì có một thống đốc mới nên cần có một Chủ tịch đại học mới. Điều này không bao giờ xảy ra ở các đại học công tốt ở Hoa Kỳ. Đó là khía cạnh tự chủ (của đại học). Đại học có thể phụng sự cho nhân loại tốt nhất khi được quản lý dài hạn bằng (nguyên tắc quyền) tự chủ” [23, tr. 69-70]. Đề cập quyền TCĐH, Kerr nhấn mạnh: “Một đại học được quản lý một phần dựa trên tự do. Một đại học không thể được quản lý như một Nhà nước cảnh sát” [23, tr. 69]. Tiếp cận từ góc độ quản lý công về TCĐH cho thấy, những phân tích của Kerr về một số nhân sự đại học cực kỳ có giá trị tham khảo cho luận giải về thực hiện tự chủ tổ chức TĐHCL. Tác giả đã chính xác khi cho rằng, Viện trưởng đại học (mà ở Việt Nam là Hiệu trưởng) là nhân sự hoạt động ở vị trí vừa phải đối diện nhiều hướng cùng một lúc, vừa phải xoay xở để không “quay lưng” lại với bất cứ bên nào. Theo tư duy khoa học quản lý công, đây là một nhận xét khoa học tinh tế và quan trọng, điều mà nếu chỉ tiếp cận từ góc độ thể chế TĐH chưa chắc đã nhận diện rõ vấn đề. Trong bối cảnh thay đổi lớn của các TĐH ở Mỹ cũng như ở nhiều nước và ngay cả ở Việt Nam, tác giả đã rất có lý khi cho rằng, “Viện trưởng trở thành vị trung tâm hòa giải giữa các giá trị của quá khứ, các viễn cảnh của tương lai và những thực tế của hiện tại” [23, tr. 144]. Từ những nghiên cứu về cuốn sách, có thể rút ra nhận xét quan trọng có giá trị tham chiếu đối với luận án, đó là những đánh giá chân thực, bản chất và khoa học về vị trí chủ chốt trong TĐH ở hai trong số những vị trí cốt lõi là Hiệu trưởng và giảng viên. Giảng viên là máy cái trong cỗ máy TĐH, Hiệu trưởng là máy trưởng để chỉ đạo vận hành cỗ 10
  19. máy đó và vì vậy, trong điều kiện TCĐH, hai vị trí này nên được tiếp cận, phát triển và quản lý như thế nào để hiệu quả và chất lượng nhất? Đây là những luận giải có ý nghĩa cung cấp nguồn thông tin quý khi đề cập đến vấn đề giải pháp tăng cường nguồn lực của tổ chức TĐHCL trong điều kiện thực hiện tự chủ về tổ chức ở Việt Nam. * Iwinska Julia, Matei Liviu, năm 2014, University autonomy - A practical handbook, Central European University, Hungary (Cẩm nang Tự chủ đại học): Một trong những điểm nhấn quan trọng của cuốn sách tham khảo này là tìm câu trả lời cho câu hỏi lớn, các khía cạnh của TCĐH là gì? Cuốn sách cũng làm rõ mức độ tự chủ mà các TĐH được hưởng từ sự kiểm soát của Nhà nước, tác động đáng kể đến năng lực quản lý các chiến lược phát triển phức tạp, xác định các chính sách và sắp xếp tổ chức phù hợp với các đơn vị hỗ trợ cần thiết, nguồn nhân lực và tài chính. TĐH ngày càng được công nhận là động lực thúc đẩy cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội trong khu vực phát triển. Nhận thức về cách các TĐH có thể đóng góp cho sự đổi mới của khu vực và sự phát triển kinh tế thông qua hợp tác với doanh nghiệp, chính quyền địa phương và các chủ thể khác tại địa phương (ESMU, 2010). Trong phần ba của cuốn sách, tác giả đề cập đến thực tiễn tự chủ với những ví dụ của các quốc gia và TĐH. Có thể nhận thấy phần này của cuốn sách cung cấp những kinh nghiệm tốt từ thực tế của các quốc gia. Cụ thể, khi đề cập đến tự chủ quyết định về quản trị nội bộ và cơ cấu tổ chức thì các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, cấu trúc quản trị và lãnh đạo của các TĐH chịu sự điều chỉnh của khung pháp luật quốc gia. Trong hầu hết các trường hợp, khung cơ bản dành cho cho các cơ quan ra quyết định (cơ quan chủ quản chính trong một TĐH) được quy định trong các luật hoặc nghị định liên quan. Nhưng đồng thời các TĐH vẫn có thể có một số quyền tự chủ trong việc áp dụng khung pháp lý quốc gia, mà một trong số đó là tự chủ trong xây dựng và phát triển thể chế điều chỉnh nội bộ của TĐHCL. Một kinh nghiệm rất đáng chú ý từ nghiên cứu của công trình này liên quan đến vấn đề mô hình chủ yếu thiết lập quản trị đại học nội bộ trong các TĐH ở châu Âu. Chẳng hạn, 15 hệ thống (trong số 28) có một cơ cấu điều hành kép, thường bao gồm một cơ quan đại diện nội bộ (như Hội đồng khoa học) và một Hội đồng đại học (thiên về bên ngoài nhiều hơn). Trong các mô hình quản trị kép, quyền và năng lực ra quyết định được phân chia giữa hai cơ quan. Các vấn đề học thuật thường thuộc về năng lực 11
  20. của hội đồng khoa học, trong khi các vấn đề chiến lược liên quan đến Hội đồng đại học. Sự phân chia năng lực và thẩm quyền ra quyết định giữa hai loại cơ quan chủ quản có thể khác nhau đáng kể. Trong một số trường hợp, ví dụ như ở một số tiểu bang của Đức, hội đồng đại học (thiên về bên ngoài) chỉ có vai trò tư vấn, trong khi thẩm quyền ra quyết định chính thuộc về Hội đồng khoa học được bầu (nội bộ). Một nội dung khác mang tính chất kinh nghiệm về tự chủ tổ chức cũng được đề cập trong cuốn sách này, đó là tự do xác định cấu trúc học thuật nội bộ (như các Khoa; Trung tâm). Các TĐH trong hầu hết các hệ thống GDĐH của châu Âu (trong 18 trên 28 phân tích) có thể tự do quyết định cấu trúc học thuật nội bộ của họ. Điều này liên quan đến việc thành lập, số lượng và tên của các đơn vị học thuật (ví dụ: các khoa, trường học, v.v...). Khía cạnh tự chủ này cũng bao gồm sáp nhập hoặc đóng cửa các khoa học thuật nằm trong thẩm quyền tự chủ của TĐH trong hầu hết các trường hợp. Một khía cạnh khác của kinh nghiệm quốc tế về tự chủ tổ chức bộ máy, nhân sự TĐH công lập được nhìn thấy khá rõ ở nội dung các nghiên cứu trong cuốn sách này là vấn đề tự do lựa chọn lãnh đạo TĐH (người đứng đầu điều hành). Cuốn sách chỉ ra có bốn cách chính để bổ nhiệm người đứng đầu điều hành tại các TĐH ở châu Âu. Một là, Hiệu trưởng TĐH được bầu bởi một cơ quan bầu cử đại học lớn với quy mô đại diện rộng, bao gồm nhân viên học tập và hành chính, và sinh viên. Hai là, Hiệu trưởng được bầu chọn một cách dân chủ bởi cơ quan quản lý của TĐH (thường là Hội đồng khoa học, tức là cơ quan quyết định các vấn đề học thuật). Ba là, Hiệu trưởng được bổ nhiệm bởi hội đồng TĐH (cơ quan quản lý quyết định các vấn đề chiến lược). Bốn là, Hiệu trưởng được chỉ định thông qua quy trình hai bước kết hợp, bao gồm cả hội đồng khoa học và HĐT. Còn một cách tiếp cận khác là Hiệu trưởng/quản lý điều hành của trường được chỉ định/lựa chọn bởi một cơ quan quản lý (hội đồng quản trị hoặc HĐT), hoặc được lựa chọn bởi cơ quan học thuật kiểu hội đồng khoa học là hai cách tiếp cận phổ biến như nhau. Tại 8 quốc gia, trong đó có Vương quốc Anh, Ireland, Đan Mạch và Thụy Điển, quy trình chọn lọc được thực hiện bởi HĐT (thường bao gồm các thành viên bên ngoài). 4 quốc gia còn lại, bao gồm Pháp, Hungary, Slovakia và Bồ Đào Nha thì người lãnh đạo hàng đầu của TĐH được lựa chọn bởi một cơ quan quản lý được bầu theo kiểu hội đồng khoa học. 12
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2