Luận án tiến sĩ Quản lý đất đai: Nghiên cứu giải pháp quản lý và sử dụng hiệu quả đất trồng lúa trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên
lượt xem 10
download
Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm đánh giá được tình hình quản lý và sử dụng đất trồng lúa trên địa bàn huyện Phú Bình. Đánh giá được chất lượng đất đai trồng lúa và khả năng thích hợp của đất đai với các loại sử dụng đất lúa. Đề xuất được giải pháp quản lý và sử dụng hiệu quả đất trồng lúa.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Quản lý đất đai: Nghiên cứu giải pháp quản lý và sử dụng hiệu quả đất trồng lúa trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN __________________________________________________________ BÙI THANH HẢI NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ ĐẤT TRỒNG LÚA TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI MÃ SỐ: 62.85.01.03 LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. GS.TS. ĐẶNG VĂN MINH 2. TS. NGUYỄN VĂN TOÀN
- THÁI NGUYÊN 2017
- i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác. Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận án đều đã được chỉ rõ nguồn gốc. Tác giả luận án Bùi Thanh Hải
- ii LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận án, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình, sự đóng góp quý báu của nhiều cá nhân và tập thể. Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới GS.TS. Đặng Văn Minh, TS. Nguyễn Văn Toàn, với cương vị là người hướng dẫn khoa học đã có nhiều đóng góp to lớn trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án. Tôi xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo trường Đại học Nông Lâm Đại học Thái Nguyên, phòng Đào tạo, khoa Quản lý tài nguyên đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất và tinh thần để tôi hoàn thành nghiên cứu của mình. Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo và các đồng nghiệp tại Văn phòng UBND tỉnh Thái Nguyên, nơi tôi đang công tác đã tạo điều kiện thuận lợi và có những ý kiến đóng góp quý báu trong quá trình thực hiện luận án. Nhân đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân và bạn bè đã động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện về mọi mặt cho tôi trong quá trình thực hiện luận án này. Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn! Tác giả luận án Bùi Thanh Hải
- iii MỤC LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................136 TÀI LIỆU INTERNET.................................................................................144
- iv DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1 ANLT An ninh lương thực 2 ANLTQG An ninh lương thực quốc gia 3 BĐKH Biến đổi khí hậu 4 BĐS Bất động sản 5 BNN&PTNT Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 6 CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 7 CPTG Chi phí trung gian 8 ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long 9 DT Diện tích 10 DTĐ Diện tích đất 11 DVD Đơn vị đất 12 DTGT Diện tích gieo trồng 13 GCN Giấy chứng nhận 14 GTGT Giá trị gia tăng 15 GTSP Giá trị sản phẩm 16 GTSX Giá trị sản xuất 17 HQMT Hiệu quả môi trường 18 HQXH Hiệu quả xã hội 19 HSĐT Hiệu suất đầu tư 20 KCN Khu công nghiệp 21 KHKT Khoa học kỹ thuật 22 LUS Hệ thống sử dụng đất 23 LUT Loại hình sử dụng đất 24 NCS Nghiên cứu sinh 25 QHSDĐ Quy hoạch sử dụng đất 26 QLLH Quản lý linh hoạt 27 QLNN Quản lý nghiêm ngặt 28 QLSD Quản lý sử dụng 29 TV Tiểu vùng 30 UBND Ủy ban nhân dân
- v DANH MỤC CÁC BẢNG TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................136 TÀI LIỆU INTERNET.................................................................................144
- vi DANH MỤC CÁC HÌNH TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................136 TÀI LIỆU INTERNET.................................................................................144
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam có diện tích gieo trồng lúa xếp thứ 3 trong số 10 nước gieo trồng lúa nhiều nhất trên thế giới. Tính từ 1961 đến 2016 diện tích gieo trồng lúa tăng từ 4,744 triệu ha lên 7,7916 triệu ha, tăng 1,54 lần. Năng suất lúa tăng 1,9 tấn lên 5,6 tấn/ha/vụ, tăng 2,9 lần và sản lượng tăng từ 8,997 triệu tấn (1965) lên 43,619 triệu tấn (2016), tương ứng 4,8 lần. So với bình quân chung của thế giới về số lần tăng về diện tích gieo trồng tương đương 1,54 lần/1,5 lần. Năng suất lúa gia tăng lớn hơn nhiều (2,9 lần/2,1 lần) và sản lượng cũng gia tăng cao hơn (4,8 lần/3,14 lần). Việt Nam chấm dứt tình trạng thiếu lương thực trong gần 25 năm, năm cao nhất là năm 1974 thiếu hụt 1,26 triệu tấn lương thực ( Trần Văn Đạt, 2010) [75]. Từ năm 1990 nước ta lại tiếp tục xuất khẩu gạo sau một thời gian gián đoạn do chiến tranh và từ năm 2010 đến nay đều xuất khẩu trên 6 triệu tấn/năm, đưa nước ta trở thành nước xuất gạo lớn thứ 2 trên thế giới trong nhiều năm (FAO STAT, 2017) [95], (Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp, 2017) [65]. Tuy nhiên từ năm 2000 đến năm 2010 diện tích đất lúa đã giảm từ 4.468 nghìn ha xuống còn 4.165 nghìn ha, giảm 303 nghìn ha, trung bình mỗi năm giảm 30,3 nghìn ha. Tình trạng giảm diện tích đất lúa nhiều trong giai đoạn này không những chỉ do chuyển đổi mục đích sang trồng cây trồng khác có hiệu quả kinh tế cao hơn mà còn do chuyển đổi mục đích khác như phát triển đô thị, khu công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật phục vụ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Tình trạng chuyển đổi sử dụng đất lúa sang các cây trồng lâu năm, cây hàng năm hoặc nuôi trồng thuỷ sản tiếp tục diễn ra do cán cân cung cầu lúa gạo thế giới luôn thay đổi kéo theo sự thay đổi giá lúa gạo trong nước giảm thấp và có xu hướng không ổn định. Giá vật tư bao gồm cả phân bón, hoá chất bảo vệ, chi phí lao động ngày càng gia tăng nhưng giá bán lúa gạo không tăng hoặc tăng không đáng kể dẫn đến hiệu quả sản xuất lúa thấp, lợi nhuận không đáng kể, thậm chí không có lãi. Những vấn đề nêu trên đòi hỏi cần có những giải pháp đồng bộ để vừa quản lý được đất sản xuất lúa loại tài sản đã được nhiều nhà khoa học cho là “vàng” không chỉ cho thế hệ hiện tại mà còn cho muôn đời con cháu trong tương lai. Mặt khác cần có những chính sách để đảm bảo lợi ích của người trồng lúa, gia tăng thu nhập để họ có thể yên tâm giữ đất lúa, thâm canh và sản xuất lúa
- 2 có hiệu quả, góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và là nền tảng ổn định xã hội và phát triển kinh tế bền vững đất nước. Để giải quyết bài toán nêu trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 42/2012/NĐCP ngày 11/5/2012 về quản lý đất lúa [19], và được thay thế bằng Nghị định số 35/2015/NĐCP ngày 26/3/2015 [20]. Tiếp theo đó hàng loạt các Nghị định, Quyết định, Thông tư được ban hành nhằm quản lý 3,8 triệu ha đất lúa theo hướng linh hoạt và đảm bảo người trồng lúa tại những vùng sản xuất lúa hàng hoá phải có lãi ít nhất 30%. Mức độ quản lý từ nghiêm ngặt sang quản lý linh hoạt thể hiện sự linh hoạt trong quản lý đất lúa, điều tiết hiệu quả sản xuất lúa đem lại lợi ích cho người trồng lúa thông qua điều chỉnh diện tích gieo trồng lúa theo tín hiệu cung cầu của thị trường, khi nhu cầu lúa gạo thấp cho phép chuyển đổi sang trồng cây hàng năm khác có hiệu quả kinh tế cao hơn nhưng khi cầu thóc gạo tăng có thể tái trồng lúa trở lại. Và để quản lý được đất trồng lúa đòi hỏi với những diện tích chuyển đổi sang trồng lúa vẫn phải thống kê là đất trồng lúa. Để thực hiện mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng đất lúa, Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp (2013) [66] đã trình Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt dự án “Chuyển đổi 262,1 nghìn ha gieo trồng lúa sang trồng cây hàng năm khác như ngô, đậu tương, thức ăn chăn nuôi hoặc nuôi trồng thuỷ sản tuỳ điều kiện sinh thái của vùng giai đoạn 20142016”. Trong đó vùng Trung du miền núi Bắc bộ được xác định là cần chuyển 100,3 nghìn ha, riêng Thái Nguyên có diện tích cần chuyển rất lớn với 12,5 nghìn ha. Huyện Phú Bình là huyện Trung du của tỉnh Thái Nguyên nhưng là trọng điểm trồng lúa của tỉnh, năm 2013 diện tích đất lúa có 7595 ha. Tuy nhiên, cũng như nhiều địa phương khác của cả nước, tình trạng lấy đất canh tác lúa chuyển sang các mục đích như phát triển khu công nghiệp, đô thị, kết cấu hạ tầng... vẫn đang diễn ra. Đặc biệt là việc chuyển đổi sử dụng đất lúa sang trồng cây khác có hiệu quả kinh tế cao vẫn diễn ra mạnh. Từ năm 2000 đến nay, diện tích lúa của huyện đã giảm 1000 ha, không kể diện tích người dân tự ý chuyển đổi sang trồng cây khác có hiệu quả kinh tế cao hơn, gây khó khăn cho công tác quản lý. Do vậy, để vừa giữ được đất trồng lúa theo hướng quy hoạch đảm bảo an ninh
- 3 lương thực, vừa phải chuyển một phần diện tích đất lúa kém hiệu quả sang các cây trồng khác có hiệu quả kinh tế cao nhưng vẫn đảm bảo an ninh lương thực đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, có căn cứ khoa học dựa trên một nghiên cứu toàn diện về đất trồng lúa của huyện bao gồm từ đánh giá hiện trạng đất trồng lúa, chất lượng đất đang trồng lúa; hiệu quả của các loại sử dụng đất trồng lúa, tình hình quản lý Nhà nước về đất trồng lúa... Để góp phần giải quyết được những vấn đề nêu trên, đề tài “Nghiên cứu giải pháp quản lý và sử dụng hiệu quả đất trồng lúa trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên” vừa có cơ sở khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu tổng quát Đánh giá được thực trạng quản lý, sử dụng đất lúa và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất lúa trên địa bàn huyện. 2.2. Mục tiêu cụ thể Đánh giá được tình hình quản lý và sử dụng đất trồng lúa trên địa bàn huyện Phú Bình. Đánh giá được chất lượng đất đai trồng lúa và khả năng thích hợp của đất đai với các loại sử dụng đất lúa. Đề xuất được giải pháp quản lý và sử dụng hiệu quả đất trồng lúa. 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 3.1. Về khoa học Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý và sử dụng đất lúa linh hoạt, hiệu quả trên địa bàn một huyện vùng bán sơn địa và các huyện có điều kiện tương tự. 3.2. Về thực tiễn Giải pháp quản lý và sử dụng đất gắn với các LUT, kiểu sử dụng đất linh hoạt theo 3 cấp độ không chỉ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác
- 4 quản lý Nhà nước về đất đai trồng lúa mà còn góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất trồng lúa, nâng cao giá trị gia tăng, bảo đảm lợi ích của người trồng lúa. 4. Những đóng góp mới của luận án Giải pháp quản lý, sử dụng đất gắn với LUT, kiểu sử dụng đất lúa hiệu quả, linh hoạt theo 3 cấp độ nghiêm ngặt, linh hoạt và cho phép chuyển đổi ngay dựa trên chất lượng đất đai và khả năng thích hợp với cây lúa phù hợp với sự thay đổi cung cầu lúa gạo. Xây dựng được bộ dữ liệu đất đai trồng lúa huyện Phú Bình bao gồm cả dữ liệu không gian và dữ liệu thuộc tính về chất lượng đất đai và khả năng thích hợp đối với trồng lúa làm cơ sở khoa học cho việc quản lý, sử dụng hiệu quả và các nghiên cứu có liên quan.
- 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 1.1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý, sử dụng đất lúa hiệu quả 1.1.1. Một số khái niệm về đất, đất đai, loại sử dụng đất và đất trồng lúa Khái niệm về đất (Soils): thuật ngữ đất được Đôcutraiép (1886) đưa ra và được nhiều nhà khoa học chấp nhận là “Đất là một thể tự nhiên” được hình thành do tác động tổng hợp của 5 yếu tố: khí hậu, sinh vật, đá mẹ, địa hình và tuổi địa phương. Về sau cũng chính tác giả đã bổ sung thêm một yếu tố nữa là tác động của con người. Theo Wiliam, đất là lớp mặt tơi xốp của lục địa có khả năng sản xuất ra những sản phẩm của cây trồng. Ông cũng là người đưa ra khái niệm về độ phì đất là khả năng cung cấp cho cây trồng nước, thức ăn, khoáng chất và các yếu tố cần thiết khác (như không khí, nhiệt độ...) để cây trồng sinh trưởng và phát triển bình thường (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn “Tập 1: Cẩm nang sử dụng đất”, 2009) [5]. Đất đai (land): Theo Brinkman và Smyth (1973) [74], FAO (1976) [77] thì đất đai phải được nhìn nhận dưới góc độ là vật mang của các hệ sinh thái (carrier). Theo quan điểm này đất đai được định nghĩa như sau: Một vạt đất xác định về mặt địa lý là diện tích của bề mặt trái đất với các thuộc tính tương đối ổn định hoặc thay đổi có tính chu kỳ có thể dự đoán được của lớp đệm bên trên, bên trong và bên dưới nó như là: khí hậu, đất (soils), điều kiện địa chất, điều kiện thủy văn, thực vật và động vật, những kết quả hoạt động hiện nay và quá khứ. Ở chừng mực có thể xác định được những thuộc tính có ảnh hưởng có ý nghĩa tới việc sử dụng đất đó của con người trước mắt cũng như lâu dài. Một khoanh đất biểu thị tổng hợp các yếu tố nói trên chính là một đơn vị sinh thái cơ sở hay còn gọi là một đơn vị đất đai (FAO,1976) và nó có một mức độ thích hợp với loại sử dụng đất, trong mức thích hợp đó vẫn có những thuộc tính hạn chế. Các thuộc tính nói trên phản ánh chất lượng đất đai của vạt đất ấy. Chất lượng đất đai của một nhân tố sinh thái, nghĩa là không chỉ dừng lại ở lớp đất mặt (Soils) mà còn phải xem xét các thuộc tính khác có liên quan đến sinh trưởng và phát triển của cây trồng hay vật nuôi. Các thuộc tính này bao gồm: các yếu tố khí hậu như nhiệt độ, lượng
- 6 mưa; các yếu tố thuộc về đặc tính của đất (Soils) như loại đất, thành phần cơ giới, độ phì, độ dộc, nước tưới, tiêu nước... Trần An Phong (1996) [37], Nguyễn Thế Đặng và cs (2003) [28] cho rằng khái niệm đất đai trong đánh giá đất của FAO rộng hơn khái niệm thổ nhưỡng (soils). Theo Nguyễn Văn Toàn (2003) [54], sự khác nhau giữa chất lượng đất đai (Land Qualities) với chất lượng đất (Soil Qualities) là trong các thuộc tính của chất lượng đất đai, ngoài các yếu tố nền là thổ nhưỡng còn có sự tham gia của các yếu tố khí hậu, các yếu tố nước còn chất lượng đất chỉ bao gồm các yếu tố vật lý và hoá học. Chính vì vậy, Vũ Năng Dũng, Nguyễn Văn Toàn (2005) [24] cho rằng, các bản đồ đất tỉ lệ 1/50.000 đến 1/100.000 của các tỉnh phía Bắc được tiến hành vào những năm 1960 và các bản đồ đất của các tỉnh phía Nam sau năm 1975 mới chỉ phản ánh một phần chất lượng đất với những chỉ tiêu đặc trưng như loại đất, địa hình (độ dốc), tầng dày với những đất đồi núi, những đất đồng bằng là cấp địa hình tương đối và độ dày lớp đất canh tác. Do vậy để đánh giá chính xác chất lượng đất đai đòi hỏi phải đặt yếu tố đất trong mối quan hệ với các yếu tố khí hậu như: Nhiệt độ, lượng mưa, ánh sáng, điều kiện tưới và tiêu. Tất cả các chỉ tiêu này đều được phân cấp theo các mức độ rất thích hợp, thích hợp, ít thích hợp và không thích hợp đối với một cây trồng cụ thể. Việc phân cấp các chỉ tiêu theo ngưỡng mức độ thích hợp là thể hiện chất lượng của chỉ tiêu đó đối với một cây trồng cụ thể cần đánh giá như lúa. Theo FAO (1976) [77], do các khoanh đất đai có chứa đựng các thuộc tính khác nhau nên cần phải tách thành đơn vị đất đai và được thể hiện trên bản đồ. FAO (1983) [78], cho thấy tập hợp các đơn vị bản đồ đất đai trong khu vực hoặc vùng nghiên cứu được thể hiện bằng bản đồ đơn vị đất đai. Theo Trần An Phong (1995) [37] do các khu đất đai có các tính chất riêng biệt khác nhau thường được thể hiện bằng các đơn vị bản đồ đất đai (Land Mapping Units). Mỗi đơn vị bản đồ đất đai được khoanh định dựa vào tính đồng nhất của các điều kiện tự nhiên trong một khu vực địa lý nhất định. Cũng theo Trần An Phong (1995), tính chất hay chất lượng đất đai là thuộc tính của đất đai có thể được đo lường hoặc ước lượng được thí dụ như độ dốc, lượng mưa, khả năng tưới, ngập lụt... Tự thân từng tính chất đất đai riêng lẻ không có ý nghĩa với việc sử dụng đất. Do vậy, để so sánh giữa đất đai và việc sử dụng đất đai
- 7 thường được sử dụng chất lượng đất đai (Land Qualities). Chất lượng đất đai là thuộc tính phức tạp của đất đai có tác động đến khả năng thích hợp của đất đai đối với một loại sử dụng đất nào đó. Chất lượng đất đai thường được nhấn mạnh ở khía cạnh hạn chế. Hệ thống sử dụng đất: Hệ thống sử dụng đất là một loại sử dụng đất cụ thể thực hiện trên một đơn vị đất đai và liên quan đến đầu tư, thu nhập và khả năng cải tạo (FAO, 1983). Sử dụng đất trong sản xuất nông nghiệp phản ánh các hoạt động khác nhau như các hệ thống (Land Use System LUS). Những hệ thống sử dụng đất như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, lâm nghiệp… có mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố liên quan đến sản xuất như kỹ thuật công nghệ, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, tổ chức sản xuất, thị trường... (Tôn Thất Chiểu và Đỗ Đình Thuận, 1998) [14]. Loại sử dụng đất đai chính: Đất đai là nguồn tài nguyên cơ bản cho nhiều phương thức sử dụng (Đào Châu Thu và Nguyễn Khang, 1998) [51]: Sử dụng trên cơ sở sản xuất trực tiếp (làm đất canh tác để trồng trọt, làm đồng cỏ, trồng rừng lấy gỗ...); Sử dụng trên cơ sở sản xuất gián tiếp (như làm bãi chăn thả, chuồng trại chăn nuôi); Sử dụng vì mục đích bảo vệ (chống suy thoái đất, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ các loài quý hiếm). Các hình thức sử dụng đất vừa nêu được coi là loại sử dụng đất chính. Ở thời kỳ bình minh của nhân loại, khi con người mới chỉ tạo ra sản phẩm nông nghiệp bằng hình thức tra lỗ bỏ hạt hay thả rông gia súc trên đồng cỏ tự nhiên, đó là các hình thức của loại sử dụng đất chính được gọi là "canh tác nhờ nước mưa”. Sau này khi thuỷ lợi được áp dụng, con người biết đưa nước từ sông hồ vào đồng ruộng để canh tác lúa và hoa màu. Loại sử dụng đất đai chính "nông nghiệp có tưới" ra đời. Loại sử dụng đất và kiểu sử dụng đất đai (Land Use Type LUT): Loại sử dụng đất đai là bức tranh mô tả thực trạng sử dụng đất của một vùng với những phương thức quản lý sản xuất trong các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và kỹ thuật được xác định (Đào Châu Thu và Nguyễn Khang, 1998) [40]: Các thuộc tính loại sử dụng đất bao gồm quy trình sản xuất, các đặc tính về quản lý đất đai như kỹ thuật canh tác, sức kéo trong làm đất, đầu tư kỹ thuật và các đặc tính về kinh tế xã hội như định hướng thị trường, vốn, lao động, vấn đề sở hữu đất đai...
- 8 Đất lúa: Theo Nghị định số 42/2012/NĐCP [19], thì đất lúa bao gồm những đất có điều kiện phù hợp để có thể gieo trồng từ một vụ lúa nước trở lên trong một năm, ngoại trừ đất trồng lúa nương. Các loại sử dụng đất lúa được phân chia chi tiết gồm: (i) Đất chuyên lúa 2 vụ: là đất hiện đang được trồng hoặc có đủ điều kiện trồng từ 2 vụ lúa trở lên trong năm; (ii) Đất chuyên lúa 1 vụ: là đất chỉ trồng được 1 vụ lúa trong năm; (iii) Đất lúa màu: là đất đang được trồng 1 vụ lúa và luân canh với 1 vụ rau màu trở lên trong năm và (iv) Đất lúa thuỷ sản: là đất đang được trồng một vụ lúa trong một năm và luân canh nuôi trồng thủy sản. Theo Thông tư số 28/2014/TTBTNMT ngày 02/6/2014 [9]: Đất lúa là đất ruộng và nương rẫy trồng lúa từ một vụ trở lên hoặc trồng lúa kết hợp với các mục đích khác được pháp luật cho phép nhưng trồng lúa là chính. Đất trồng lúa bao gồm: Đất chuyên trồng lúa nước, đất trồng lúa nước còn lại và đất lúa nương. 1.1.2. Quản lý Nhà nước đối với đất lúa Dẫn theo Bộ Tài nguyên và Môi trường (2012) [8], Quản lý Nhà nước về đất đai có thể có nhiều nghĩa khác nhau tại các nước khác nhau. Quản lý Nhà nước về đất đai có thể đồng nghĩa với quản lý đất đai, tập trung vào cách thức Chính phủ xây dựng và thực hiện các chính sách đất đai và quản lý đất đa i cho tất cả các loại đất không phân biệt quyền sử dụng đất. Cụ thể hơn, đây là quá trình Nhà nước quản lý đất đai thuộc sở hữu của Nhà nước và giao đất cho các mục đích sử dụng khác nhau. Cũng theo Bộ tài nguyên và môi trường (2012) [8], thì “Quản lý Nhà nước là một thuật ngữ được sử dụng chủ yếu tại các nước mà đất đai thuộc sở hữu của Nhà nước để mô tả cách thức Nhà nước quản lý và kiểm soát việc sử dụng đất. Những nước thừa nhận quyền sở hữu chủ yếu tư nhân về đất đai, nhiệm vụ của công tác quản lý đất đai của Chính phủ là giám sát việc sử dụng đất thông qua hệ thống quy hoạch sử dụng đất và hệ thống địa chính. Quản lý đất đai (Land management) bao gồm các quy trình để sử dụng tài nguyên đất có hiệu quả. Đây chủ yếu là trách nhiệm của chủ sở hữu đất. Chính phủ cũng có mục tiêu tăng cường quản lý đất đai hiệu quả như là một phần của mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội bền vững
- 9 Quản lý hành chính về đất đai (Land administration) liên quan đến việc xây dựng cơ chế quản lý quyền đối với đất đai và sử dụng đất, quá trình sử dụng đất và giá trị của đất đai thuộc thẩm quyền của Chính phủ để thúc đẩy quản lý đất đai hiệu quả, bền vững và bảo đảm quyền về tài sản. Theo Terry (1988) [89], thì Quản lý là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý một cách liên tục, có tổ chức, liên kết các thành viên trong tổ chức hành động nhằm đạt tới mục tiêu với kết quả tốt nhất. Thực chất của quản lý là một quá trình bao gồm kế hoạch, tổ chức, vận hành, kiểm soát và thực hiện để hoàn thành mục tiêu bằng cách sử dụng nhân lực và nguồn lực. Quản lý đất đai là quá trình lưu giữ và cập nhật những thông tin về sở hữu, giá trị, sử dụng đất và những thông tin khác liên quan đến đất (United Nations, 1996 [90]). Theo Georgia (2001) [85], Engelke và Vancutsem (2012) [76], quản lý đất đai là quá trình đảm bảo theo luật pháp cho việc sử dụng, phát triển quỹ đất, khai thác lợi nhuận thu được từ đất (thông qua thuế, cho thuê, bán) và giải quyết các tranh chấp liên quan đến đất đai. Quản lý sử dụng đất là sự kết hợp của tất cả các công cụ và kỹ thuật được sử dụng bởi chính quyền để quản lý, sử dụng và phát triển tài nguyên đất. Nội dung quản lý sử dụng đất bao gồm: quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, luật pháp, quyền sử dụng đất, định giá đất và thông tin BĐS (Peter 2008) [88]; World Bank (2010) [94]). Đối tượng quản lý đất đai bao gồm cả đất công và đất tư với những nhiệm vụ chính như: đo đạc đất đai, đăng ký đất đai, định giá đất đai, giám sát sử dụng, lưu giữ và cập nhật các thông tin đất đai, cung cấp các thông tin đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai. Quản lý sử dụng đất là quá trình quản lý sử dụng và phát triển đất đai trong không gian theo định hướng và sự điều phối của chính sách đất đai hiện tại (Vancutsem, 2008 [91]). Quản lý sử dụng đất tập trung vào đất và cách thức sử dụng đất cho mục đích sản xuất, bảo tồn và thẩm mỹ (Verheye, 2010 [93]). Theo Ferber (2009) [84], quản lý sử dụng đất yêu cầu ra quyết định và được xác định bởi mục đích sử dụng nó (như cho sản xuất lương thực, nhà ở, giải trí, khai khoáng…); bởi
- 10 bản chất và giá trị của đất. Nếu như trước đây quản lý sử dụng đất tập trung chủ yếu vào đất nông nghiệp thì ngày nay quản lý đất đai còn phải đối mặt với các vấn đề công nghiệp hóa, đô thị hóa, bảo tồn, khai thác khoáng sản. Tại Việt Nam theo Nghị định số 42/2012/NĐCP [19], thì nội dung quản lý Nhà nước đối với đất lúa ngoài việc tuân thủ các quy định về quản lý đối với đất đai nói chung theo Luật đất đai năm 2003, Luật đất đai sửa đổi năm 2013 bao gồm các mặt như: Quản lý việc giao, cho thuê, chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê lại quyền sử dụng đất; chuyển đổi mục đích sử dụng đất; Điều tra, đánh giá, phân hạng, kiểm kê, thống kê đất; Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Xác định giá đất để bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất; và Quản lý việc sử dụng, bảo vệ, cải tạo và phát triển quỹ đất lúa; Xây dựng và thực hiện các chính sách quản lý đất lúa. 1.1.3. Sử dụng đất lúa hiệu quả và tiêu chí đánh giá sử dụng đất lúa hiệu quả 1.1.3.1. Sử dụng đất lúa hiệu quả Sử dụng đất lúa hiệu quả có thể coi là sử dụng đất lúa bền vững do các tiêu chí về sử dụng đất lúa nói riêng và đất nông nghiệp nói chung đều dựa trên 3 tiêu chí là bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường ngay từ khi có khái niệm về phát triển bền vững. Khái niệm về bền vững được Ủy ban quốc tế về môi trường và phát triển (WCED) đưa ra lần đầu tiên vào năm 1987: “Phát triển bền vững là phát triển để đáp ứng những nhu cầu của thế hệ này mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ mai sau” (JUCN,UNEP, WWF, 1993) [32]. Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững được tổ chức tại Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) đã đưa ra khái niệm được coi là hoàn chỉnh hơn về phát triển bền vững đó là: “Phát triển bền vững là quá trình có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển bao gồm: Phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường”. Cục Bảo vệ môi trường coi đó là 3 trụ cột của sự phát triển bền vững. Theo Phan Huy Thông (2011) [50], cho rằng sử dụng đất nông nghiệp ở nước ta cần hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội trên cơ sở đảm bảo an ninh lương thực và hướng tới xuất khẩu.
- 11 Từ những khái niệm trên đã được phát triển và cụ thể hoá cho từng lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Theo đó, JUCN (2003) [86], đã đưa ra định nghĩa về quản lý sử dụng đất bền vững có thể khái quát là "Quản lý sử dụng đất bền vững bao gồm các quy trình công nghệ, chính sách và các hoạt động nhằm khái quát hoá những nguyên lý cơ bản về kinh tế xã hội và môi trường với mục tiêu đồng thời: Duy trì và nâng cao sản xuất và các dịch vụ (sản xuất); Giảm thiểu rủi ro cho sản xuất (an toàn); Bảo vệ tiềm năng các nguồn lợi tự nhiên và ngăn chặn sự thoái hóa chất lượng đất/nước (bảo vệ); Có khả năng thực thi được về mặt kinh tế (thực thi); Có thể chấp nhận được về mặt xã hội (chấp nhận). Lê Văn Khoa, Lê Văn Đức (2015) [33], thì cho rằng quản lý đất bền vững không thể chỉ là vấn đề công nghệ, kỹ thuật đơn thuần mà cần có sự kết hợp giữa kỹ thuật, công nghệ, kinh tế, luật pháp, chủ trương chính sách, xã hội, nhân văn và môi trường. Theo JUCN (2003) [86]; Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp (2006) [67] đã phát triển những nguyên tắc để các nhà quản lý, nhà kỹ thuật vận dụng trong lập kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất cần phải thay đổi nhận thức trong sử dụng đất, không vì mục tiêu kinh tế đơn thuần mà còn phải quan tâm đến mục tiêu xã hội và bảo vệ môi trường. 1.1.3.2. Tiêu chí đánh giá sử dụng đất lúa hiệu quả và bền vững Để đánh giá tính hiệu quả của sản xuất lúa nói riêng và đất nông nghiệp nói chung, FAO (1995) [82], Beek và cs (1983) [73], cũng đã đưa ra một số tiêu chí để đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và hiệu quả bền vững là: Thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng cơ bản của các thế hệ hiện tại và tương lai về số lượng và chất lượng các sản phẩm nông nghiệp. Cung cấp việc làm lâu dài, đủ thu nhập và các điều kiện sống. Duy trì và tăng cường khả năng tái sản xuất các loại tài nguyên nông nghiệp (đất, nước, cây trồng, động vật nuôi).
- 12 FAO (1995) [82] cũng đã đề xuất chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững (SARD Sustainable Agriculture Rural Development) Phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững với mục tiêu chính là thân thiện với tự nhiên và tuân theo các quy luật tự nhiên. Theo quan điểm của Dumansky thì nền tảng của một nền nông nghiệp bền vững là duy trì tiềm năng sản xuất sinh học, đặc biệt là duy trì chất lượng đất, nước và tính đa dạng sinh học. Nền nông nghiệp bền vững phải đảm bảo được 3 yêu cầu: (1) Quản lý đất bền vững; (2) Cải tiến công nghệ; (3) Nâng cao hiệu quả kinh tế. Trong đó quản lý đất bền vững được đặt lên hàng đầu (Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp, 2006) [67]. Theo Tôn Gia Huyên (2015) [31], cho dù có biến động đến đâu thì con số 26 triệu ha bao gồm cả đất nuôi trồng thuỷ sản vẫn không nên thay đổi Đó là chiếc “áo giáp” vững chắc cho một Việt Nam bền vững trong tương lai. Đây là nền tảng cốt lõi để phát triển đời sống vật chất và thành lập môi trường sinh thái bền vững ở Việt Nam. Với quan điểm này tác giả cho rằng cần phải quản lý chặt quỹ đất nông nghiệp theo nghĩa rộng nhưng không đề cập đến quỹ đất lúa mà hàm ý đã có đất lúa. Như vậy bất kỳ một quốc gia nào muốn phát triển bền vững cần phải có một chiến lược sử dụng đất nông nghiệp bền vững dựa trên những tiêu chí về sử dụng đất nông nghiệp nói chung và đất trồng lúa nói riêng hiệu quả và bền vững bao gồm: bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường. Sử dụng đất bền vững là nhu cầu cấp bách của tất cả quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Hiện tượng sa mạc hóa, lũ lụt, diện tích đất trống đồi núi trọc ngày càng gia tăng là do sử dụng đất đai không hợp lý. Khái niệm bền vững được nhiều nhà khoa học trên thế giới và trong nước (FAO (1993) [81]; Trần An Phong (1995) [37]; Nguyễn Văn Toàn (2002, 2003, 2010) [53], [55], [57]; Phạm Hoàng Hải (2015) [29], nêu ra, chủ yếu hướng vào 3 khía cạnh sau: Bền vững về mặt kinh tế: cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, được thị trường chấp nhận. Bền vững về mặt môi trường: loại sử dụng đất phải bảo vệ được đất đai, ngăn chặn sự thoái hóa, bảo vệ được môi trường tự nhiên. Bền vững về mặt xã hội: thu hút được lao động, đảm bảo đời sống.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý Hành chính công: Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay
27 p | 246 | 80
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý hành chính công: Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
28 p | 237 | 21
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động xây dựng văn hóa nhà trường trung học phổ thông tỉnh Nghệ An trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay
254 p | 21 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý xây dựng: Quản lý nhà nước đối với dự án đầu tư xây dựng theo phương thức đối tác công tư tại Việt Nam
245 p | 32 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý kinh tế: Quản lý nhân lực trong cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế cấp tỉnh ở Sơn La
181 p | 20 | 10
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý di sản thế giới Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội gắn với phát triển du lịch
272 p | 23 | 10
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Phát triển đội ngũ giảng viên ngành Điện công nghiệp ở các trường cao đẳng trực thuộc Bộ Công Thương các tỉnh miền Bắc theo tiếp cận năng lực
299 p | 19 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý kinh tế: Quản lý Quỹ Đầu tư phát triển địa phương - Trường hợp tỉnh Hà Tĩnh
213 p | 14 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý đội ngũ giảng viên theo tiếp cận vị trí việc làm ở các trường đại học địa phương
310 p | 22 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý kinh tế: Chính sách phát triển kết cấu hạ tầng thương mại nông thôn tại vùng Đồng bằng sông Hồng
215 p | 10 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý đào tạo trình độ đại học ngành Chỉ huy Tham mưu Lục quân theo tiếp cận năng lực ở các Trường Sĩ quan Lục quân trong bối cảnh hiện nay
246 p | 12 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động phối hợp đào tạo trình độ đại học giữa trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực nam Đồng bằng sông Hồng với bệnh viện
220 p | 14 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý khoa học và công nghệ: Áp dụng bộ tiêu chuẩn UPM nhằm đánh giá mức độ thích ứng với đổi mới sáng tạo của các trường đại học tại Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư
226 p | 10 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý xây dựng: Nghiên cứu chức năng quản lý trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ tại Việt Nam
189 p | 13 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý kinh tế: Quản lý nhân lực trong cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế cấp tỉnh ở Sơn La
27 p | 13 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động xây dựng văn hóa nhà trường trung học phổ thông tỉnh Nghệ An trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay
36 p | 13 | 4
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý đô thị và công trình: Quản lý rủi ro dự án đầu tư xây dựng công trình bệnh viện - Bộ Y tế
211 p | 11 | 3
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý sự thay đổi trong đào tạo theo tiếp cận CDIO tại các trường Đại học trực thuộc Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam
353 p | 4 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn