intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án tiến sĩ Quản lý đất đai: Nghiên cứu giải pháp quản lý và sử dụng hiệu quả đất trồng lúa trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên

Chia sẻ: Trần Văn Gan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:153

56
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm đánh giá được tình hình quản lý và sử dụng đất trồng lúa trên địa bàn huyện Phú Bình. Đánh giá được chất lượng đất đai trồng lúa và khả năng thích hợp của đất đai với các loại sử dụng đất lúa. Đề xuất được giải pháp quản lý và sử dụng hiệu quả đất trồng lúa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Quản lý đất đai: Nghiên cứu giải pháp quản lý và sử dụng hiệu quả đất trồng lúa trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN __________________________________________________________ BÙI THANH HẢI NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG  HIỆU QUẢ ĐẤT TRỒNG LÚA TRÊN ĐỊA BÀN  HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN  NGÀNH: QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI MàSỐ: 62.85.01.03 LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. GS.TS. ĐẶNG VĂN MINH 2. TS. NGUYỄN VĂN TOÀN
  2. THÁI NGUYÊN ­ 2017
  3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết   quả  nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố  trong bất kì  công trình nào khác. Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận án đều đã được chỉ  rõ nguồn gốc. Tác giả luận án Bùi Thanh Hải
  4. ii LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận án, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình, sự đóng góp   quý báu của nhiều cá nhân và tập thể. Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới GS.TS. Đặng Văn Minh, TS.   Nguyễn Văn Toàn, với cương vị là người hướng dẫn khoa học đã có nhiều đóng   góp to lớn trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án.  Tôi xin trân trọng cảm  ơn lãnh đạo trường Đại học Nông Lâm ­ Đại học   Thái Nguyên, phòng Đào tạo, khoa Quản lý tài nguyên đã tạo điều kiện về cơ sở  vật chất và tinh thần để tôi hoàn thành nghiên cứu của mình. Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo và các đồng nghiệp tại Văn phòng  UBND tỉnh Thái Nguyên, nơi tôi đang công tác đã tạo điều kiện thuận lợi và có   những ý kiến đóng góp quý báu trong quá trình thực hiện luận án.  Nhân đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân và bạn bè   đã động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện về mọi mặt cho tôi trong quá trình thực hiện   luận án này. Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn! Tác giả luận án Bùi Thanh Hải
  5. iii MỤC LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................136 TÀI LIỆU INTERNET.................................................................................144
  6. iv DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1 ANLT An ninh lương thực 2 ANLTQG An ninh lương thực quốc gia 3 BĐKH Biến đổi khí hậu 4 BĐS Bất động sản 5 BNN&PTNT Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 6 CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 7 CPTG Chi phí trung gian 8 ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long 9 DT Diện tích 10 DTĐ Diện tích đất 11 DVD Đơn vị đất 12 DTGT Diện tích gieo trồng 13 GCN Giấy chứng nhận 14 GTGT Giá trị gia tăng 15 GTSP Giá trị sản phẩm 16 GTSX Giá trị sản xuất 17 HQMT Hiệu quả môi trường 18 HQXH Hiệu quả xã hội 19 HSĐT Hiệu suất đầu tư 20 KCN Khu công nghiệp 21 KHKT Khoa học kỹ thuật 22 LUS Hệ thống sử dụng đất 23 LUT Loại hình sử dụng đất 24 NCS Nghiên cứu sinh 25 QHSDĐ Quy hoạch sử dụng đất 26 QLLH Quản lý linh hoạt 27 QLNN Quản lý nghiêm ngặt 28 QLSD Quản lý sử dụng 29 TV Tiểu vùng 30 UBND Ủy ban nhân dân
  7. v DANH MỤC CÁC BẢNG TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................136 TÀI LIỆU INTERNET.................................................................................144
  8. vi DANH MỤC CÁC HÌNH TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................136 TÀI LIỆU INTERNET.................................................................................144
  9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam có diện tích gieo trồng lúa xếp thứ 3 trong số 10 nước gieo trồng   lúa nhiều nhất trên thế giới. Tính từ  1961 đến 2016 diện tích gieo trồng lúa tăng   từ 4,744 triệu ha lên 7,7916 triệu ha, tăng 1,54 lần. Năng suất lúa tăng 1,9 tấn lên  5,6 tấn/ha/vụ, tăng 2,9 lần và sản lượng tăng từ 8,997 triệu tấn (1965) lên 43,619  triệu tấn (2016), tương  ứng 4,8 lần. So với bình quân chung của thế  giới về  số  lần tăng về diện tích gieo trồng tương đương 1,54 lần/1,5 lần. Năng suất lúa gia  tăng lớn hơn nhiều (2,9 lần/2,1 lần) và sản lượng cũng gia tăng cao hơn (4,8  lần/3,14 lần). Việt Nam chấm dứt tình trạng thiếu lương thực trong gần 25 năm,   năm cao nhất là năm 1974 thiếu hụt 1,26 triệu tấn lương thực ( Trần Văn Đạt,  2010) [75]. Từ  năm 1990 nước ta lại tiếp tục xuất khẩu gạo sau một thời gian   gián đoạn do chiến tranh và từ  năm 2010 đến nay đều xuất khẩu trên 6 triệu  tấn/năm, đưa nước ta trở thành nước xuất gạo lớn thứ 2 trên thế giới trong nhiều   năm (FAO STAT, 2017) [95], (Viện Quy hoạch và Thiết kế  Nông nghiệp, 2017)  [65]. Tuy nhiên từ  năm 2000 đến năm 2010 diện tích đất lúa đã giảm từ  4.468   nghìn ha xuống còn 4.165 nghìn ha, giảm 303 nghìn ha, trung bình mỗi năm giảm  30,3 nghìn ha. Tình trạng giảm diện tích đất lúa nhiều trong giai đoạn này không  những chỉ do chuyển đổi mục đích sang trồng cây trồng khác có hiệu quả kinh tế  cao hơn mà còn do chuyển đổi mục đích khác như  phát triển đô thị, khu công   nghiệp, hạ  tầng kỹ  thuật phục vụ  công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.  Tình trạng chuyển đổi sử dụng đất lúa sang các cây trồng lâu năm, cây hàng năm   hoặc nuôi trồng thuỷ  sản tiếp tục diễn ra do cán cân cung cầu lúa gạo thế  giới   luôn thay đổi kéo theo sự  thay đổi giá lúa gạo trong nước giảm thấp và có xu   hướng không ổn định. Giá vật tư bao gồm cả phân bón, hoá chất bảo vệ, chi phí  lao động ngày càng gia tăng nhưng giá bán lúa gạo không tăng hoặc tăng không  đáng kể dẫn đến hiệu quả sản xuất lúa thấp, lợi nhuận không đáng kể, thậm chí  không có lãi. Những vấn đề nêu trên đòi hỏi cần có những giải pháp đồng bộ để  vừa quản lý được đất sản xuất lúa ­ loại tài sản đã được nhiều nhà khoa học cho  là “vàng” không chỉ  cho thế  hệ  hiện tại mà còn cho muôn đời con cháu trong   tương lai. Mặt khác cần có những chính sách để đảm bảo lợi ích của người trồng   lúa, gia tăng thu nhập để họ có thể yên tâm giữ đất lúa, thâm canh và sản xuất lúa 
  10. 2 có hiệu quả, góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và là nền tảng  ổn  định xã hội và phát triển kinh tế bền vững đất nước.  Để   giải   quyết   bài   toán   nêu   trên,  Chính   phủ   đã   ban   hành   Nghị   định   số  42/2012/NĐ­CP ngày 11/5/2012 về  quản lý đất lúa [19], và được thay thế  bằng  Nghị  định số  35/2015/NĐ­CP ngày 26/3/2015  [20].  Tiếp theo đó hàng loạt các  Nghị định, Quyết định, Thông tư được ban hành nhằm quản lý 3,8 triệu ha đất lúa   theo hướng linh hoạt và đảm bảo người trồng lúa tại những vùng sản xuất lúa  hàng hoá phải có lãi ít nhất 30%. Mức độ  quản lý từ  nghiêm ngặt sang quản lý  linh hoạt thể hiện sự linh hoạt trong quản lý đất lúa, điều tiết hiệu quả sản xuất   lúa đem lại lợi ích cho người trồng lúa thông qua điều chỉnh diện tích gieo trồng   lúa theo tín hiệu cung cầu của thị  trường, khi nhu cầu lúa gạo thấp cho phép   chuyển đổi sang trồng cây hàng năm khác có hiệu quả kinh tế cao hơn nhưng khi   cầu thóc gạo tăng có thể  tái trồng lúa trở  lại. Và để  quản lý được đất trồng lúa   đòi hỏi với những diện tích chuyển đổi sang trồng lúa vẫn phải thống kê là đất  trồng lúa. Để  thực hiện mục tiêu nâng cao hiệu quả  sử  dụng đất lúa, Viện Quy  hoạch và Thiết kế nông nghiệp (2013) [66] đã trình Bộ Nông nghiệp và Phát triển  nông thôn phê duyệt dự án “Chuyển đổi 262,1 nghìn ha gieo trồng lúa sang trồng   cây hàng năm khác như  ngô, đậu tương, thức ăn chăn nuôi hoặc nuôi trồng thuỷ  sản tuỳ điều kiện sinh thái của vùng giai đoạn 2014­2016”. Trong đó vùng Trung  du miền núi Bắc bộ  được xác định là cần chuyển 100,3 nghìn ha, riêng Thái  Nguyên có diện tích cần chuyển rất lớn với 12,5 nghìn ha.  Huyện Phú Bình là huyện Trung du của tỉnh Thái Nguyên nhưng là trọng  điểm trồng lúa của tỉnh, năm 2013 diện tích đất lúa có 7595 ha. Tuy nhiên, cũng   như nhiều địa phương khác của cả nước, tình trạng lấy đất canh tác lúa chuyển   sang các mục đích như phát triển khu công nghiệp, đô thị, kết cấu hạ tầng... vẫn   đang diễn ra. Đặc biệt là việc chuyển đổi sử dụng đất lúa sang trồng cây khác có   hiệu quả kinh tế cao vẫn diễn ra  mạnh. Từ năm 2000 đến nay, diện tích lúa của  huyện đã giảm 1000 ha, không kể  diện tích người dân tự  ý chuyển đổi sang  trồng cây khác có hiệu quả kinh tế cao hơn, gây khó khăn cho công tác quản lý.   Do vậy, để vừa giữ được đất trồng lúa theo hướng quy hoạch đảm bảo an ninh  
  11. 3 lương thực, vừa phải chuyển một phần diện tích đất lúa kém hiệu quả sang các  cây trồng khác có hiệu quả  kinh tế cao nhưng vẫn đảm bảo an ninh lương thực  đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, có căn cứ  khoa học dựa trên một   nghiên cứu toàn diện về đất trồng lúa của huyện bao gồm từ đánh giá hiện trạng  đất trồng lúa, chất lượng đất đang trồng lúa; hiệu quả của các loại sử dụng đất   trồng lúa, tình hình quản lý Nhà nước về đất trồng lúa... Để góp phần giải quyết  được những vấn đề nêu trên, đề tài “Nghiên cứu giải pháp quản lý và sử dụng   hiệu quả  đất trồng lúa trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên” vừa  có cơ sở khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. 2. Mục tiêu nghiên cứu  2.1. Mục tiêu tổng quát Đánh giá được thực trạng quản lý, sử dụng đất lúa và đề  xuất giải pháp  nâng cao hiệu quả sử dụng đất lúa trên địa bàn huyện. 2.2. Mục tiêu cụ thể  ­ Đánh giá được  tình hình  quản lý và sử  dụng đất trồng lúa trên địa bàn  huyện Phú Bình. ­ Đánh giá được chất lượng đất đai trồng lúa và khả  năng thích hợp  của  đất đai với các loại sử dụng đất lúa. ­ Đề xuất được giải pháp quản lý và sử dụng hiệu quả đất trồng lúa. 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 3.1. Về khoa học Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý và sử dụng   đất lúa linh hoạt, hiệu quả trên địa bàn một huyện vùng bán sơn địa và các huyện  có điều kiện tương tự. 3.2. Về thực tiễn  Giải pháp quản lý và sử dụng đất gắn với các LUT, kiểu sử dụng đất linh  hoạt theo 3 cấp độ không chỉ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác 
  12. 4 quản lý Nhà nước về  đất đai trồng lúa mà còn góp phần nâng cao hiệu quả  sử  dụng đất trồng lúa, nâng cao giá trị gia tăng, bảo đảm lợi ích của người trồng lúa.  4. Những đóng góp mới của luận án ­ Giải pháp quản lý, sử dụng đất gắn với LUT, kiểu sử dụng đất lúa hiệu   quả, linh hoạt theo 3 cấp độ nghiêm ngặt, linh hoạt và cho phép chuyển đổi ngay  dựa trên chất lượng đất đai  và khả  năng thích hợp với cây lúa  phù hợp với sự  thay đổi cung cầu lúa gạo.  ­ Xây dựng được bộ dữ liệu đất đai trồng lúa huyện Phú Bình bao gồm cả  dữ liệu không gian và dữ liệu thuộc tính về chất lượng đất đai và khả năng thích  hợp đối với trồng lúa làm cơ sở khoa học cho việc quản lý, sử dụng hiệu quả và  các nghiên cứu có liên quan. 
  13. 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 1.1. Một số vấn đề  lý luận và thực tiễn về  quản lý, sử  dụng đất lúa hiệu  quả 1.1.1. Một số khái niệm về đất, đất đai, loại sử dụng đất và đất trồng lúa Khái niệm về  đất (Soils): thuật ngữ đất được Đô­cu­trai­ép (1886) đưa ra  và được nhiều nhà khoa học chấp nhận là “Đất là một thể  tự  nhiên” được hình   thành do tác động tổng hợp của 5 yếu tố: khí hậu, sinh vật, đá mẹ, địa hình và tuổi   địa phương. Về sau cũng chính tác giả đã bổ sung thêm một yếu tố nữa là tác động  của con người. Theo Wiliam, đất là lớp mặt tơi xốp của lục địa có khả năng sản   xuất ra những sản phẩm của cây trồng. Ông cũng là người đưa ra khái niệm về  độ phì đất là khả năng cung cấp cho cây trồng nước, thức ăn, khoáng chất và các   yếu tố  cần thiết khác (như  không khí, nhiệt độ...) để  cây trồng sinh trưởng và   phát triển bình thường (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn “Tập 1: Cẩm nang   sử dụng đất”, 2009) [5].  Đất đai (land): Theo Brinkman và Smyth (1973) [74], FAO (1976) [77] thì  đất đai phải được nhìn nhận dưới góc độ là vật mang của các hệ sinh thái (carrier).  Theo quan điểm này đất đai được định nghĩa như  sau: Một vạt đất xác định về  mặt địa lý là diện tích của bề  mặt trái đất với các thuộc tính tương đối  ổn định  hoặc thay đổi có tính chu kỳ có thể dự đoán được của lớp đệm bên trên, bên trong  và bên dưới nó như là: khí hậu, đất (soils), điều kiện địa chất, điều kiện thủy văn,   thực vật và động vật, những kết quả  hoạt động hiện nay và quá khứ.  Ở  chừng  mực có thể xác định được những thuộc tính có ảnh hưởng có ý nghĩa tới việc sử  dụng đất đó của con người trước mắt cũng như lâu dài. Một khoanh đất biểu thị  tổng hợp các yếu tố nói trên chính là một đơn vị sinh thái cơ sở hay còn gọi là một   đơn vị đất đai (FAO,1976) và nó có một mức độ  thích hợp với loại sử dụng đất,   trong mức thích hợp đó vẫn có những thuộc tính hạn chế. Các thuộc tính nói trên   phản ánh chất lượng đất đai của vạt đất ấy. Chất lượng đất đai của một nhân tố  sinh thái, nghĩa là không chỉ dừng lại  ở lớp đất mặt (Soils) mà còn phải xem xét  các thuộc tính khác có liên quan đến sinh trưởng và phát triển của cây trồng hay   vật nuôi. Các thuộc tính này bao gồm: các yếu tố  khí hậu như  nhiệt độ, lượng 
  14. 6 mưa; các yếu tố  thuộc về  đặc tính của đất (Soils) như  loại đất, thành phần cơ  giới, độ phì, độ dộc, nước tưới, tiêu nước...  Trần An Phong (1996) [37], Nguyễn Thế Đặng và cs (2003) [28] cho rằng  khái niệm đất đai trong đánh giá đất của FAO rộng hơn khái niệm thổ  nhưỡng   (soils). Theo Nguyễn Văn Toàn (2003) [54], sự khác nhau giữa chất lượng đất đai  (Land Qualities) với chất lượng đất (Soil Qualities) là trong các thuộc tính của  chất lượng đất đai, ngoài các yếu tố  nền là thổ  nhưỡng còn có sự  tham gia của   các yếu tố khí hậu, các yếu tố nước còn chất lượng đất chỉ bao gồm các yếu tố  vật lý và hoá học. Chính vì vậy, Vũ Năng Dũng, Nguyễn Văn Toàn (2005) [24]   cho rằng, các bản đồ đất tỉ lệ 1/50.000 đến 1/100.000 của các tỉnh phía Bắc được   tiến hành vào những năm 1960 và các bản đồ đất của các tỉnh phía Nam sau năm  1975 mới chỉ  phản ánh một phần chất lượng đất với những chỉ  tiêu đặc trưng   như loại đất, địa hình (độ dốc), tầng dày với những đất đồi núi, những đất đồng   bằng là cấp địa hình tương đối và độ  dày lớp đất canh tác. Do vậy để  đánh giá   chính xác chất lượng đất đai đòi hỏi phải đặt yếu tố đất trong mối quan hệ với   các yếu tố khí hậu như: Nhiệt độ, lượng mưa, ánh sáng, điều kiện tưới và tiêu.   Tất cả các chỉ  tiêu này đều được phân cấp theo các mức độ  rất thích hợp, thích  hợp, ít thích hợp và không thích hợp đối với một cây trồng cụ thể. Việc phân cấp  các chỉ tiêu theo ngưỡng mức độ thích hợp là thể hiện chất lượng của chỉ tiêu đó  đối với một cây trồng cụ thể cần đánh giá như lúa. Theo FAO (1976) [77], do các   khoanh đất đai có chứa đựng các thuộc tính khác nhau nên cần phải tách thành đơn   vị đất đai và được thể  hiện trên bản đồ. FAO (1983) [78], cho thấy tập hợp các   đơn vị  bản đồ  đất đai trong khu vực hoặc vùng nghiên cứu được thể  hiện bằng   bản đồ đơn vị đất đai.  Theo Trần An Phong (1995) [37] do các khu đất đai có các tính chất riêng  biệt khác nhau thường được thể  hiện bằng các đơn vị  bản đồ  đất đai (Land  Mapping Units). Mỗi đơn vị bản đồ đất đai được khoanh định dựa vào tính đồng  nhất của các điều kiện tự  nhiên trong một khu vực địa lý nhất định. Cũng theo   Trần An Phong (1995), tính chất hay chất lượng đất đai là thuộc tính của đất đai  có thể được đo lường hoặc ước lượng được thí dụ như độ dốc, lượng mưa, khả  năng tưới, ngập lụt... Tự thân từng tính chất đất đai riêng lẻ không có ý nghĩa với   việc sử  dụng đất. Do vậy, để  so sánh giữa đất đai và việc sử  dụng đất đai 
  15. 7 thường được sử dụng chất lượng đất đai (Land Qualities). Chất lượng đất đai là   thuộc tính phức tạp của đất đai có tác động đến khả  năng thích hợp của đất đai   đối với một loại sử  dụng đất nào đó. Chất lượng đất đai thường được nhấn   mạnh ở khía cạnh hạn chế.  Hệ thống sử dụng đất: Hệ thống sử dụng đất là một loại sử dụng đất cụ  thể  thực hiện trên một đơn vị  đất đai và liên quan đến đầu tư, thu nhập và khả  năng cải tạo (FAO, 1983). Sử dụng đất trong sản xuất nông nghiệp phản ánh các   hoạt động khác nhau như  các hệ  thống (Land Use System ­ LUS). Những hệ  thống sử dụng đất như  trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, lâm nghiệp…   có mối quan hệ  chặt chẽ  với các yếu tố  liên quan đến sản xuất như  kỹ  thuật  công nghệ, điều kiện tự  nhiên, kinh tế  ­ xã hội, tổ  chức sản xuất, thị  trường...   (Tôn Thất Chiểu và Đỗ Đình Thuận, 1998) [14].  Loại sử dụng đất đai chính: Đất đai là nguồn tài nguyên cơ bản cho nhiều   phương thức sử  dụng (Đào Châu Thu và Nguyễn Khang, 1998) [51]: Sử  dụng   trên cơ sở sản xuất trực tiếp (làm đất canh tác để  trồng trọt, làm đồng cỏ, trồng  rừng lấy gỗ...); Sử  dụng trên cơ  sở  sản xuất gián tiếp (như  làm bãi chăn thả,   chuồng trại chăn nuôi); Sử  dụng vì mục đích bảo vệ  (chống suy thoái đất, bảo  tồn đa dạng sinh học, bảo vệ các loài quý hiếm). Các hình thức sử dụng đất vừa   nêu được coi là loại sử dụng đất chính.  Ở thời kỳ  bình minh của nhân loại, khi  con người mới chỉ tạo ra sản phẩm nông nghiệp bằng hình thức tra lỗ bỏ hạt hay   thả rông gia súc trên đồng cỏ  tự nhiên, đó là các hình thức của loại sử dụng đất  chính được gọi là "canh tác nhờ nước mưa”. Sau này khi thuỷ lợi được áp dụng,  con người biết đưa nước từ sông hồ vào đồng ruộng để canh tác lúa và hoa màu.  Loại sử dụng đất đai chính "nông nghiệp có tưới" ra đời.  Loại sử dụng đất và kiểu sử dụng đất đai (Land Use Type ­ LUT):  Loại sử  dụng đất đai là bức tranh mô tả  thực trạng sử dụng đất của một vùng với những   phương thức quản lý sản xuất trong các điều kiện tự nhiên, kinh tế ­ xã hội và kỹ  thuật được xác định (Đào Châu Thu và Nguyễn Khang, 1998) [40]: Các thuộc tính  loại sử dụng đất bao gồm quy trình sản xuất, các đặc tính về quản lý đất đai như  kỹ thuật canh tác, sức kéo trong làm đất, đầu tư kỹ thuật và các đặc tính về kinh tế ­  xã hội như định hướng thị trường, vốn, lao động, vấn đề sở hữu đất đai... 
  16. 8 Đất   lúa:  Theo   Nghị   định   số  42/2012/NĐ­CP   [19],  thì   đất   lúa   bao   gồm  những đất có điều kiện phù hợp để có thể gieo trồng từ một vụ lúa nước trở lên   trong một năm, ngoại trừ  đất trồng lúa nương. Các loại sử  dụng đất lúa được  phân chia chi tiết gồm: (i) Đất chuyên lúa 2 vụ: là đất hiện đang được trồng hoặc   có đủ điều kiện trồng từ 2 vụ lúa trở lên trong năm; (ii) Đất chuyên lúa 1 vụ: là đất  chỉ trồng được 1 vụ lúa trong năm; (iii) Đất lúa ­ màu: là đất đang được trồng 1 vụ  lúa và luân canh với 1 vụ rau màu trở lên trong năm và (iv) Đất lúa ­ thuỷ sản: là đất   đang được trồng một vụ lúa trong một năm và luân canh nuôi trồng thủy sản. Theo   Thông  tư  số  28/2014/TT­BTNMT  ngày  02/6/2014 [9]:   Đất lúa   là   đất  ruộng và  nương rẫy trồng lúa từ  một vụ  trở  lên hoặc trồng lúa kết hợp với các mục đích   khác được pháp luật cho phép nhưng trồng lúa là chính. Đất trồng lúa bao gồm: Đất  chuyên trồng lúa nước, đất trồng lúa nước còn lại và đất lúa nương. 1.1.2. Quản lý Nhà nước đối với đất lúa  Dẫn theo Bộ Tài nguyên và Môi trường (2012) [8], Quản lý Nhà nước về  đất đai có thể  có nhiều nghĩa khác nhau tại các nước khác nhau. Quản lý  Nhà  nước   về   đất   đai   có   thể đồng   nghĩa với quản   lý   đất đai, tập   trung  vào cách thức Chính phủ xây dựng và thực hiện các chính sách đất đai và quản lý  đất đa i cho tất cả các loại đất không phân biệt quyền sử dụng đất. Cụ  thể hơn,  đây   là   quá   trình   Nhà   nước quản   lý đất   đai thuộc   sở   hữu   của Nhà   nước  và giao đất cho các mục đích sử dụng khác nhau. Cũng theo Bộ tài nguyên và môi trường (2012) [8], thì “Quản lý Nhà nước  là một thuật ngữ  được sử  dụng chủ  yếu tại các nước mà đất đai thuộc sở  hữu  của Nhà nước để mô tả cách thức Nhà nước quản lý và kiểm soát việc sử dụng  đất. Những nước thừa nhận quyền sở hữu chủ yếu tư nhân về đất đai, nhiệm vụ  của công tác quản lý đất đai của Chính phủ là giám sát việc sử  dụng đất thông  qua hệ thống quy hoạch sử dụng đất và hệ thống địa chính.  Quản lý đất đai (Land management) bao gồm các quy trình để sử dụng tài  nguyên đất có hiệu quả. Đây chủ yếu là trách nhiệm của chủ  sở hữu đất. Chính  phủ cũng   có   mục   tiêu tăng   cường quản   lý   đất   đai hiệu   quả   như   là   một  phần của mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội bền vững
  17. 9 Quản lý hành chính về đất đai (Land administration) liên quan đến việc  xây  dựng  cơ  chế   quản  lý quyền đối với  đất  đai  và sử  dụng đất, quá  trình  sử  dụng đất và giá   trị   của đất đai   thuộc   thẩm   quyền của Chính phủ để   thúc  đẩy quản lý đất đai hiệu quả, bền vững và bảo đảm quyền về tài sản. Theo Terry (1988) [89], thì Quản lý là sự tác động có chủ đích của chủ thể  quản lý tới đối tượng quản lý một cách liên tục, có tổ chức, liên kết các thành viên   trong tổ  chức hành động nhằm đạt tới mục tiêu với kết quả  tốt nhất. Thực chất   của quản lý là một quá trình bao gồm kế hoạch, tổ chức, vận hành, kiểm soát và  thực hiện để hoàn thành mục tiêu bằng cách sử dụng nhân lực và nguồn lực. Quản lý đất đai là quá trình lưu giữ và cập nhật những thông tin về sở hữu,   giá trị, sử  dụng đất và những thông tin khác liên quan đến đất (United Nations,   1996 [90]). Theo Georgia (2001) [85], Engelke và Vancutsem (2012) [76], quản lý   đất đai là quá trình đảm bảo theo luật pháp cho việc sử dụng, phát triển quỹ đất,  khai thác lợi nhuận thu được từ đất (thông qua thuế, cho thuê, bán) và giải quyết  các tranh chấp liên quan đến đất đai. Quản lý sử dụng đất là sự kết hợp của tất cả các công cụ và kỹ thuật được   sử dụng bởi chính quyền để quản lý, sử dụng và phát triển tài nguyên đất. Nội dung  quản lý sử dụng đất bao gồm: quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, luật pháp, quyền  sử  dụng đất, định giá đất và thông tin BĐS (Peter 2008) [88]; World Bank (2010)   [94]). Đối tượng quản lý đất đai bao gồm cả  đất công và đất tư  với những   nhiệm vụ chính như: đo đạc đất đai, đăng ký đất đai, định giá đất đai, giám sát sử  dụng, lưu giữ và cập nhật các thông tin đất đai, cung cấp các thông tin đất đai và  giải quyết tranh chấp đất đai. Quản lý sử dụng đất là quá trình quản lý sử dụng  và phát triển đất đai trong không gian theo định hướng và sự điều phối của chính  sách đất đai hiện tại (Vancutsem, 2008 [91]). Quản lý sử dụng đất tập trung vào đất và cách thức sử dụng đất cho mục   đích sản xuất, bảo tồn và thẩm mỹ  (Verheye, 2010 [93]). Theo Ferber (2009)  [84], quản lý sử dụng đất yêu cầu ra quyết định và được xác định bởi mục đích   sử  dụng nó (như  cho sản xuất lương thực, nhà  ở, giải trí, khai khoáng…); bởi 
  18. 10 bản chất và giá trị  của đất. Nếu như  trước đây quản lý sử  dụng đất tập trung  chủ yếu vào đất nông nghiệp thì ngày nay quản lý đất đai còn phải đối mặt với   các vấn đề công nghiệp hóa, đô thị hóa, bảo tồn, khai thác khoáng sản. Tại Việt Nam theo Nghị định số 42/2012/NĐ­CP [19], thì nội dung quản lý  Nhà nước đối với đất lúa ngoài việc tuân thủ các quy định về quản lý đối với đất  đai nói chung theo Luật đất đai năm 2003, Luật đất đai sửa đổi năm 2013 bao   gồm các mặt như: Quản lý việc giao, cho thuê, chuyển đổi, chuyển nhượng, cho   thuê lại quyền sử  dụng đất; chuyển đổi mục đích sử  dụng đất; Điều tra, đánh   giá, phân hạng, kiểm kê, thống kê đất; Quy hoạch, kế  hoạch sử dụng đất; Xác   định giá đất để bồi thường, hỗ  trợ  khi thu hồi đất, giao đất có thu tiền sử dụng  đất, cho thuê đất; và Quản lý việc sử dụng, bảo vệ, cải tạo và phát triển quỹ đất  lúa; Xây dựng và thực hiện các chính sách quản lý đất lúa.  1.1.3. Sử  dụng đất lúa hiệu quả  và tiêu chí đánh giá sử  dụng đất lúa hiệu   quả  1.1.3.1. Sử dụng đất lúa hiệu quả Sử  dụng đất lúa hiệu quả  có thể  coi là sử  dụng đất lúa bền vững do các  tiêu chí về sử dụng đất lúa nói riêng và đất nông nghiệp nói chung đều dựa trên 3  tiêu chí là bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường ngay từ khi có khái niệm về  phát triển bền vững. Khái niệm về  bền vững  được  Ủy ban quốc tế  về  môi  trường và phát triển (WCED) đưa ra lần đầu tiên vào năm 1987: “Phát triển bền  vững là phát triển để đáp ứng những nhu cầu của thế hệ này mà không làm tổn  hại đến khả  năng đáp  ứng nhu cầu của thế  hệ  mai sau”   (JUCN,UNEP, WWF,  1993) [32].  Năm 2002, Hội nghị  thượng đỉnh thế  giới về  phát triển bền vững  được tổ chức tại Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) đã đưa ra khái niệm được coi  là hoàn chỉnh hơn về phát triển bền vững đó là: “Phát triển bền vững là quá trình   có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển bao gồm:  Phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ  môi trường”. Cục Bảo vệ  môi  trường coi đó là 3 trụ  cột của sự  phát triển bền vững. Theo Phan Huy Thông   (2011) [50], cho rằng sử dụng đất nông nghiệp ở nước ta cần hướng tới mục tiêu   nâng cao hiệu quả  kinh tế, xã hội trên cơ  sở  đảm bảo an ninh lương thực và  hướng tới xuất khẩu.
  19. 11 Từ  những khái niệm trên đã được phát triển và cụ  thể  hoá cho từng lĩnh  vực khác nhau của nền kinh tế. Theo đó, JUCN (2003) [86], đã đưa ra định nghĩa   về quản lý sử dụng đất bền vững có thể khái quát là "Quản lý sử dụng đất bền  vững bao gồm các quy trình công nghệ, chính sách và các hoạt động nhằm khái  quát hoá những nguyên lý cơ  bản về  kinh tế  ­ xã hội và môi trường với mục   tiêu đồng thời: ­ Duy trì và nâng cao sản xuất và các dịch vụ (sản xuất); ­ Giảm thiểu rủi ro cho sản xuất (an toàn); ­ Bảo vệ tiềm năng các nguồn lợi tự nhiên và ngăn chặn sự thoái hóa chất  lượng đất/nước (bảo vệ); ­ Có khả năng thực thi được về mặt kinh tế (thực thi); ­ Có thể chấp nhận được về mặt xã hội (chấp nhận). Lê Văn Khoa, Lê Văn Đức (2015) [33], thì cho rằng quản lý đất bền vững   không thể  chỉ  là vấn đề  công nghệ, kỹ  thuật đơn thuần mà cần có sự  kết hợp  giữa kỹ thuật, công nghệ, kinh tế, luật pháp, chủ trương chính sách, xã hội, nhân  văn và môi trường. Theo JUCN (2003) [86]; Viện Quy hoạch và Thiết kế  nông  nghiệp (2006) [67] đã phát triển những nguyên tắc để  các nhà quản lý, nhà kỹ  thuật vận dụng trong lập kế  hoạch, quy hoạch sử dụng đất cần phải thay đổi   nhận thức trong sử dụng đất, không vì mục tiêu kinh tế  đơn thuần mà còn phải  quan tâm đến mục tiêu xã hội và bảo vệ môi trường.  1.1.3.2. Tiêu chí đánh giá sử dụng đất lúa hiệu quả và bền vững Để  đánh giá tính hiệu quả của sản xuất lúa nói riêng và đất nông nghiệp   nói chung, FAO (1995) [82], Beek và cs (1983) [73], cũng đã đưa ra một số  tiêu  chí để đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và hiệu quả bền vững là: ­ Thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng cơ bản của các thế hệ hiện tại và tương  lai về số lượng và chất lượng các sản phẩm nông nghiệp. ­ Cung cấp việc làm lâu dài, đủ thu nhập và các điều kiện sống. ­ Duy trì và tăng cường khả  năng tái sản xuất các loại tài nguyên nông  nghiệp (đất, nước, cây trồng, động vật nuôi).
  20. 12 FAO (1995) [82] cũng đã đề  xuất chương trình phát triển nông nghiệp,  nông thôn bền vững (SARD ­ Sustainable Agriculture Rural Development) ­ Phát  triển nông nghiệp, nông thôn bền vững với mục tiêu chính là thân thiện với tự  nhiên và tuân theo các quy luật tự nhiên. Theo quan điểm của Dumansky thì nền tảng của một nền nông nghiệp  bền vững là duy trì tiềm năng sản xuất sinh học, đặc biệt là duy trì chất lượng   đất, nước và tính đa dạng sinh học. Nền nông nghiệp bền vững phải đảm bảo   được 3 yêu cầu: (1) Quản lý đất bền vững; (2) Cải tiến công nghệ; (3) Nâng cao   hiệu quả  kinh tế. Trong đó quản lý đất bền vững được đặt lên hàng đầu (Viện   Quy hoạch và Thiết kế  nông nghiệp, 2006) [67].   Theo Tôn Gia Huyên (2015)  [31], cho dù có biến động đến đâu thì con số  26 triệu ha bao gồm cả  đất nuôi   trồng thuỷ  sản vẫn không nên thay đổi ­ Đó là chiếc “áo giáp” vững chắc cho   một Việt Nam bền vững trong tương lai. Đây là nền tảng cốt lõi để  phát triển   đời sống vật chất và thành lập môi trường sinh thái bền vững  ở Việt Nam. Với  quan điểm này tác giả cho rằng cần phải quản lý chặt quỹ đất nông nghiệp theo  nghĩa rộng nhưng không đề cập đến quỹ đất lúa mà hàm ý đã có đất lúa.  Như vậy bất kỳ một quốc gia nào muốn phát triển bền vững cần phải có  một chiến lược sử dụng đất nông nghiệp bền vững dựa trên những tiêu chí về sử  dụng đất nông nghiệp nói chung và đất trồng lúa nói riêng hiệu quả và bền vững   bao gồm: bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường.   Sử dụng đất bền vững là nhu cầu cấp bách của tất cả  quốc gia trên thế  giới trong đó có Việt Nam. Hiện tượng sa mạc hóa, lũ lụt, diện tích đất trống đồi   núi trọc ngày càng gia tăng là do sử  dụng đất đai không hợp lý. Khái niệm bền  vững được nhiều nhà khoa học trên thế  giới và trong nước (FAO (1993) [81];  Trần An Phong (1995) [37]; Nguyễn Văn Toàn (2002, 2003, 2010) [53], [55], [57];  Phạm Hoàng Hải (2015) [29], nêu ra, chủ yếu hướng vào 3 khía cạnh sau: ­ Bền vững về mặt kinh tế: cây trồng cho hiệu quả  kinh tế cao, được thị  trường chấp nhận. ­ Bền vững về  mặt môi trường: loại sử  dụng đất phải bảo vệ  được đất  đai, ngăn chặn sự thoái hóa, bảo vệ được môi trường tự nhiên. ­ Bền vững về mặt xã hội: thu hút được lao động, đảm bảo đời sống.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2