intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Quản trị kinh doanh: Nâng cao năng lực quản lý chuỗi cung ứng trong công tác khám, chữa bệnh tại các bệnh viện Quân y trên địa bàn Hà Nội – Bệnh viện 108, 103, 354

Chia sẻ: Cothumenhmong6 Cothumenhmong6 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:191

61
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án phân tích thực trạng năng lực quản lý chuỗi cung ứng trong công tác khám, chữa bệnh tại các Bệnh viện Quân y trên địa bàn Hà Nội (Bệnh viện 108, 103 và 354) qua các tiêu chí đánh giá, đồng thời xác định và phân tích mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới năng lực quản lý chuỗi cung ứng trong công tác khám, chữa bệnh tại các Bệnh viện Quân y trên địa bàn Hà Nội. Luận giải và đưa ra các giải pháp nâng cao năng lực quản lý chuỗi cung ứng trong công tác khám, chữa bệnh tại các Bệnh viện Quân y trong địa bàn Hà Nội giai đoạn 2019-2025.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Quản trị kinh doanh: Nâng cao năng lực quản lý chuỗi cung ứng trong công tác khám, chữa bệnh tại các bệnh viện Quân y trên địa bàn Hà Nội – Bệnh viện 108, 103, 354

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI _________________________ NGHIÊM THANH HUY NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ  CHUỖI CUNG ỨNG TRONG CÔNG TÁC KHÁM,  CHỮA BỆNH TẠI CÁC BỆNH VIỆN QUÂN Y TRÊN  ĐỊA BÀN HÀ NỘI – BỆNH VIỆN 108, 103, 354 Chuyên ngành: QUẢN TRỊ KINH DOANH Mã số: 9.34.01.02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS LÊ CÔNG HOA                                     2. TS. NGUYỄN TỪ  
  2. Hà Nội – 2020
  3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi   cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi   phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.  Hà Nội, ngày…. tháng…. năm 20…. Giáo viên hướng dẫn Tác giả Luận án
  4. ii DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Từ viết tăt Diễn giải BQP Bộ Quốc Phòng CBCNV Cán bộ công nhân viên CP Chính phủ HEA Hội khoa học kinh tế y tế Việt Nam ISC Intergrated Supply Chain – Chuỗi cung ứng tích hợp JIT Just in time – Đúng thời điểm NĐ Nghị định TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam TQM Total Quality Management – Quản lý chất lượng toàn  diện TAT Turn – around – time: Thời gian quay vòng ToTAT Total turn­around­time: Tổng thời gian quay vòng
  5. iii MỤC LỤC Ngoài ra, áp dụng phần mềm ERP mang lại nhiều tính năng mới như: Kết nối tới  nhiều địa điểm thông qua Web,… Kết nối thời gian thực tới các cổng thông tin; Tích  hợp nhiều chức năng của bệnh viện; Tích hợp thẻ thông minh/sinh trắc học cho mục  đích bảo mật và phục vụ; Giao diện với máy quét mã vạch; Hệ thống thông báo SMS;  Tích hợp với các thiết bị điện tử như bảng mạch hiện thị, máy kĩ thuật số hỗ trợ cá   nhân, điện thoại di động, v.v…                                                                                         .....................................................................................      136 Ngoài ra, tại các Bệnh viện Quân y hiện nay cần nhanh chóng tích hợp 2 nền tảng  quản lý nhà thuốc GPP cho phép kết nối phần mềm kê đơn thuốc trong các Bệnh viện  với các phần mềm nhà thuốc khác, đảm bảo quản lý bán hàng, thống kê, báo cáo cho  các nhà thuốc; kiểm soát xuất xứ, giá cả thuốc mua vào bán ra ở mỗi nhà thuốc trên  toàn quốc; liên thông dữ liệu hàng ngày lên hệ thống. Liên kết kê đơn thuốc các Bệnh  viện với phần mềm của các cơ sở sản xuất và xuất nhập khẩu, xây dựng mã đơn   thuốc quốc gia.   ..............................................................................................................                                                                                                                 137      ­ Để có thể ứng dụng phần mềm trong quản lý chuỗi cung ứng được thực thi và có  hiệu quả thì các Bệnh viện cần nhanh chóng cải tiến hệ thống thông tin hỗ trợ các  chuỗi cung ứng. Hệ thống thông tin bao gồm các công nghệ thực hiện ba chức năng  chính: thu thập dữ liệu và thông tin liên lạc; lưu trữ và truy xuất dữ liệu; thao tác dữ   liệu và báo cáo.                                                                                                                   ..............................................................................................................       137 + Thu thập dữ liệu và thông tin liên lạc: hệ thống và công nghệ ghi lại dữ liệu và  mạng truyền thông tốc độ cao, để thực hiện được Bệnh viện sử dụng Internet, băng  thông rộng, EDI (Electronic Data Interchange – Trao đổi dữ liệu điện tử), hoặc cao  hơn nữa là XML (eXtensible Markup Language – Ngôn ngữ bổ sung có thể mở rộng).  Công nghệ này cũng cho phép liên kết thông tin về đơn thuốc của các Bệnh viện với   phần mềm của các cơ sở sản xuất, kiểm tra mã đơn thuốc quốc gia.                            ........................       137 + Lưu trữ và truy xuất dữ liệu: điều này sẽ cho phép các Bệnh viện có thể lưu trữ tất  cả những thông tin về lịch sử thăm khám, chữa bệnh của các bệnh nhân đã từng đến   Bệnh viện.                                                                                                                          ......................................................................................................................       137 + Thao tác và báo cáo dữ liệu: cho phép hiển thị những dữ liệu với công nghệ cần   thiết để nắm bắt, giao tiếp.                                                                                               ..........................................................................................      137 Việc ứng dụng phần mềm góp phần quản lý chặt chẽ, là xu hướng thiết yếu của các  doanh nghiệp, tổ chức hiện nay. Các Bệnh viện Quân y trên địa bàn Hà Nội cũng đang  theo xu thế này. Việc ứng dụng phần mềm quản lý chuỗi cung ứng ban đầu có thể  mất nhiều thời gian và chi phí. Nhưng về lâu dài sẽ giúp quản lý có hệ thống, sâu sát   và đạt hiệu quả cao.                                                                                                           ......................................................................................................       137  3.2.2 Giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý chuỗi cung ứng                                          ......................................      137
  6. iv DANH MỤC BẢNG BIỂU Ngoài ra, áp dụng phần mềm ERP mang lại nhiều tính năng mới như: Kết nối tới  nhiều địa điểm thông qua Web,… Kết nối thời gian thực tới các cổng thông tin; Tích  hợp nhiều chức năng của bệnh viện; Tích hợp thẻ thông minh/sinh trắc học cho mục  đích bảo mật và phục vụ; Giao diện với máy quét mã vạch; Hệ thống thông báo SMS;  Tích hợp với các thiết bị điện tử như bảng mạch hiện thị, máy kĩ thuật số hỗ trợ cá   nhân, điện thoại di động, v.v…                                                                                         .....................................................................................      136 Ngoài ra, tại các Bệnh viện Quân y hiện nay cần nhanh chóng tích hợp 2 nền tảng  quản lý nhà thuốc GPP cho phép kết nối phần mềm kê đơn thuốc trong các Bệnh viện  với các phần mềm nhà thuốc khác, đảm bảo quản lý bán hàng, thống kê, báo cáo cho  các nhà thuốc; kiểm soát xuất xứ, giá cả thuốc mua vào bán ra ở mỗi nhà thuốc trên  toàn quốc; liên thông dữ liệu hàng ngày lên hệ thống. Liên kết kê đơn thuốc các Bệnh  viện với phần mềm của các cơ sở sản xuất và xuất nhập khẩu, xây dựng mã đơn   thuốc quốc gia.   ..............................................................................................................                                                                                                                 137      ­ Để có thể ứng dụng phần mềm trong quản lý chuỗi cung ứng được thực thi và có  hiệu quả thì các Bệnh viện cần nhanh chóng cải tiến hệ thống thông tin hỗ trợ các  chuỗi cung ứng. Hệ thống thông tin bao gồm các công nghệ thực hiện ba chức năng  chính: thu thập dữ liệu và thông tin liên lạc; lưu trữ và truy xuất dữ liệu; thao tác dữ   liệu và báo cáo.                                                                                                                   ..............................................................................................................       137 + Thu thập dữ liệu và thông tin liên lạc: hệ thống và công nghệ ghi lại dữ liệu và  mạng truyền thông tốc độ cao, để thực hiện được Bệnh viện sử dụng Internet, băng  thông rộng, EDI (Electronic Data Interchange – Trao đổi dữ liệu điện tử), hoặc cao  hơn nữa là XML (eXtensible Markup Language – Ngôn ngữ bổ sung có thể mở rộng).  Công nghệ này cũng cho phép liên kết thông tin về đơn thuốc của các Bệnh viện với   phần mềm của các cơ sở sản xuất, kiểm tra mã đơn thuốc quốc gia.                            ........................       137 + Lưu trữ và truy xuất dữ liệu: điều này sẽ cho phép các Bệnh viện có thể lưu trữ tất  cả những thông tin về lịch sử thăm khám, chữa bệnh của các bệnh nhân đã từng đến   Bệnh viện.                                                                                                                          ......................................................................................................................       137 + Thao tác và báo cáo dữ liệu: cho phép hiển thị những dữ liệu với công nghệ cần   thiết để nắm bắt, giao tiếp.                                                                                               ..........................................................................................      137 Việc ứng dụng phần mềm góp phần quản lý chặt chẽ, là xu hướng thiết yếu của các  doanh nghiệp, tổ chức hiện nay. Các Bệnh viện Quân y trên địa bàn Hà Nội cũng đang  theo xu thế này. Việc ứng dụng phần mềm quản lý chuỗi cung ứng ban đầu có thể  mất nhiều thời gian và chi phí. Nhưng về lâu dài sẽ giúp quản lý có hệ thống, sâu sát   và đạt hiệu quả cao.                                                                                                           ......................................................................................................       137  3.2.2 Giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý chuỗi cung ứng                                          ......................................      137
  7. v DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH ẢNH Hình 2.6.  Mức độ gia tăng bệnh nhân khám chữa bệnh tại các Bệnh viện năm 2018   so   v ới   năm  2017...............................................................................................................100
  8. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quản lý chuỗi cung  ứng ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự  phát   triển của mỗi doanh nghiệp, tổ chức. Ngày nay, cạnh tranh không còn đơn thuần là  chỉ  giữa các doanh nghiệp, tổ  chức mà còn diễn ra khá phổ  biến giữa các chuỗi  cung ứng. Sự  tồn tại của cả chuỗi cung  ứng cũng chính là sự  tồn tại và phát triển   của các doanh nghiệp, tổ  chức tham gia. Chỉ  tính riêng tại Hoa Kỳ, hàng năm các  công ty tiêu tốn hơn 1.000 tỷ đô la cho các hoạt động vận tải, dự trữ, phân phối và   quản trị hàng tồn kho. Trách nhiệm quản lý dòng chi phí khổng lồ này đè nặng lên  vai các chuyên gia chuỗi cung ứng.  Cũng tương tự  như  vậy, trong ngành y tế, chi phí y tế  trên thế  giới hiện nay  cũng đang gia tăng  ở  mức báo động. Các chuyên gia tại Trung tâm Medicare và   Medicaid dự báo rằng chi tiêu chăm sóc sức khỏe tại Hoa Kỳ sẽ nhanh chóng chạm  mức 4,8 nghìn tỉ  USD vào năm 2021. Đối với các tổ  chức chăm sóc sức khỏe, cải   thiện quản lý chuỗi cung  ứng sẽ  đóng vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát  chi phí trong chuỗi cung  ứng y tế. Như vậy, vai trò của các chuyên gia chuỗi cung   ứng tại mỗi doanh nghiệp, tổ chức là khác nhau nhưng mục tiêu của họ nhìn chung  lại tương tự nhau: phát triển và đảm bảo chuỗi cung  ứng của họ có khả  năng đem  lại lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, tổ chức. Do vậy, nâng cao năng lực quản   lý chuỗi cung ứng là cần thiết đối với bất kỳ doanh nghiệp và tổ chức nào. Một chuỗi cung ứng bao gồm toàn bộ sự tương tác giữa nhà cung cấp, nhà sản  xuất, nhà phân phối và khách hàng. Năm yếu tố  dẫn dắt chủ  yếu của một chuỗi   cung  ứng tại các doanh nghiệp, tổ  chức là: sản xuất, hàng tồn kho, vị  trí, vận   chuyển và thông tin. Trong bệnh viện, chuỗi cung ứng là sự tương tác giữa công tác   chỉ  huy hậu cần với hoạt động của các bộ  phận chức năng khác trong bệnh viện  như  công tác vận chuyển, công tác khám chữa bệnh, công tác dự  trữ  và kho tàng,   công tác bố trí địa điểm, hoạt động thông tin. Có thể nói, công tác hậu cần chính là   trung tâm trong việc quản lý một chuỗi cung ứng tại bệnh viện. 
  9. 2 Các bệnh viện quân đội với đặc thù là ngoài công tác khám chữa bệnh, còn là  cơ sở quốc phòng của quân đội, việc quản lý chuỗi cung ứng càng trở nên đặc biệt:  vừa nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh, vừa đảm bảo an  ninh quốc phòng, thực hiện tốt công tác dân vận. Do vậy, công tác hậu cần quân đội  trong các bệnh viện quân y càng trở nên quan trọng.  Hàng trăm năm trước, Napoleon đã nhấn mạnh rằng “Lương thực có đầy đủ  thì quân đội mới có sức mạnh để  chiến đấu”. Napoleon là một chiến lược gia đại  tài và lời bình luận này cho thấy ông hiểu rất rõ tầm quan trọng của điều mà ngày   nay chúng ta gọi là “chuỗi cung  ứng hiệu quả”. Cũng có một câu nói khác “Những   người không chuyên gọi đó là chiến lược và chuyên gia gọi đó là hậu cần”. Người   ta có thể thảo luận về các chiến lược và chiến thuật tác bạo, nhưng chẳng vấn đề  nào có thể  thực hiện được nếu thiếu đi sự  tính toán nhằm đáp  ứng nhu cầu hằng   ngày của đội quân. Điều này có nhiều nét tương đồng với hoạt động kinh doanh.   Thuật ngữ “quản lý chuỗi cung ứng” nổi lên vào cuối những năm 1980 và được sử  dụng rộng rãi trong những năm 1990. Trước đó, hoạt động kinh doanh sử dụng các   thuật ngữ như “hậu cần” và “quản lý hoạt động” để thay thế. Ngay trong đại chiến thế giới lần thứ II, đầu những năm 40 của thế kỷ trước   quân đội Hoa Kỳ  đã thực hiện những hoạt động hậu cần phức tạp nhất và được   lập kế  hoạch tốt  ưu. Từ  đó, hậu cần trờ  thành một môn khoa học ngày càng hoàn  thiện và lan tỏa sang các ngành hoạt động kinh doanh dân sự. Gần đây, người ta   nhắc đến hậu cần trong quân đội  ở  qui mô lớn là cuộc xung đội giữa Mỹ  và Irắc   trong việc Irắc xâm lược Côét. Nó được mô tả là hoạt động hậu cần rất lớn, qua đó  nhiều công ty nhận thức rằng: hậu cần hiệu quả là một nguồn lực mang lại lợi thế  cạnh tranh. Trong quân đội yêu cầu dịch vụ  khách hàng  ở  mức tuyệt đối cao. Nó  không hoàn toàn giống như  vấn đề  trong kinh doanh. Song vẫn có một sự  tương  đồng lớn và cung cấp rất nhiều kinh nghiệm vô giá từ nhiều năm phát triển công tác  hậu cần trong quân đội. Ví dụ, trong quân đội Mỹ đã duy trì một lượng giá trị đánh  giá khoảng 1/3 lượng dự trữ của tất cả các nhà sản xuất tại Mỹ. Trong các Bệnh  viện Quân y thì ý nghĩa và sự nghiêm ngặt của công tác hậu cần trong nhiều trường  hợp còn là yêu cầu kép. 
  10. 3 Hậu cần trong các Bệnh viện Quân y của nước ta đã có từ ngày thành lập. Đó   là cách tổ  chức theo truyền thống cộng với hậu cần bao c ấp và tập trung mệnh   lệnh của quân đội đã có những mặt tích cực trong lịch sử. Bước sang cơ chế quản   lý mới, mối quan hệ rộng rãi trong phạm vi cả nước và trong một thế  giới phẳng   theo quan hệ thị trường thì cách tổ chức theo truyền thống cũng dần bộc lộ nhược   điểm, hiệu quả  không cao, còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác. Hậu cần   trong các Bệnh viện Quân y của nước ta hiện nay với nhiệm vụ xây dựng quân đội,  bảo vệ Tổ quốc, cộng với nhiệm vụ đảm bảo chất lượng chuyên môn chính trong  khám chữa bệnh, đã có những yêu cầu ở tầm cao hơn. Đa phần các Bệnh viện Quân  y lớn trên địa bàn Hà Nội hiện nay thuộc Bộ  Quốc phòng, Tổng cục Hậu cần và   Học viện Quân y. Trong đó Bệnh viện Trung  ương Quân đội 108 trực thuộc Bộ  Quốc   phòng  được   Chính  phủ   công  nhận  là   Bệnh  viện  hạng  đặc   biệt   từ   tháng   10/2010, Bệnh viện 103 thuộc Học viện Quân y và Bệnh viện 354 thuộc Tổng cục   Hậu cần được Bộ Quốc phòng công nhận hạng 1 theo Thông tư  số  215/2013/TT –   BQP. Tác giả chọn nghiên cứu 3 Bệnh viện Quân y này vì đây là những bệnh viện   lớn (hạng đặc biệt và hạng 1), cơ  sở hoạt động khám và chữa bệnh của các Bệnh  viện này đều nằm trên địa bàn trung tâm của Hà Nội với động đảo người dân biết   tới. Việc nghiên cứu năng lực quản lý chuỗi cung ứng tại các Bệnh viện này vì vậy   là hết sức cần thiết nhằm tới mục tiêu cuối cùng là hiệu quả  hoạt động của các   Bệnh viện và mang lại giá trị  tối  ưu cho khách hàng của bệnh viện – người khám   chữa bệnh. Chính vì vậy, vấn đề nghiên cứu của luận án tập trung nghiên cứu về năng lực  quản lý chuỗi cung ứng trong các Bệnh viện Quân y trên địa bàn Hà Nội gồm Bệnh   viện 108,103,354 với hy vọng sẽ có những tìm tòi, đóng góp làm cho công tác hậu   cần và sự phối hợp giữa các bộ  phận chức năng gắn kết chặt chẽ, công tác khám  chữa bệnh và những hoạt động khác tại các Bệnh viện có những hiệu quả  to lớn   hơn.
  11. 4 Xuất phát từ  những lý luận và thực tiễn trên, tác giả  lựa chọn đề  tài  “Nâng  cao năng lực quản lý chuỗi cung ứng trong công tác khám, chữa bệnh tại các Bệnh   viện Quân y trên địa bàn Hà Nội (108, 105, 354)” làm luận án nghiên cứu.  2.  Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan  đến đề  tài và định  hướng nghiên cứu của luận án 2.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài  2.1.1. Các công trình nghiên cứu về chuỗi cung ứng và quản lý chuỗi cung ứng    Công trình nghiên cứu của Whipple và Russell Whipple  và  Russell (2007) nghiên cứu về  “Xây  dựng chuỗi cung  ứng theo   hướng hợp tác”. Trong đó tác giả đã thử nghiệm các đặc điểm, yêu cầu, lợi ích và   các rào cản, các giả định về hệ thống tiếp cận hợp tác và các mối quan hệ hợp tác  khác nhau. Tác giả  đã dùng phương pháp nghiên cứu định tính thông qua việc thảo  luận bên trong và quan sát từ  các cuộc phỏng vấn khám phá 21 nhà quản lý từ  10  doanh nghiệp sản xuất và bán lẻ  khác nhau. Kết quả  cho thấy một hệ thống gồm   ba loại tiếp cận hợp tác được giả định: quản lý giao dịch hợp tác, quản lý sự  kiện   hợp tác và quản lý quá trình hợp tác. Ba cách tiếp cận  hợp tác được so sánh và đối  chiếu với nhau, kết quả cho thấy mỗi loại hợp tác có những lợi ích và những hạn   chế nhất định. Để đo lường và đánh giá mức độ hợp tác của mỗi loại, tác giả của công trình   nghiên cứu này đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính theo hướng dựa vào   lý thuyết. Trong nghiên cứu này, tác giả thực hiện phỏng vấn khám phá nhằm hiểu   rõ hơn những đặc điểm của các hoạt động hợp tác trong môi trường chuỗi cung ứng  ngày nay. Thông qua việc phỏng vấn,các tác giả  đã đưa ra các giả  định liên quan  đến sự  hợp tác chuỗi cung  ứng theo 3 loại: hợp tác theo quá trình, hợp tác theo sự  kiện và hợp tác theo giao dịch – đây là kiểu hợp tác khá phổ biến trong thực tiễn.            Công trình nghiên cứu của Backtrand Backtrand (2007) nghiên cứu về  “Các mức độ  tương tác trong các quan hệ   chuỗi cung ứng”. Trong công trình nghiên cứu của mình, Backtrand đã đi vào nghiên   cứu 2 nội dung lớn: (i) Các nền tảng của chuỗi cung  ứng bao gồm: các vấn đề  về  chuỗi cung  ứng; sự  tương tác trong chuỗi cung  ứng; mức độ  tương tác của chuỗi  
  12. 5 cung ứng; (ii) Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ tương tác trong chuỗi cung ứng.  Bằng phương pháp nghiên cứu tiếp cận từ  lý thuyết và tổng luận từ  các cơ  sở  lý  thuyết đã có từ  các công trình nghiên cứu về  sự  hợp tác trong chuỗi cung  ứng, tác  giả công trình đã đưa ra mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu gồm: mục tiêu   nghiên cứu để xác định rõ được các đặc điểm cốt lõi của việc tương tác chuỗi cung   ứng nhằm phát triển một khung tương tác, qua đó lựa chọn một mức tương tác  thích hợp; các câu hỏi nghiên cứu bao gồm: các đặc điểm của sự  tương tác chuỗi   cung ứng là gì? Những đặc điểm nào sẽ ảnh hưởng lên mức độ tương thích của sự  tương tác trong chuỗi cung  ứng? Các đặc điểm cốt lõi có thể  được diễn dịch theo  một cách so sánh nhằm tạo điều kiện thuận lợi để ứng dụng như thế nào? Sau khi đưa ra nhiều lập luận, so sánh và tổng kết các lý thuyết đã được   công bố  của Handfield, Lambert, Harland, tác giả  công trình nghiên cứu Backtrand   (2007) đã kết luận có 05 nhân tố   ảnh hưởng đến mức độ  các quan hệ  chuỗi cung   ứng bao gồm: tín nhiệm, quyền lực, khung thời gian, độ thuần thục và tần suất giao   dịch.                 Công  trình   nghiên   cứu  của  Ravinder   Kumar,   Rajesh   K.Singh   và   Ravi   Shankar Ravinder, Rajesh và Ravi (2015) đã thực hiện một nghiên cứu trong nỗ  lực   giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ  của  Ấn Độ  nâng cao khả  năng cạnh tranh của  mình thông qua quản trị  chuỗi cung  ứng. Ravinder và ctg (2015) nhận ra rằng các  doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ấn Độ  và các nước đang phát triển gặp phải vấn đề  rất lớn trong quản trị chuỗi cung ứng. Trong đó vấn đề lớn nhất mà họ gặp phải là  thiếu nguồn nhân lực và thiếu sự  ủng hộ  của các cấp lãnh đạo. Nghiên cứu được   thực hiện trong thời gian 2 năm. Các tác giả  tiến hành khảo sát chủ  yếu với các  doanh nghiệp vừa và nhỏ  trong bốn ngành công nghiệp bộ  phận ô tô, nhựa, năng  lượng mặt trời và điện tử với sự tham gia của 251 doanh nghiệp. Có tổng cộng 13   nhân tố được đưa vào nghiên cứu và kết quả có được là các nhân tố: Sự hỗ trợ của   lãnh đạo; Tầm nhìn dài hạn, tập trung vào thế  mạnh cốt lõi, nguồn lực cho chuỗi   cung ứng và chiến lược hiệu quả cho chuỗi cung  ứng là những nhân tố  quan trọng   nhất. Tuy nhiên, thời gian thực hiện trong 2 năm là quá dài, cỡ mẫu chỉ là 251 so với   dự  định là 1500 ban đầu. Điều này dẫn đến sự  nghi ngờ  về  mức đại diện của  
  13. 6 nghiên cứu. Ngoài ra, độ tin cậy trong các câu trả lời của các lãnh đạo doanh nghiệp  cũng là vấn đề khó giải quyết.  Công trình nghiên cứu của Henry và Rado, Scarlaett Henry và ctg (2011) đã thực hiện một nghiên cứu nhằm cố  gắng tìm ra các   nhân tố chính ảnh hưởng đến quản trị chuỗi cung ứng tại ngành công nghiệp Pallet  tại Mỹ. Henry và ctg đã đưa ra các giả thuyết và kiểm định sự tác động của 7 yếu  tố  sau đến hoạt động của chuỗi cung  ứng, bao gồm: Sự không chắc chắn của môi   trường, Công nghệ  thông tin, Mối quan hệ  trong chuỗi cung  ứng, Sản xuất, Hiệu   quả  hoạt động của chuỗi cung  ứng, Quản lý kinh doanh và Sự  hài lòng của khách   hàng.  Để  kiểm định các giả  thuyết nghiên cứu, Henry và ctg (2011) đã sử  dụng  phương pháp hồi quy đa biến nhằm chứng minh tính chính xác của các giả  thuyết  này. Sau đó, tác giả  tiến hành đánh giá thứ  tự  tác động của các yếu tố  đến hoạt   động của chuỗi cung  ứng. Tuy nhiên, việc kiểm định riêng biệt từng giả  thuyết   khiến cho nghiên cứu không thể đánh giá các tác động của các yếu tố trên trong bối  cảnh nghiên cứu chung. Chính vì vậy, kết quả đạt được không mang tính tổng quát và  không giúp cho việc xem xét mức độ   ảnh hưởng qua lại của các yếu tố  trong hoạt   động của chuỗi cung ứng. Các công trình nghiên cứu khác Theo Baratt và Oliveria (2001), Mentzer và cộng sự  (2000) thì sự  chấp thuận  rộng rãi về hợp tác trong chuỗi cung  ứng đòi hỏi một thước đo khoa học đánh giá  các giá trị nhằm chứng minh rằng các mức độ hợp tác khác nhau trong số các thành   tố  chuỗi cung  ứng được chỉ  rõ. Vì vậy, các nghiên cứu về  sự  hợp tác chuỗi cung  ứng mô tả các nỗ lực nhằm phát triển các phạm vi đo lường thực tiễn hợp tác trong  chuỗi cung  ứng. Một hướng dẫn để  đo lường sự hợp tác chuỗi cung  ứng đã được   chấp thuận đó là việc sử dụng ba hướng gồm: chia sẻ thông tin cụ thể, sự đồng bộ  hóa trong các quyết định và khích lệ liên kết. Để đánh giá về sự hợp tác chuỗi cung  ứng, nghiên cứu Barrat và Oliveria (2004) đã giả định đơn giản trong chuỗi gồm ba   thành phần cơ bản là nhà cung cấp, nhà sản xuất và nhà bán lẻ. Đánh giá sự hợp tác   thông qua mối quan hệ song phương theo từng cặp, trong đó nhà sản xuất đóng vai  trò trung tâm, cụ thể: mức độ  hợp tác giữa nhà sản xuất và nhà cung cấp, mức độ  hợp tác giữa các nhà sản xuất và nhà phân phối/khách hàng.
  14. 7 Handfield và Bechtel (2005) khi nghiên cứu về vai trò của sự tín nhiệm và mức  độ quan hệ trong việc cải tiến trách nhiệm chuỗi cung ứng đã đưa ra mô hình nhằm   xây dựng các mối quan hệ chủ yếu giữa nhà cung cấp và người mua dựa vào sự tín   nhiệm. Nhà cung cấp buộc phải đầu tư  vào tài lực và nguồn nhân lực, phải vận  dụng các hợp đồng một cách thận trọng để kiểm soát các mức độ phù hợp liên quan  đến mối quan hệ. Mô hình đưa ra biến phụ thuộc là trách nhiệm của các thành viên  trong chuỗi cung  ứng; các biến độc lập là mức độ  tín nhiệm và sự  phụ  thuộc của   người mua, hợp đồng, mức độ đầu tư vào tài sản cố định, nguồn nhân lực… Li   et   al.,   2006,   “The   impact   of   Supply   Chain   Management   Practise   on  Competitive  Advantage  and Organizational  Performance”,   nhóm tác  giả   đã   chứng  mình rằng việc quản lý chuỗi cung  ứng phụ  thuộc vào chiến lược kinh doanh và   hợp tác trong tổ  chức, lập kế hoạch và thực hiện, hiệu suất logistic và công nghệ  thông tin và việc thực hiện trong tổ chức và bao gồm năm khía cạnh khác biệt: quan   hệ đối tác nhà cung cấp chiến lược, quan hệ khách hàng, mức độ chia sẻ thông tin,  chất lượng chia sẻ thông tin. Cai, J., Liu, X., Xiao, Z., (2009), trong nghiên cứu “Improving Supply Chain   Performance   Management:   A   Systematic   Approach   to   Analyzing   Interactive   KPI  Accomplishment”, các tác giả nghiên cứu về phương thức nâng cao hiệu quả quản   lý chuỗi cung ứng thông qua hệ thống chỉ tiêu KPI. Franca et al., 2010, “ Multi – Objecteve Stochastic Supply Chain Modelling to  Evaluate Tradeoffs between profit and Quality” đã chỉ  ra rằng quản lý chuỗi cung   ứng có thể  được biểu thị  bằng tổng số  các bộ  phận liên quan đến việc thực hiện  yêu cầu của khách hàng và bao gồm các nhà cung cấp, sản xuất, kho bãi, nhà bán lẻ,  vận chuyển và khách hàng. Mục đích của phân tích chuỗi cung ứng là tối đa hoá lợi  nhuận của công ty trong quá trình tạo ra giá trị cho khách hàng, cụ thể là tối đa hoá   sự khác biệt giữa giá trị sản phẩm cuối cùng và tổng chi phí mà chuỗi cung ứng sử  dụng để cung cấp sản phẩm cho khách hàng. Nghiên cứu của Vinayan et al. (2012) đề  xuất bốn chiều quản lý chuỗi cung   ứng, sự khác biệt và đổi mới sản phẩm, phản ứng của tổ chức, và vai trò chi phí để  đánh giá lợi thế  cạnh tranh của một công ty và đo lường lợi thế  cạnh tranh bằng   cách kết hợp quan điểm dựa vào nguồn lực, chiến lược đại dương xanh, quan điểm  khả  năng năng động, và tiếp cận cấu trúc. Vinayan đã áp dụng bốn khía cạnh này 
  15. 8 để  đo lường lợi thế cạnh tranh trong các doanh nghiệp sản xuất  ở  Malaysia và họ  cho rằng mô hình đề xuất có thể được áp dụng cho các ngành khác.  Nghiên cứu của Bratić (2011) mô tả vai trò của quản lý chuỗi cung ứng và các  tác động của nó đối với lợi thế cạnh tranh của chuỗi cung ứng. Các kích thước của   lợi thế cạnh tranh được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm: giá cả và chi phí, chất   lượng, sự tin cậy giao hàng, đổi mới sản phẩm, thời gian ra thị trường, và kết quả  nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng giá cả, chất lượng và thời gian ra thị trường là  những chỉ  số  lợi thế  cạnh tranh mạnh mẽ hơn so với s ự tin cậy giao hàng và đổi  mới sản phẩm. Thông qua việc phân tích mối quan hệ của thực hành quản lý chuỗi   cung  ứng và lợi thế cạnh tranh cho thấy thực hành quản lý chuỗi cung  ứng có thể  tác động trực tiếp đến lợi thế cạnh tranh của chuỗi cung ứng.  Mối quan hệ  giữa kết quả   kinh doanh của tổ  chức và liên kết chuỗi cung   ứng được phân tích dưới gốc độ  lý thuyết dựa vào nguồn lực. Mối quan hệ  giữa  liên kết chuỗi cung  ứng và kết quả  kinh doanh của các tổ  chức được nghiên cứu   dưới các gốc độ khác nhau. Dưới gốc độ chuỗi cung ứng nói chung, liên kết hàm ý  liên kết với nhà cung cấp và với khách hàng (Li và cộng sự, 2006). Khái niệm này   cũng có thể  hàm ý đến mối quan hệ    giữa người mua và người bán dưới gốc độ  hậu cần (Paulraj và Chen, 2007). Nhìn chung, hầu hết các nghiên cứu đều cho rằng   liên kết bên ngoài có sự  tác động đến kết  quả   kinh doanh của doanh nghiệp. Ví   dụ, quản lý và liên kết chuỗi cung  ứng có ảnh hưởng trực tiếp và dài hạn đến kết  quả  tài chính và marketing của doanh nghiệp (Li và cộng sự, 2006). Liên kết các  hoạt động hậu cần với các nhà cung  ứng và khách hàng sẽ cải  thiện được kết quả  của cả người bán lẫn người mua (Paulraj và Chen, 2007).  2.1.2. Các nghiên cứu trên thế  giới về  chuỗi cung  ứng và năng lực quản lý   chuỗi cung ứng trong bệnh viện Các nghiên cứu về  quản lý bệnh viện gồm có tái cấu trúc hoạt động, tăng  cường tính tự  chủ, cải tiến quy trình cung  ứng dịch vụ, nâng cao chất lượng hoạt  động…Trong đó đáng chú ý là  việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng như  5S hệ thống ISO hoặc TQM. 
  16. 9 Có   thể   nói   tổ   chức   hoạt   động   đầu   tiên   của   phương   thức   ISO   là   ISA­  Internation Federation of the National Standardizing Associations (Liên đoàn các hiệp  hội chuẩn quốc gia) vào năm 1926. Tháng 10 năm 1946, ISA và  Ủy ban điều phối  của Liên hiệp Quốc (UNSCC) cùng đại biểu của 25 quốc gia đã họp tại London  đồng   ý   thành   lập   Tổ   chức   quốc   tế   về   tiêu   chuẩn   mới   ISO   và   hoạt   động   vào   02/1947, có trụ sở tại Geneva. Theo đó, quản lý chất lượng cũng thực hiện quản lý  theo hệ thống ISO. Gần đây, công ty cung cấp dịch vụ chuỗi cung  ứng Becton Dickinson đã phối   hợp cùng Tập đoàn Resource Optimization & Innovation (ROi) và tạo ra tiêu chuẩn   dữ liệu đầu tiên tại Hoa Kỳ mang tên GS1 – bao gồm mã vạch được tích hợp hóa   cho toàn bộ chuỗi cung ứng thiết bị y tế hiện tại. GS1 – M ột t ổ ch ức quốc t ế phát   triển và duy trì các tiêu chuẩn cho chuỗi cung  ứng trên nhiều lĩnh vực trên toàn cầu   vừa   giới  thiệu  hệ   thống  GLN   (Global  Location  Numbers)  và   Global  Trade   Item  Numvers (GTIN) dành riêng cho ngành công nghiệp y tế  vào năm 2010. Mục tiêu   của sáng kiến này nhằm đẩy nhanh tiến trình hoạt động thông qua một tiêu chuẩn  dữ liệu toàn cầu chung, tăng hiệu quả chuỗi cung ứng và tăng sự an toàn cho bệnh  nhân. ROi và Becton Dickinson xem tiêu chuẩn GS1 là một công cụ có thể được tận   dụng nhằm cải thiện tình trạng hiện tại của chuỗi cung  ứng chăm sóc sức khỏe –  từ quá trình đặt đơn hàng, vận chuyển và thanh toán mà không cần sự can thiệp của   con người. Trong trường hợp này, các tiêu chuẩn được áp dụng vào từng mục trong   việc chăm sóc sức khỏe, từ thuốc men đến giường bệnh của bệnh nhân. Sử  dụng   hệ thống này, các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe hiện nay đang thực hiện   4 – 5 đơn hàng mà vẫn có thể  cập nhật dữ  liệu liên tục. Hệ  thống này cho phép  bệnh viện quản lý tốt hơn về  số  hàng tồn kho hiện tại, và Becton Dickinson tăng   cường mối quan hệ cung ứng với bệnh viện. 2.2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam 2.2.1. Các nghiên cứu về  cung  ứng, chuỗi cung  ứng, năng lực quản lý chuỗi   cung ứng trong các doanh nghiệp, các ngành
  17. 10 Tại Việt Nam, việc nghiên cứu về  chuỗi cung  ứng chỉ  dừng lại việc tìm ra   cấu trúc của chuỗi và từ đó đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện chuỗi cung ứng  của   ngành   hoặc   doanh   nghiệp   nghiên   cứu.   Chẳng   hạn   Solem   và   Visnawahdam  (2000) nghiên cứu chuỗi cung ứng phân bón tại các doanh nghiệp ở miền Nam Việt  Nam; Dự  án CARD 050/04/VIE (2004) nghiên cứu về  chuỗi cung  ứng trái cây sau  thu hoạch tại Khu vực  Đồng bằng sông Cửu Long; Lê Thanh Loan và cộng sự  (2006) nghiên cứu chuỗi cung  ứng hạt điều tại Việt Nam ­ trường hợp nghiên cứu   tại tỉnh Đắc Nông và Bình Phước; Nguyễn Thị Kim Anh và cộng sự (2010) nghiên   cứu chuỗi cung ứng cá tra, cá basa của doanh nghiệp chế biến thủy sản Nam Việt,   TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa…Các tác giả chỉ dừng lại ở việc phân tích cấu trúc  chuỗi, tìm cách xây dựng lại chuỗi hiện hữu với mục đích giảm chi phí ở  một số  khâu trong chuỗi như  logistics, dự  trữ, mua hàng,… nhằm tăng giá bán sản phẩm   đầu ra. Tác giả Lê Thị Thùy Liên (2000) thực hiện nghiên cứu về  giải pháp nâng cao   hiệu quả  chuỗi cung  ứng sản phẩm nông nghiệp  ở  Việt Nam. Thực hiện nghiên  cứu, tác giả  trình bày cơ sở lý luận về chuỗi cung  ứng sản phẩm gồm khái niệm,  bản chất, vai trò, nội dung và các nhân tố   ảnh hưởng của chuỗi cung    ứng sản  phẩm. Tiếp đến trên nền tảng cơ  sở  lý luận, tác giả  phân tích thực trạng chuỗi  cung  ứng của sản phẩm nông nghiệp tại Việt Nam giai đoạn 1997  –  2000 cũng   như  tình hình xuất khẩu gạo của nước ta trong giai đoạn này. Đồng thời, trong  nghiên cứu tác giả cũng nêu lên các đề  xuất để nâng cao hiệu quả chuỗi cung  ứng   của sản phẩm nông nghiệp nước ta giai đoạn tới. Tuy nhiên, với sự  biến động  không ngừng của nền kinh tế, sự chuyển dịch kinh tế với tốc độ  nhanh thì nghiên   cứu của Lê Thị  Thùy Liên còn bộc lộ nhiều hạn chế và không còn giá trị thực tiễn  đối với nền kinh tế nước ta hiện nay. Nghiên cứu của Huỳnh Thị  Thu Sương (2012) nghiên cứu các nhân tố   ảnh  hưởng đến sự hợp tác trong chuỗi cung ứng gỗ, trường hợp nghiên cứu Vùng Đông  Nam Bộ. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự hợp tác chuỗi cung ứng đồ gỗ  tại 3 tỉnh thành miền đông Nam Bộ, gồm: Thành phố  Hồ  Chí Minh, Đồng Nai và  Bình Dương.  Doanh nghiệp chế  biến  đồ  gỗ, 100% vốn Việt Nam trên địa  bàn  
  18. 11 nghiên cứu được đặt trong mối quan hệ với các nhà cung cấp, nhà phân phối/khách  hàng trong ngành đồ gỗ.  Nghiên cứu của Lam Phan Thanh (2014) xác định các vấn đề  bền vững chính   của ngành nông nghiệp nuôi cá và tôm sú ở  Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam   được nhận thức bởi các nhóm liên quan khác nhau. Kết quả  của nghiên cứu về  phương diện đo lường các vấn đề bền vững trong chuỗi giá trị  tôm được trình bày   trong ba khía cạnh bền vững như sau: (i) các vấn đề môi trường: chất lượng nước,  chất lượng giống và các vấn đề  về  bệnh tôm là những động lực quan trọng  ảnh  hưởng đến việc thực hiện chuỗi sản xuất. (ii) các vấn đề  kinh tế: chi phí đầu vào  là một nhân tố  quan trọng của phát triển bền vững. (iii) các vấn đề  thể  chế: quy  chế và chính sách có thể giúp hỗ  trợ phát triển hệ thống, đặc biệt là chính sách tài  chính và các quy định về thực tiễn và quản lý 2.2.2. Các nghiên cứu về  cung  ứng, chuỗi cung  ứng, năng lực quản lý chuỗi   cung ứng trong các bệnh viện Tại Việt Nam, Tổng cục Tiêu chuẩn ­ Đo lường ­ Chất lượng là cơ quan chính   thức của Nhà nước về chất lượng theo phương pháp ISO. Việt Nam tham gia ISO  từ  1977, hiện nay có 1380 bộ  ISO được chấp nhận thành tiêu chuẩn Việt Nam  (TCVN). Quản lý chất lượng toàn diện (Total Quality Management, viết tắt là TQM) là  một triết lý, lý thuyết về giải quyết vấn đề được sáng lập bởi Edward Denming tại   Hoa Kỳ  từ  1950. Sau đại chiến thế  giới thứ  II, người Nhật tiếp thu, phổ  biến lý   thuyết TQM và cải tiến cho qui trình TQM mang tính khoa học hơn. Sau khi TQM   được phổ  biến trên phạm vi toàn thế  giới vào khoảng năm 1980, TQM được định  nghĩa như  “một hệ  thống có hiệu quả  để  hợp nhất các nỗ  lực về  triển khai chất   lượng, duy trì chất lượng và cải tiến chất lượng của  các bộ phận khác nhau trong   một tổ  chức sao cho chúng có thể  sản xuất và thực hiện dịch vụ   ở  mức kinh tế  nhất, thỏa mãn người tiêu dùng”. Ở  Việt Nam, lý thuyết TQM mới được biết gần đây, khoảng đầu năm 90,  TQM được ứng dụng đầu tiên ở Bệnh viện Nhi đồng 1 tại Tp Hồ Chí Minh. TQM 
  19. 12 được coi như một trong những công cụ quan trọng giúp nhà sản xuất vượt qua các  hàng rào kỹ  thuật trong Thương mại thế  giới.Áp dụng TQM là một trong những  điều kiện cần thiết trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế, khu vực. Trong những  năm gần đây, hưởng  ứng cuộc vận động lớn về  thập niên chất lượng 1996­2005,  tiến tới sản xuất ra sản phẩm cso chất lượng cao mang nhãn hiệu sản xuất tại Việt  Nam. Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng đã có khuyến cáo Để hòa nhập với  hệ  thống quản lý chất lượng vào hệ  thống tiêu chuẩn hóa khu vực ASEAN, Việt   Nam phải đưa mô hình quản lý TQM vào áp dụng trong doanh nghiệp, nhằm nâng  cao chất lượng. Từ đó đã thành lập Ban chuyên ngành quản lý chất lượng đồng bộ. Trong ngành y tế, lý thuyết TQM được giảng dạy phổ biến cho các đối tượng  sau đại học tại Đại học Y tế cộng đồng, Đại học Y Hà Nội và ở một số dự án đào  tạo về  quản lý của Bộ  Y tế. Đặc biệt, các nguyên lý và công cụ  của TQM được  vận dụng trong lập kế hoạch y tế và được phổ biến ở nhiều địa phương. Hiện nay,  Bộ  Y tế  đã quyết định thành lập hệ  thống quản lý chất lượng trong ngày y tế  để  ứng dụng các phương pháp và nguyên lý quản lý chất lượng trong chăm sóc sức  khỏe trong đó có TQM. Có thể  nói, công tác quản lý chuỗi cung  ứng trong bệnh viện thực sự chưa   được quan tâm đúng mực. Tất cả  các bênh viện chưa quan tâm đến việc quản lý  chuỗi cung  ứng mà chỉ  trọng tâm đến việc khám chữa và cứu người bệnh.Việc   khám chữa bệnh là nhiệm vụ  hàng đầu của bất kỳ  một bệnh viện nào nhưng làm  thế  nào để  có hiệu quả  cao nhất. Các bệnh viện nhìn chung chỉ  quan tâm đến số  lượng bệnh nhân vào viện, số  lượng ra viện mà lãng quên đến các công tác hậu   cần. Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một tổ chức hay doanh nghiệp nào đều   quan tâm đến vấn đề hiệu quả kinh tế. Chính vì vậy, hướng nghiên cứu của đề tài   sẽ  tập trung nhiều vào mảng quản lý chuỗi cung  ứng và năng lực quản lý chuỗi   cung ứng tại bệnh viện. 2.3. Định hướng nghiên cứu của đề tài Như  vậy, các công trình nghiên cứu trên thế  giới theo hướng tiếp cận khác   nhau, cả  định tính và định lượng với mục đích tìm ra một thước đo về  năng lực  quản lý chuỗi cung  ứng  ứng hay các nhân tố   ảnh hưởng đến mức độ  tương tác  
  20. 13 chuỗi cung  ứng trong nhiều ngành nghề  khác nhau. Tuy nhiên, theo kết quả  của  từng công trình đã công bố, hầu như chưa xây dựng được một mô hình đầy đủ  về  các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực quản lý chuỗi cung ứng. Tất cả chỉ dừng lại ở  việc lập luận hoặc khảo sát để tìm ra các nhân tố có ảnh hưởng đến năng lực quản   lý chuỗi. Chưa kiểm định lại lý thuyết về  các nhân tố  đó cũng như  chưa xác định   mức độ   ảnh hưởng của các nhân tố  được nhận diện có tác động khác nhau đến   năng lực quản lý chuỗi cung ứng như thế nào. Tuy nhiên, qua phân tích và tổng lược   các nghiên cứu đã được đề cập, các kết quả một cách riêng lẻ, cho thấy rằng có rất  nhiều tiêu chí đo lường năng lực quản lý chuỗi cung ứng và nhân tố ảnh hưởng đến  năng lực quản lý chuỗi cung ứng. Ngoài ra, khi nghiên cứu cơ sở lý thuyết về chuỗi  cung  ứng và năng lực quản lý chuỗi cung  ứng, mặc dù không hình thành một công  trình nghiên cứu hoàn chỉnh nhưng một số  chuyên gia trong ngành quản lý chuỗi  cung  ứng cũng đã đề  cập đến một số  nhân tố  khác nhau cũng có  ảnh hưởng đến   năng lực quản lý chuỗi cung  ứng. Nghiên cứu về năng lực quản lý chuỗi cung ứng   tại các bệnh viện là một lĩnh vực mới chưa từng có tiền lệ và hơn thế  nữa nó còn   được xem xét trong hoạt động y tế tại Bệnh viện Quân y ­ loại hình đơn vị đặc thù.  Hy vọng của người nghiên cứu sẽ có những đóng góp mới từ nghiên cứu này. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của luận án là tập trung đề xuất giải pháp nhằm nâng cao  năng lực quản lý chuỗi cung ứng trong công tác khám, chữa bệnh tại các Bệnh viện  Quân y trên địa bàn Hà Nội, trường hợp nghiên cứu Bệnh viện 108, 103 và 354. Với ý nghĩa đó, nhiệm vụ của luận án tập trung vào: ­ Hệ  thống hóa cơ  sở  lý luận về  năng lực quản lý chuỗi cung  ứng trong các   doanh nghiệp, tổ chức, có tính tới những nét đặc thù trong các bệnh viện nói chung,   các bệnh viện quân y nói riêng. ­ Phân tích thực trạng năng lực quản lý chuỗi cung  ứng trong công tác khám,  chữa bệnh tại các Bệnh viện Quân y trên địa bàn Hà Nội (Bệnh viện 108, 103 và  354) qua các tiêu chí đánh giá, đồng thời xác định và phân tích mức độ  ảnh hưởng   của các nhân tố  tới năng lực quản lý chuỗi cung  ứng trong công tác khám, chữa   bệnh tại các Bệnh viện Quân y trên địa bàn Hà Nội.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2