intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Tâm lý học: Tự đánh giá năng lực của giảng viên ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam

Chia sẻ: Lin Yanjun | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:266

40
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài được thực hiện với mục tiêu nhằm nghiên cứu lý luận, thực tiễn tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, đề xuất biện pháp tâm lý - xã hội nâng cao tự đánh giá năng lực giảng dạy, góp phần cải thiện hơn nữa chất lượng và hiệu quả hoạt động giảng dạy của giảng viên ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Tâm lý học: Tự đánh giá năng lực của giảng viên ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam

  1.                LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên   cứu   của   riêng   tôi.   Các   số   liệu,   kết   quả   nêu   trong luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất   xứ  rõ ràng, không trùng lặp với các công trình   khoa học đã công bố.                       TÁC GIẢ LUẬN ÁN  Đỗ Thị Minh Nguyệt
  2. 2 MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU 5 Chương 1. TỔNG   QUAN   TÌNH   HÌNH   NGHIÊN   CỨU   LIÊN  QUAN ĐẾN TỰ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC GIẢNG DẠY  CỦA GIẢNG VIÊN 13 1.1. Những  nghiên cứu  liên  quan  đến tự   đánh giá  năng  lực   giảng dạy của giảng viên 13 1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học  đã công bố và những vấn đề luận án tập trung giải quyết 32 Chương 2. LÝ LUẬN VỀ  TỰ  ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC GIẢNG  DẠY CỦA GIẢNG VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG SĨ QUAN  QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM 36 2.1. Lý luận về tự đánh giá năng lực 36 2.2. Lý luận về tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên  ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam 47 2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tự đánh giá năng lực giảng dạy  của giảng viên  ở  các trường sĩ quan Quân đội nhân dân  Việt Nam 72 Chương 3. TỔ  CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  VỀ  TỰ   ĐÁNH   GIÁ   NĂNG   LỰC   GIẢNG   DẠY   CỦA  GIẢNG   VIÊN   Ở   CÁC   TRƯỜNG   SĨ   QUAN   QUÂN  ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM 87 3.1. Tổ chức nghiên cứu 87 3.2. Các phương pháp nghiên cứu  92 3.3. Các mức độ  102 Chương 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN TỰ ĐÁNH GIÁ  106 NĂNG LỰC GIẢNG DẠY CỦA GIẢNG VIÊN  Ở  CÁC 
  3. 3 TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM 4.1. Thực trạng tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên  ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam 106 4.2. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến tự đánh giá năng lực  giảng dạy của giảng viên  ở  các trường sĩ quan Quân đội  nhân dân Việt Nam 121 4.3. Phân tích chân dung tâm lý điển hình 140 4.4. Biện pháp tâm lý ­ xã hội nâng cao tự  đánh giá năng lực  giảng dạy của giảng viên  ở  các trường sĩ quan Quân đội  nhân dân Việt Nam 151 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ  164 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐàCÔNG BỐ  CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 167 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 168 PHỤ LỤC 180
  4. 4 DANH MỤC CÁC BẢNG S TÊN BẢNG Trang TT 3.1. Đặc điểm của khách thể nghiên cứu 89 3.2. Độ tin cậy của các thang đo 100 4.1. Thực trạng tự đánh giá năng lực thực hiện mục đích, yêu cầu giảng  107 dạy 4.2. Thực trạng tự đánh giá năng lực thu hút học viên 111 4.3. Thực trạng tự đánh giá năng lực quản lý lớp học 114 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ STT TÊN BIỂU ĐỒ Trang 4.1. Thực trạng các mặt biểu hiện tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng   viên  116 4.2. Thực trạng tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên xét theo   trình độ học vấn 118 4.3. Thực trạng tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên theo thâm niên 119 4.4. Thực trạng tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên giữa các  trường sĩ quan 120
  5. 5 DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ STT TÊN SƠ ĐỒ Trang 2.1. Sơ đồ các mặt biểu hiện tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng  viên 72 2.2. Sơ  đồ  các yếu tố ảnh hưởng đến tự  đánh giá năng lực giảng dạy   của giảng viên 85 4.1. Mối liên hệ giữa trải nghiệm và các mặt biểu hiện tự đánh giá năng   lực giảng dạy của giảng viên 122 4.2. Mối liên hệ giữa học hỏi kinh nghiệm của những người xung quanh  và các mặt biểu hiện tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên 124 4.3. Mối liên hệ giữa sự đánh giá của lãnh đạo ­ chỉ huy các cấp, giảng   viên khác, ý kiến phản hồi của học viên và các mặt biểu hiện tự  đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên 126 4.4. Mối liên hệ giữa trạng thái cơ thể, cảm xúc với các mặt biểu hiện  tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên 127 4.5. Mối liên hệ  giữa sự  lạc quan với các mặt biểu hiện tự  đánh giá  năng lực giảng dạy của giảng viên 128 4.6. Mối liên hệ giữa cảm nhận hạnh phúc và các mặt biểu hiện tự đánh  giá năng lực giảng dạy của giảng viên 130 4.7. Mối liên hệ giữa sự hài lòng trong công việc với các mặt biểu hiện  tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên 131
  6. 6 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài của luận án Tự đánh giá năng lực đang là vấn đề được nghiên cứu ở  nhiều lĩnh  vực khác nhau như: y tế, trị liệu, lao động, kinh doanh và giáo dục đào tạo.  Trong hoạt động giáo dục, tự  đánh giá năng lực nghiên cứu tổng thể  trên  nhiều  khía cạnh  cả  về  vai trò, biểu hiện, yếu tố   ảnh hưởng và biện pháp  nâng cao tự đánh đánh giá năng lực. Đối tượng nghiên cứu tập trung chủ yếu  vào học sinh, sinh viên và giảng viên. Đặc biệt, khoảng hai mươi năm gần  đây,  tự  đánh giá năng lực là nội dung đã được nhiều tác giả  trên thế  giới   khẳng định về ý nghĩa, tầm quan trọng của nó trong việc nâng cao chất lượng  hoạt động giáo dục đào tạo [5]. Tuy nhiên, nghiên cứu về  tự  đánh giá năng  lực  ở  Việt Nam hiện nay còn khá khiêm tốn, chưa có công trình nào đi sâu   nghiên cứu tự  đánh giá năng lực một cách hệ  thống. Đặc biệt,   tự  đánh giá  năng lực giảng dạy của giảng viên  ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân  Việt Nam vẫn còn là một khoảng trống, rất cần được nghiên cứu bổ sung và  phát triển. Với các trường sĩ quan của Quân đội nhân dân Việt Nam, mỗi giảng  viên sẽ thường xuyên, liên tục có tự  đánh giá năng lực trong thực hiện các  công việc, nhiệm vụ cụ thể, đặc biệt khi thực hiện các nhiệm vụ trong hoạt  động giảng dạy. Bởi lẽ,  khi hoạt động, người giảng viên không chỉ  biết  mình cần phải làm gì, mà quan trọng hơn là cần biết mình khả  năng hoàn  thành nhiệm vụ của mình ở mức độ nào. Nếu giảng viên có tự đánh giá năng   lực hay đánh giá khả năng mình hoàn thành ở mức độ cao, khi đó giảng viên  sẽ  luôn có sự  nỗ  lực, sẵn sàng, đối mặt với những khó khăn, coi đó là thử  thách mình cần vượt qua. Đồng thời có sự kiên trì, quyết tâm thực hiện bằng  được mục đích của hành động. Ngược lại, nếu giảng viên có mức độ  tự 
  7. 7 đánh giá năng lực hoàn thành nhiệm vụ ở mức độ  thấp, họ sẽ nảy sinh tâm  lý nghi ngờ  năng lực bản thân, né tránh và thiếu quyết tâm trong thực hiện  nhiệm vụ,  ảnh hưởng không nhỏ  đến hiệu quả  hoạt động.  Chính vì vậy,  nghiên cứu về tự  đánh giá năng lực của giảng viên  ở  các trường sĩ quan là  vấn đề không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc và  mang tính cấp thiết hiện nay. Thực tiễn hoạt động giảng dạy ở các trường sĩ quan cũng cho thấy một   số  giảng viên chưa có tự  đánh giá cao về  năng lực, cũng như  chưa có sự  tin   tưởng cao vào năng lực của bản thân, tự đánh giá quá thấp thấp khả năng hoàn  thành nhiệm vụ của mình, luôn cho mình không giỏi bằng người khác, nghi ngờ  khả năng, thiếu tự tin, dễ mặc cảm. Chính điều này dẫn đến tâm lý trông chờ,   ỷ  lại, ngại nhận những những nhiệm vụ  mới, những nhiệm vụ  khó. Trong  giảng dạy, ngại áp dụng công nghệ, phương pháp giảng dạy mới, không có sự  tự tin, quyết tâm, quyết đoán, sự nỗ lực khắc phục khó khăn trong thực hiện  nhiệm vụ. Đây là một trong những nguyên nhân gây nên hiệu quả giảng dạy   thấp. Chiên l ́ ược phat triên giao duc va đao tao trong Quân đôi giai đoan 2011 ­ ́ ̉ ́ ̣ ̀ ̀ ̣ ̣ ̣   2020 khẳng định: Trinh đô, năng l ̀ ̣ ực cua môt bô phân nha giao va can bô quan ly ̉ ̣ ̣ ̣ ̀ ́ ̀ ́ ̣ ̉ ́  ́ ̣ giao duc con thâp so v ̀ ́ ơi yêu câu, nhiêm vu; “Đ ́ ̀ ̣ ̣ ổi mới  phương pháp giảng dạy  còn thiếu tính toàn diện và đồng bộ, năng lực ứng dụng công nghệ  thông tin   vào giảng dạy, trình độ  ngoại ngữ, tin học của nhà giáo còn thấp” [4,  tr.17].  Đây là những khuyết điểm, hạn chế phản ánh năng lực, đồng thời cũng phản  ánh sự hạn chế về tự đánh giá năng lực của một số giảng viên. Điều này đã  ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động giáo dục ­ đào tạo của mỗi một  nhà trường. Từ đó đặt ra yêu cầu khách quan cần được quan tâm nghiên cứu và   tìm ra những biện pháp khắc phục kịp thời. Xuất phát từ  những lí do trên, tác giả  luận án lựa chọn vấn đề:   “Tự  
  8. 8 đánh giá năng lực của giảng viên ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân   Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu  Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu lý luận, thực tiễn tự  đánh giá năng lực giảng dạy của   giảng viên ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, đề xuất biện   pháp tâm lý ­ xã hội nâng cao tự đánh giá năng lực giảng dạy, góp phần cải  thiện hơn nữa chất lượng và hiệu quả hoạt động giảng dạy của giảng viên  ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.  Nhiệm vụ nghiên cứu Tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án; Xây dựng những vấn đề lý luận cơ bản về tự đánh giá năng lực giảng  dạy của giảng viên ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam; Khảo sát, đánh giá thực trạng tự  đánh giá năng lực giảng dạy và thực  trạng các yếu tố  ảnh hưởng đến tự  đánh giá năng lực giảng dạy của giảng  viên ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam; Phân tích chân dung tâm lý về tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng  viên ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam; Đề xuất biện pháp tâm lý ­ xã hội nâng cao tự đánh giá năng lực giảng  dạy của giảng viên ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. 3. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu Khách thể nghiên cứu Giảng viên ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu các mặt biểu hiện của tự đánh giá năng lực và các yếu tố 
  9. 9 ảnh hưởng đến tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên ở các trường sĩ  quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu  Phạm vi về nội dung: Tự đánh giá năng lực của giảng viên là một chủ  đề  khá rộng. Vì vậy, luận án này, tác giả  chỉ  tập trung nghiên cứu sâu khía  cạnh tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên, với các nội dung cụ thể  sau: Nghiên cứu các mặt biểu hiện tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng  viên ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam với những khía cạnh cơ  bản: 1/ Tự đánh giá năng lực thực hiện mục đích, yêu cầu giảng dạy; 2/ Tự  đánh giá năng lực thu hút học viên; và 3/ Tự đánh năng lực quản lý lớp học. Nghiên cứu t ự  đánh năng lực  ở  ph ạm vi  nhận thức, s ự  tin t ưở ng  về   hi ệu   qu ả   có   thể   đạ t   đượ c   củ a   giả ng   viên   khi   họ   thực   hi ện   các  nhi ệm v ụ trong  hoạt độ ng giảng dạy . Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tự đánh giá năng lực giảng dạy   của giảng viên ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam Phạm vi về khách thể: Luận án chỉ tập trung nghiên cứu trên đối tượng  là giảng viên các trường sĩ quan đang trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giảng   dạy. Phạm vi về địa bàn: Luận án nghiên cứu về tự đánh giá năng lực giảng dạy   trên các giảng viên: Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan Lục quân 1, Trường  Sĩ quan Công binh, Trường Sĩ quan Thông tin. Giảng viên các trường này, đại diện   cho các miền, các chuyên ngành khác nhau trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Phạm vi về thời gian: Các số liệu sử dụng phục vụ nghiên cứu của luận  án được khảo sát, điều tra, tổng hợp từ năm 2018 đến năm 2021. 4. Giả thuyết khoa học
  10. 10 Tự  đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên  ở  các trường sĩ quan  Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay đang ở mức độ trung bình và không có   sự đồng đều giữa các mặt biểu hiện. Giảng viên các trường sĩ quan có kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm hơn   và có trình độ học vấn cao hơn hơn thì có tự đánh giá năng lực giảng dạy cao  hơn. Cũng như vậy, có sự khác biệt về mức độ tự đánh giá năng lực giảng dạy  giữa nhóm giảng viên nam giữa nhóm giảng viên nữ và giữa nhóm giảng viên ở  các trường sĩ quan với nhau.  Tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên các trường sĩ quan chịu   sự ảnh hưởng của các yếu tố tác động khác nhau như: Trải nghiệm trong hoạt  động giảng dạy; Sự học hỏi kinh nghiệm; Sự đánh giá của lãnh đạo ­ chỉ huy  các cấp, giảng viên khác và ý kiến phản hồi của học viên; Trạng thái cơ thể,   cảm xúc của giảng viên; Sự  lạc quan của giảng viên; Cảm nhận hạnh phúc  trong công việc của giảng viên; Sự hài lòng trong công việc của giảng viên.  Nâng cao tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên cần thực hiện  được các biện pháp: tổ  chức tốt những hoạt động nhằm tăng cường các trải  nghiệm cho giảng viên; xây dựng môi trường sư  phạm quân sự  lành mạnh;  phát huy vai trò của lãnh đạo chỉ huy ­ các cấp, các giảng viên khác trong hoạt  động. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận Luận an nghiên c ́ ứu trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa  Mác­Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản   Việt Nam về giáo dục, đào tạo. Ngoài ra, luận án cũng nghiên cứu và vận dụng  các Nghị quyết của Quân ủy Trung ương; Tổng Cục Chính trị; Bộ Tổng tham   mưu và Nghị quyết của Đảng ủy các Trường Sĩ quan về giáo dục, đào tạo và 
  11. 11 phát triển đội ngũ giảng viên hiện nay. Ở luận án tiếp cận theo những phương pháp luận sau:   Phương pháp tiếp cận hệ thống: Các nghiên cứu về tự đánh giá năng  lực đều chỉ ra: Tự đánh giá năng lực chịu sự tác động bởi các yếu tố  thuộc  về  phía giảng viên và những yếu tố  từ  những người xung quanh.  Do vậy,  khi nghiên cứu về tự đánh giá năng lực giảng dạy của người giảng viên các   trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam cần đặt nó trong mối quan hệ  với những yếu tố   ảnh hưởng. Trên cơ  sở  đó, đánh giá khách quan về  các  biểu hiện tự đánh giá năng lực giảng dạy, đồng thời có cơ  sở khoa học đề  xuất các biện pháp phù hợp nâng cao tự đánh giá năng lực giảng dạy cho đội  ngũ giảng viên các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Phương pháp tiếp cận lịch sử:  Tự  đánh giá năng lực là một phẩm  chất   mang   tính   chủ   quan.   Do   vậy,   người   giảng   viên   hoạt   động   ở   môi  trường sư  phạm quân sự, trong mỗi giai đoạn lịch sử  cụ  thể, những yêu  cầu về nhiệm vụ giảng dạy, yêu cầu về  năng lực lại có sự  thay đổi, phát   triển. Khi điều kiện, hoàn cảnh thay đổi sẽ dẫn đến sự sự tự đánh giá năng  lực cũng thay đổi theo để phù hợp với yêu cầu từng nhiệm vụ  ở từng tình  huống cụ thể trong những giai đoạn lịch sử nhất định.  Phương pháp tiếp cận hoạt động: Tự đánh giá năng lực  hình thành, biểu  hiện và phát triển thông qua các hoạt động. Do đó, khi nghiên cứu về tự đánh  giá năng lực giảng dạy của giảng viên phải xuất phát từ hoạt động, thông qua   các hoạt động, đặc biệt là hoạt động giảng dạy của giảng viên.   Phương pháp tiếp cận tâm lý học sư  phạm quân sự:  Tâm lý học sư  phạm quân sự nghiên cứu những vấn đề tâm lý, cơ  chế, quy luật tâm lý của   hoạt động giảng dạy, giáo dục và tổ chức lao động sư phạm trong nhà trường   quân đội; những vấn đề tâm lý nhân cách học viên, giảng viên nhà trường quân 
  12. 12 đội,... Do vậy, tiếp cận tâm lý học sư phạm quân sự giúp làm rõ các đặc điểm   hoạt động giảng dạy; nhiệm vụ hoạt động giảng dạy; xác định các yếu tố ảnh   hưởng và biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giảng dạy… Đây là cơ sở  khoa học quan trọng trong nghiên cứu tự  đánh giá năng lực giảng dạy của  người giảng viên ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.  Phương pháp nghiên cứu Luận án sử  dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu trong Tâm lý  học với 8 phương pháp cụ thể sau: Phương pháp nghiên cứu tài liệu; Phương pháp xin ý kiến chuyên gia;  Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi;  Phương pháp phỏng vấn sâu;  Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động;  Phương pháp phân tích chân dung tâm lý; Phương pháp xử lí và phân tích số liệu bằng thống kê toán học (qua  sử dụng phần mềm SPSS 20.0). 6. Những đóng góp mới của luận án  Đóng góp về lý luận  Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú thêm lý luận  Tâm lý học sư phạm quân sự  về hoạt động giảng dạy của giảng viên; quan   niệm về tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên ở các trường sĩ quan  Quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ  bổ sung, phát triển lý luận của Tâm lý học sư phạm quân sự thông qua việc xác  định các đặc điểm của hoạt động giảng dạy; đưa ra tiêu chí ở các chỉ báo biểu   và luận giải các yếu tố ảnh hưởng đến tự  đánh giá năng lực giảng dạy của   giảng viên ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
  13. 13 Đóng góp về thực tiễn Kết quả  nghiên cứu chỉ  ra tự  đánh giá năng lực thực hiện hiệu quả  quản lý lớp học có điểm trung bình cao nhất, tự  đánh giá năng lực thu hút   học viên có điểm trung bình thấp nhất. Yếu tố Sự  đánh giá của lãnh đạo ­   chỉ huy các cấp, giảng viên khác và ý kiến phản hồi của học viên có sự ảnh  hưởng mạnh nhất đến tự  đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên các  trường sĩ quan, tiếp theo là trải nghiệm trong hoạt  động giảng dạy của  giảng viên; sự học hỏi kinh nghiệm của những người xung quanh; trạng thái  cơ thể cảm xúc của giảng viên; sự lạc quan và cuối cùng là cảm nhận hạnh   phúc trong công việc giảng dạy của giảng viên. Yếu tố  sự  hài lòng trong  công việc không có sự ảnh hưởng đến tự đánh giá năng lực giảng dạy. Kết   quả này có ý nghĩa quan trọng trong việc đề xuất ra các biện pháp nâng cao   tự đánh giá năng lực cho giảng viên, đồng thời giúp người cán bộ phân công  nhiệm vụ giảng dạy cho giảng viên mình quản lý một cách hợp lý và hiệu  quả nhất.  7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án Ý nghĩa về lý luận Kết quả nghiên cứu của luận án bổ sung về lý luận ở lĩnh vực khoa học  tâm lý đối với tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên ở các trường sĩ   quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Ý nghĩa về thực tiễn Là cơ sở để nâng cao hơn nữa vai trò của tự đánh giá năng lực giảng dạy   đối với hiệu quả  hoạt động giảng dạy của giảng viên ở  các trường sĩ quan   Quân đội nhân dân Việt Nam. Kết quả nghiên cứu, có thể vận dụng trong hoạt   động giảng dạy cho các giảng viên ở nhà trường quân sự. Là   tài   liệu   tham   khảo   có   giá   trị   nghiên   cứu,   tham   khảo   cho   các  giảng viên, các cấp lãnh đạo quản lý góp phần nâng cao hiệu quả  hoạt 
  14. 14 động giảng dạy của giảng viên các trường sĩ  quan nói riêng, các học  viện, nhà trườ ng Quân đội nói chung. 8. Kết cấu của luận án  Luận án gồm: Mở đầu, 4 chương; kết luận; danh mục các công trình  khoa học của tác giả đã được công bố; danh mục tài liệu tham khảo và Phụ  lục.
  15. 15 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN  TỰ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC GIẢNG DẠY CỦA GIẢNG VIÊN Hiện nay những công trình về tự đánh giá năng lực ở Việt Nam là một   vấn đề mới, nghiên cứu về vấn đề này đề cập đến tự đánh giá năng lực của  người lao động, học sinh và các yếu tố   ảnh hưởng. Trên thực tế  chưa có  hướng tới nghiên cứu toàn diện, tổng thể về tự đánh giá năng lực nói chung và  tự đánh giá năng lực giảng dạy của giáo viên, giảng viên nói riêng. Do đó, việc   tổng quan các hướng nghiên cứu dưới đây sẽ giúp cho những người quan tâm  một cái nhìn đầy đủ, đa dạng phong phú hơn về các vấn đề liên quan đến tự  đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên ở các trường sĩ quan của Quân đội   nhân dân Việt Nam. 1.1. Những nghiên cứu có liên quan đến tự đánh giá năng lực giảng   dạy của giảng viên 1.1.1. Những nghiên cứu có liên quan đến biểu hiện tự đánh giá năng   lực giảng dạy của giảng viên Hướng nghiên cứu về các mặt biểu hiện năng lực giảng dạy của giảng   viên. Năng lực giảng dạy hay còn gọi là năng lực dạy học, trong luận án này  tác giả gọi là năng lực giảng dạy. Đây là năng lực chuyên biệt của người giảng  viên trong hoạt động giảng dạy, Dưới đây là một số kết quả nghiên cứu về các  biểu hiện của năng lực giảng dạy: Theo Tschannen Moran, Woolfolk Hoy (2001) năng lực giảng dạy của  giảng viên bao gồm: Năng lực thực hiện mục đích, yêu cầu giảng dạy; năng  lực quản lý lớp học và năng lực thu hút sinh viên [131]. Quan điểm này nhấn  mạnh đến các năng lực thực hiện chức trách nhiệm vụ  của giảng viên trong   quá trình lên lớp thực hiện các nội dung giảng dạy. 
  16. 16 Nhóm tác giả  Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (2008)  khẳng định, năng lực  giảng dạy, bao gồm: Năng lực hiểu trình độ  học sinh  trong giảng dạy và giáo dục; tri thức và năng lực hiểu biết; năng lực chế biến  tài liệu học tập; năng lực truyền đạt tài liệu; năng lực ngôn ngữ [20, tr.191. Năng lực giảng dạy của giảng viên được hình thành dựa trên nền tảng  tổng hợp cấu trúc nhiều thành phần có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau  để tạo thành một chỉnh thể thống nhất, trọn vẹn; tạo nên đặc điểm tâm lý cá  nhân để đạt được hiệu quả cao nhất trong các hoạt động giảng dạy: Năng lực   giảng dạy của giảng viên được đánh giá tập trung chủ yếu vào các nội dung  sau: Mức độ nắm tri thức cơ bản và tri thức chuyên ngành; Mức độ nắm hệ  thống tri thức về khoa học giáo dục; Mức độ hình thành hệ thống kỹ xảo, kỹ  năng dạy học; Mức độ hình thành, phát triển của tư duy và khả năng sáng tạo  trong dạy học [50]. Với quan điểm này, các tác giả Trường Sĩ quan Chính trị  (2016) đã đưa ra các mặt biểu hiện năng lực thuộc về  đặc điểm tâm lý của   người giảng viên.  Bộ  giáo dục và đào tạo (2014), cho rằng, năng lực   giảng dạy  bao gồm  những loại sau: năng lực am hiểu người học và hỗ trợ phát triển năng lực người   học; năng lực xây dựng mục tiêu, kế hoạch, tài liệu giảng dạy; năng lực sử dụng  phương pháp, phương tiện giảng dạy; năng lực kiểm tra đánh giá kết quả học tập   của sinh viên và năng lực xây dựng môi trường học tập học trên lớp [4]. Nguyễn  Thị Thanh Thảo, Nguyễn An Phú (2020) cho rằng: năng lực giảng dạy bao gồm  nền tảng kiến thức chuyên môn đáp ứng yêu cầu cho việc giảng dạy; khả năng   phát triển giáo trình giảng dạy phong phú; cập nhật thời đại, khả năng tổ chức lớp   học đa dạng; ứng dụng công cụ công nghệ cho lớp học sinh động và tương tác đa   chiều [40]. Như vậy, với các kết quả nghiên cứu trên, có thể nhận thấy, khi bàn về  các biểu hiện của năng lực giảng dạy, các công trình đều nhấn mạnh đến năng 
  17. 17 lực thuộc đặc điểm tâm lý hoặc năng lực thực hiện các nhiệm vụ  trong quá  trình   lên   lớp   của   giảng   viên.   Trong   đó   quan   điểm   của  Tschannen   Moran,  Woolfolk Hoy bàn về  các biểu hiện của năng lực người giảng viên thể  hiện  trong quá trình lên lớp là quan điểm phù hợp với hướng nghiên cứu của đề tài  luận án. Hướng nghiên cứu các mặt biểu hiện tự đánh giá năng lực giáo viên và   tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên Bandura (1997) [73], các biểu hiện tự đánh giá năng lực giáo viên, bao  gồm: Tự đánh giá năng lực ảnh hưởng đến việc ra các quyết định của trường;  tự đánh giá năng lực trong ảnh hưởng đến các nguồn lực của trường; tự đánh  giá năng lực trong thực hành giảng dạy; tự đánh giá năng lực xây dựng tính kỷ  luật tự giác của học sinh; tự đánh giá năng lực tranh thủ sự tham gia giúp đỡ  của cha mẹ  học sinh; tự  đánh giá năng lực tranh thủ  sự  tham gia của cộng   đồng; tự đánh giá năng lực tạo ra môi trường học tập tích cực. Với quan điểm  này, tác giả đã đề cập đến các khía cạnh, hay các mặt biểu hiện tự đánh giá   năng lực chung của giáo viên. Tuy nhiên, các biểu hiện này sẽ là phù hợp để  xác định các mặt tự đánh giá năng lực của giáo viên phổ thông, nhưng chưa phù  hợp đến đánh giá các mặt tự  đánh giá năng lực cho giảng viên đại học nói  chung và cho giảng viên các trường sĩ quan trong Quân đội nhân dân Việt Nam   nói riêng. Schwarzer, Gerdamarie Schmitz và Gary Daytner (1999), xác định các  biểu hiện của tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên bao gồm các mặt:   tự đánh giá năng lực hoàn thành công việc; tự đánh giá năng lực phát triển kỹ  năng giảng dạy; tự đánh giá năng lực tương tác với với sinh viên, phụ huynh và  đồng nghiệp và tự đánh giá năng lực đối phó với căng thẳng trong giảng dạy   [1123].  Hai tác giả Tschannen và Woolfolk (2001) tập trung vào tự đánh giá năng 
  18. 18 lực giảng dạy của giảng viên trên ba mặt cơ bản, đó là: Tự đánh giá năng lực   quản lý lớp học, tự đánh giá năng lực thu hút sinh viên và tự đánh giá năng lực   thực hiện mục đích, yêu cầu giảng dạy [131]. Những nội dung này có những   điểm trùng với quan điểm của Bandura, tuy nhiên các biểu hiện được Tchannen  và Woolfolk đưa ra một cách cụ thể, thể hiện đầy đủ các mặt biểu hiện của tự  đánh giá năng lực giảng dạy, đồng thời cũng thể hiện được đầy đủ các nhiệm   vụ mà người giảng viên cần phải thực hiện trong quá trình giảng bài ở trên lớp.  Do đó, đây là quan điểm có tính ứng dụng, phổ biến rộng rãi và đã có nhiều nhà  khoa học sau này ở các quốc gia sử dụng làm cơ sở để xác định các khía cạnh  tự đánh giá năng lực người giảng viên, tiêu biểu như:  Heneman và cộng sự  (2006) [92], Klassen (2009) [96] và Morris (2010)  [104] dựa trên kết quả  nghiên cứu của nghiên cứu của Tschannen­Moran &  Woolfolk Hoy để đưa ra các thành phần, cũng như các mặt biểu hiện của tự  đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên bao gồm: tự đánh giá năng lực thực  hiện mục đích, yêu cầu giảng dạy; tự đánh giá năng lực thu hút sinh viên; tự  đánh giá năng lực quản lý lớp học. Đồng thời còn xem xét các mặt biểu hiện  này trong mối quan hệ với 4 yếu tố ảnh hưởng đến tự đánh giá năng lực, đó là:   trải nghiệm trong hoạt động; học hỏi kinh nghiệm; đánh giá, phản hồi của  những người xung quanh và trạng thái cơ thể, cảm xúc của giảng viên. Muhammet Emin và cộng sự (2017) [107] cũng dựa trên quan điểm của  của Tschannen­Moran & Woolfolk Hoy để đánh giá các mặt biểu hiện của tự  đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên. Kết quả: tự  đánh giá năng lực  thực hiện mục đích yêu cầu giảng dạy đạt mức cao nhất, tự đánh giá năng lực  thu hút sinh viên đạt mức thấp nhất. Bên cạnh đó, kết quả  phân tích tương  quan Pearson cho thấy ba mặt biểu hiện có tương quan thuận với nhau và cùng  tương quan tích cực tới tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên... 
  19. 19 Với kết quả  nghiên cứu trên đây cho thấy, tự đánh giá năng lực giảng   dạy của giáo viên, giảng viên bao gồm nhiều cách phân loại các mặt biểu hiện  khác nhau, tùy theo đối tượng khách thể, tính chất và nhiệm vụ của nhà nghiên   cứu. Quan điểm của Tchannen và Woolfolk đưa ra, nghiên cứu cho rằng, đó là  quan điểm thể hiện đầy đủ nhất những khía cạnh, các mặt tự  đánh giá năng   lực giảng dạy người giảng viên khi giảng dạy nội dung trên lớp, đồng thời phù  hợp với hướng nghiên cứu của luận án. Do vậy, quan điểm  của Tchannen và  Woolfolk là cơ sở khoa học quan trọng để tác giả đưa ra các biểu hiện, chỉ báo  cơ bản và tiêu chí đánh giá cho tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên  ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Hướng nghiên cứu về thang đo mức độ các biểu hiện tự đánh giá năng   lực của giáo viên, tự đánh giá năng lực giảng dạy của giáo viên/giảng viên Thứ nhất, lý luận chung về thang đo Theo Bandura và cộng sự  (1997)  [73], thang đo tự  đánh giá năng lực  thường được để  đo lường nhận thức, niềm tin của mọi người vào năng lực  của chính mình đáp  ứng các mức độ  khác nhau, các yêu cầu khác nhau của  nhiệm vụ. Khi xây dựng thang đo, cần lưu ý một số vấn đề sau: (1) Đo lường về tự đánh giá năng lực Tự đánh giá năng lực thường được đo theo ba chiều cạnh cơ bản: Mức   độ, sức mạnh và tính tổng quát: Mức độ: Năng lực hoạt động hiệu quả và tự đánh giá năng lực của mỗi  người vào từng lĩnh vực, từng tình huống, từng nhiệm vụ… là khác nhau Tính tổng quát: Nhiều người có thể tự nhận mình hoạt động hiệu quả  trên nhiều lĩnh vực hoặc trong một số lĩnh vực nhất định. Tính tổng quát có   thể khác nhau về nhiều khía cạnh, bao gồm mức độ  tương tự của các hoạt  động, phương thức các hoạt động được thể hiện ra (hành vi, nhận thức, tình  cảm), đặc điểm định tính của các tình huống cũng như tính cách cá nhân của  những đối tượng mà hoạt động hướng tới. 
  20. 20 Sức mạnh: Đánh giá tự đánh giá năng lực còn dựa vào sức mạnh. Những  người có tự  đánh giá năng lực thấp sẽ  dễ  dàng bị  phủ  nhận bởi những kinh  nghiệm thất bại, trong khi đó, những người tự đánh giá cao vào năng lực của   bản thân sẽ luôn kiên trì, nỗ lực cho dù có khó khăn, trở ngại nào đi chăng nữa.  (2) Về mặt phương pháp luận  Để đo tự đánh giá năng lực, các cá nhân được trình bày qua các mục mô  tả mức độ khác nhau của yêu cầu nhiệm vụ và họ sẽ đánh giá mức độ nhận  thức, tin tưởng của bản thân vào năng lực thực hiện những hoạt động được   yêu cầu. Các mục trên chủ yếu xoay quanh vấn đề  “có thể làm gì” (Can do)  hơn là vấn đề “sẽ làm gì” (Will do). Có thể là sự đánh giá về năng lực còn sẽ  là sự đánh giá về ý định. Tự đánh giá năng lực là một nhân tố chính quyết định  ý định trong thực hiện hành động của con người.  Thứ hai, hình thức đo lường Có hai hình thức có thể được sử dụng để đo mức độ  tự  đánh giá năng   lực:  Cá nhân sẽ tự trả lới vào câu hỏi mình có thể thực hiện các nhiệm vụ  (cho sẵn ở phiếu trắc nghiệm) với mức độ nào. Họ nhận thấy mình làm được  nhiệm vụ ở mức độ nào sẽ đánh dấu vào mức độ. Cá nhân chỉ  cần chấm điểm mức độ  hiệu quả  của mình bằng thang  điểm từ 0 đến 100 hoặc từ 0 đến 10, cho mỗi mục hoạt động. Hình thức tự  đánh này dễ dàng và tiện lợi hơn khi sử dụng. Các điểm đánh giá mức độ hoạt  động hiệu quả sẽ  được tính tổng và chia cho tổng số  các mục, từ  đó tính ra   được mức độ tự hiệu quả của cá nhân trong phạm vi hoạt động của mình. Thứ ba, các nghiên cứu về thang đo Thang đo của Schwarzer và Jerusalem (1995) [122] và thang đo tự đánh   giá năng lực của Chen, Gully và Eden phát triển vào năm 2001 [Dẫn theo 93].   Hai thang đo đã nêu lên được các đặc điểm cơ  bản của tự đánh giá năng lực 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2