Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Giải quyết tố cáo của công dân - Từ thực tiễn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội
lượt xem 7
download
Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo của công dân thể hiện trong Luật Tố cáo năm 2018 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cơ sở lý luận về tố cáo; thực trạng công tác giải quyết tố cáo của cá nhân trên địa bàn huyện Quốc Oai và các phương hướng, giải pháp tiếp tục đổi mới giải quyết tố cáo của cá nhân từ thực tiễn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Giải quyết tố cáo của công dân - Từ thực tiễn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ 0 HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN SƠN TÙNG GIẢI QUYẾT TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN - TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI - NĂM 220
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN SƠN TÙNG GIẢI QUYẾT TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN - TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8380102 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS LÊ THỊ HƯƠNG HÀ NỘI - NĂM 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Hành chính Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị khoa Nhà nước và Pháp luật xem xét để tôi được bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 08 tháng 09 năm 2020 Tác giả Luận văn Nguyễn Sơn Tùng
- LỜI CẢM ƠN Luận văn này là kết quả của bản thân sau một quá trình nỗ lực học tập và nghiên cứu với sự giúp đỡ của thầy cô, đơn vị, đồng nghiệp và người thân. Để có được thành quả ngày hôm nay, lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS - TS. Lê Thị Hương, người hướng dẫn khoa học trực tiếp, đã dành nhiều thời gian, công sức trong quá trình nghiên cứu để giúp tôi hoàn thành luận văn này. Tiếp theo, tôi xin gửi lời cảm ơn đến Học viện Hành chính Quốc gia, khoa Sau Đại học cùng toàn thể thầy, cô giáo của Học viện Hành chính Quốc gia đã giảng dạy tận tình và truyền đạt những kiến thức quý báu, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi xin chân thành cảm ơn Thanh tra huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội đã hỗ trợ, giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Xin gửi lời cảm ơn tới các đồng chí Cán bộ, công chức công tác tại Thanh tra huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu điều tra nghiên cứu. Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến gia đình, người thân, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi an tâm công tác, học tập và sự quan tâm, chia sẻ của các bạn học cùng lớp Cao học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính LH4B4 cũng chính là động lực giúp tôi hoàn thành khóa học và luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn./. Tác giả Nguyễn Sơn Tùng
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 2 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ 9 GIẢI QUYẾT TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN 1.1. Quyền tố cáo của công dân và trách nhiệm của nhà nước trong giải 9 quyết tố cáo 1.2. Khái niệm, nguyên tắc, thẩm quyền và quy trình giải quyết tố cáo 18 của công dân 1.3. Các yếu tố bảo đảm giải quyết tố cáo của công dân 36 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TỐ CÁO CỦA CÔNG 41 DÂN Ở HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội – bối cảnh phát sinh tố cáo của 41 công dân ở huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội 2.2. Hoạt động giải quyết tố cáo của công dân ở huyện Quốc Oai, thành 47 phố Hà Nội 2.3. Đánh giá thực trạng giải quyết tố cáo của công dân ở huyện Quốc 56 Oai, thành phố Hà Nội CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM GIẢI QUYẾT TỐ 66 CÁO CỦA CÔNG DÂN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 3.1. Nhóm giải pháp về nhận thức 66 3.2. Nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật 71 3.3. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện giải quyết tố cáo của công 75 dân 3.4. Nhóm giải pháp cho huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội 81 KẾT LUẬN 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88 1
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân do Nhân dân vì Nhân dân, quyền tố cáo là một trong những quyền năng pháp lý để Nhân dân thực hiện quyền làm chủ. Công dân sử dụng quyền khiếu nại tố cáo để tham gia quản lý nhà nước đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Điều 30 Hiến pháp 2013 đã quy định: 1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật. Giải quyết tố cáo của công dân là một vấn đề luôn được Đảng, Nhà nước đặc biệt chú trọng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay nhằm xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật; đồng thời bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, bảo đảm công bằng xã hội, an toàn cho công dân, tổ chức. Những năm qua, công tác giải quyết tố cáo của các cơ quan nhà nước thu được những kết quả quan trọng: đã khôi phục, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho công dân, cơ quan, tổ chức...Thông qua giải quyết tố cáo của công dân, các cơ quan nhà nước đã kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh những sơ hở trong quản lý kinh tế, yếu kém trong quản lý nhà nước; nhiều văn bản, chính sách, chế độ đã được sửa đổi, bổ sung phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ mới; đã khuyến khích người dân tích cực tham gia phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong giải quyết tố cáo… 2
- Song bên cạnh đó, tình hình tố cáo của công dân vẫn còn diễn biến phức tạp: số lượng các vụ việc tố cáo qua các năm vẫn còn nhiều, tình hình tố cáo gay gắt thường xảy ra tại các thời điểm trước bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, đại hội Đảng hoặc liên quan đến việc quản lý đất đai, tài chính, bổ nhiệm cán bộ cấp cơ sở...; một số địa phương xảy ra những vụ tố cáo đông người, kéo dài; việc xử lý một số hành vi vi phạm pháp luật bị phát hiện qua tố cáo chưa nghiêm túc, chưa dứt điểm…đã ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh tế - chính trị, trật tự an toàn xã hội. Do vậy, mục tiêu cần thiết phải có những phương hướng, giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động giải quyết tố cáo nhằm phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, hạn chế tình trạng tố cáo tràn lan, kéo dài, vượt cấp, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Trong những năm gần đây, công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư trên địa bàn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy vậy những kết quả đã đạt được vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Một trong những nguyên nhân của hạn chế đó là chưa có phương hướng, giải pháp tốt để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác tiếp dân, giải quyết tố cáo. Từ thực tế nêu trên, việc nghiên cứu nhằm đưa ra các giải pháp nhằm bảo đảm giải quyết đơn thư, đặc biệt là đơn thư tố cáo là cần thiết. Đây cũng chính là lý do đề tài: “Giải quyết tố cáo của công dân - Từ thực tiễn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội” được tác giả lựa chọn để nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Giải quyết tố cáo là một lĩnh vực hết sức quan trọng trong hệ thống quản lý nhà nước và điều hành xã hội. Cho đến nay, đã có không ít công trình nghiên cứu ở các mức độ khác nhau liên quan đến đề tài góp phần làm rõ thêm vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác xử lý đơn thư, giải quyết tố cáo. 3
- Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài đã được công bố trong thời gian vừa qua như: - Đề tài Luận văn của Thạc sĩ Hồ Thị Thu An, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội “Hoàn thiện pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo ở Việt Nam hiện nay”, năm 2009. - Đề tài luận văn Thạc sĩ của Lê Đình Cung, Ban Tiếp công dân thành phố Hà Nội: “Thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Ban Tiếp công dân thành phố Hà Nội”, năm 2019. - Đề tài cấp nhà nước năm 2011, Khiếu nại, tố cáo hành chính - Cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp”, TS. Lê Tiến Hào, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ. - Đề tài cấp cơ sở, năm 2011: “Cơ sở khoa học của việc hoàn thiện hệ thống các quy định nghiệp vụ về giải quyết khiếu nại, tố cáo” ThS. Nguyễn Huy Hoàng, Phó Hiệu trưởng Trường Cán bộ Thanh tra - Thanh tra Chính phủ. - Đề tài cấp Bộ năm 2011 “Trách nhiệm pháp lý của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng” , ThS.Nguyễn Tuấn Khanh, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Thanh tra, Thanh tra Chính phủ. - Đề tài cấp Bộ năm 2011 “Nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng của Thanh tra Chính phủ”, ThS. Văn Tiến Mai, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính phủ. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2010 “Xử lý các hành vi vi phạm Luật Khiếu nại, tố cáo - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”. ThS.Nguyễn Văn Kim, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính phủ. 4
- Các công trình nghiên cứu kể trên đã góp phần không nhỏ làm rõ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết tố cáo ở Việt Nam hiện nay. Những công trình này đưa ra những nhận định, đánh giá về thực trạng và đề ra những phương hướng và giải pháp hoàn thiện có tính khả thi về giải quyết tố cáo ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào đề cập cụ thể thực trạng giải quyết tố cáo ở huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội trong những năm gần đây. Đề tài nghiên cứu “Giải quyết tố cáo của công dân - từ thực tiễn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội”, ngoài việc kế thừa những ưu điểm, những mặt tích cực của các đề tài nghiên cứu trước còn tập trung nghiên cứu vào những nội dung cụ thể, sát với thực tiễn quá trình giải quyết tố cáo từ cơ sở với mong muốn đưa ra những phương hướng, giải pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết tố cáo trong quản lý hành chính nhà nước. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích của Luận văn Làm sáng tỏ thêm những vấn đề có tính lý luận, rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật về tố cáo, tiếp cận những cơ sở để đánh giá được vị trí, vai trò của tố cáo và giải quyết tố cáo trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và hoạt động quản lý hành chính nhà nước nói riêng. Từ đó, căn cứ vào thực tiễn giải quyết tố cáo của công dân ở huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội để đưa ra các phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động giải quyết tố cáo. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn - Phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền tố cáo của công dân; trách nhiệm của Nhà nước trong tôn trọng, bảo vệ, tổ chức thực hiện quyền tố cáo của công dân; nội dung, thẩm quyền và quy trình giải quyết tố 5
- cáo của công dân; các yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết tố cáo của công dân do UBND huyện thực hiện. - Phân tích thực trạng giải quyết tố cáo của công dân trên địa bàn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân về mặt pháp luật và tổ chức thực hiện. - Xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp bảo đảm giải quyết tố cáo của công dân từ thực tiễn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về tố cáo và giải quyết tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo của công dân thể hiện trong Luật Tố cáo năm 2018 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cơ sở lý luận về tố cáo; thực trạng công tác giải quyết tố cáo của cá nhân trên địa bàn huyện Quốc Oai và các phương hướng, giải pháp tiếp tục đổi mới giải quyết tố cáo của cá nhân từ thực tiễn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. Về mặt không gian: Huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. Về mặt thời gian: Luận văn nghiên cứu hoạt động giải quyết tố cáo trên địa bàn huyện Quốc Oai từ năm 2016 đến Quý I năm 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Về cơ sở lý luận Đề tài được nghiên cứu dựa theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng ta về Nhà nước và pháp luật nói chung và về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. 6
- 5.2. Về phương pháp nghiên cứu Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Triết học Mác Xít; đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về tố cáo. Đồng thời tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong khi thực hiện đề tài là: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê. Trong đó: Chương 1: Chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu như: rà soát, tổng hợp, phân tích nhằm làm rõ cơ sở lý luận, các quy định của pháp luật về tố cáo. Chương 2: Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng là tổng hợp, thống kê nhằm khái quát thực trạng giải quyết tố cáo trên địa bàn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. Chương 3: Sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của các phương hướng, giải pháp được đề xuất nhằm bao đảm giải quyết tố cáo của công dân. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn - Luận văn góp phần làm rõ hơn những khía cạnh lý luận và pháp lý về giải quyết tố cáo nói chung, giải quyết tố cáo hành chính nói riêng. - Luận văn là tài liệu tham khảo cho các nhà khoa học, các nhà quản lý trong quá trình xây dựng các phương án hoàn thiện pháp luật tố cáo, nâng cao hiệu quả công tác giải quyết tố cáo của công dân ở nước ta hiện nay. - Luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo học tập cho sinh viên Luật và học viên cao học Luật tại các cơ sở đào tạo Luật ở Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm ba Chương: 7
- Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về giải quyết tố cáo của công dân. Chương 2: Thực trạng giải quyết tố cáo của công dân ở huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội Chương 3: Các giải pháp bảo đảm giải quyết tố cáo của công dân từ thực tiễn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. 8
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN 1.1. QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ NƯỚC TRONG GIẢI QUYẾT TỐ CÁO 1.1.1. Tố cáo và quyền tố cáo của công dân 1.1.1.1. Tố cáo Theo Từ điển Tiếng Việt thì tố cáo là “báo cho mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó” hay “là vạch rõ tội lỗi của kẻ khác trước cơ quan pháp luật hoặc trước dư luận” [51, tr.1663]. Tố cáo là biểu hiện sự bất bình của người này về hành vi của người khác và báo cho cơ quan, tổ chức, người khác biết để có thái độ, biện pháp giải quyết. Tố cáo phản ánh những điều bất ổn đang diễn ra trong xã hội, cần được những thiết chế chính trị - xã hội có phương thức giải quyết. Quyền tố cáo, quyền công dân là những giá trị xã hội, thuộc về mỗi cá nhân con người. Sự thụ hưởng, chọn lọc quyền này tùy thuộc vào mỗi cá nhân. Bản chất của tố cáo được xem xét dưới các khía cạnh sau đây: Một là, chủ thể thực hiện quyền tố cáo chỉ là công dân. Khác với khiếu nại, là cả công dân, cơ quan, tổ chức đều có quyền khiếu nại. Quy định này nhằm cá thể hoá trách nhiệm của người tố cáo, nếu có hành vi cố ý tố cáo sai sự thật thì tuỳ theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật. Hai là, đối tượng tố cáo là các hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Luật Tố cáo quy định có hai loại hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo gồm: (1) hành vi vi 9
- phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ; (2) hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. Ba là, chủ thể có thẩm quyền giải quyết tố cáo là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Về nguyên tắc, người tố cáo có thể tố cáo hành vi vi phạm pháp luật đến cơ quan nhà nước. Trong trường hợp người tố cáo bằng đơn mà tố cáo đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan nhận được đơn thì cơ quan đó có trách nhiệm chuyển đơn tố cáo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết. Trường hợp người tố cáo đến tố cáo trực tiếp mà tố cáo đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan tiếp nhận thì người tiếp nhận có trách nhiệm hướng dẫn người tố cáo đến tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết. Bốn là, trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo bao gồm: (1) Thụ lý tố cáo; (2) Xác minh nội dung tố cáo; (3) Kết luận nội dung tố cáo; (4) Xử lý kết luận nội dung tố cáo của người giải quyết tố cáo. Năm là, bản chất của kết quả giải quyết tố cáo, nếu người bị tố cáo vi phạm pháp luật thì áp dụng các biện pháp xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật; nếu hành vi vi phạm của người bị tố cáo có dấu hiệu tội phạm thì chuyển vụ việc cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền để giải quyết tố cáo; trường hợp người bị tố cáo không vi phạm thì phải thông báo bằng văn bản cho người bị tố cáo, cơ quan quản lý người bị tố cáo, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tố cáo bị xâ phạm, đồng thời xử lý hoặc kiến nghị xử lý người cố ý tố cáo sai sự thật. Như vậy, bản chất của tố cáo là việc người tố cáo báo cho người có thẩm quyền giải quyết tố cáo biết về hành vi vi phạm pháp luật mà hành vi đó chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự (không phải là tội phạm) thuộc 10
- thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước theo quy định của Luật Tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành. 1.1.1.2. Quyền tố cáo Công dân có quyền tố cáo là một nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân do Nhân dân vì Nhân dân. Quyền lực nhà nước bao hàm cả ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều thuộc về Nhân dân. Nhân dân có quyền tham gia vào quản lý nhà nước. Nhà nước do Nhân dân được hiểu là Nhân dân có quyền giám sát, kiểm tra hoạt động của các cơ quan nhà nước và cán bộ công chức, viên chức nhà nước. Quyền tố cáo của công dân như đã phân tích ở trên là quyền làm chủ trực tiếp của Nhân dân. Quyền tố cáo của công dân là để đối trọng và ngăn cản, hạn chế quyền lực nhà nước nhằm bảo vệ quyền lực nhân dân, quyền và tự do của con người. Hạn chế quyền lực nhà nước ở đây được hiểu là quyền tố cáo của công dân được thực hiện để chống các hành vi lạm quyền, cửa quyền sách nhiễu người dân, lãng phí tham nhũng tài sản công, tài chính công, góp phần xây dựng, làm trong sạch bộ máy nhà nước. Quyền tố cáo của công dân phản ánh sự phát triển của nền dân chủ và mang đặc điểm xã hội, chịu sự chi phối của điều kiện tồn tại xã hội. Mức độ thực hiện quyền tố cáo tác động trở lại sự phát triển xã hội. Quyền tố cáo, quyền công dân thể hiện truyền thống và văn hóa dân tộc. Quyền phát triển dưới ảnh hưởng của những điều kiện về tư tưởng, văn hóa, truyền thống, dân tộc, tôn giáo… Phạm vi thực hiện quyền tố cáo được xác định chặt chẽ bằng pháp luật của Nhà nước. Trách nhiệm của Nhà nước là tạo khuôn khổ pháp lý cho quyền tố cáo thông qua quy định về nội dung cụ thể của quyền, trách nhiệm pháp lý của mỗi cá nhân, tổ chức. Nghiêm cấm việc cản trở người khác thực 11
- hiện quyền tố cáo, hoặc lợi dụng, lạm dụng quyền hoặc trốn tránh nghĩa vụ pháp lý khi bị tố cáo. Về phương diện chính trị - pháp lý, quyền tố cáo được các văn bản pháp luật quốc tế về quyền con người ghi nhận và bảo đảm các quốc gia trên thế giới đều tham gia và cam kết thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người. Vì vậy Hiến pháp của các quốc gia đó đã ghi nhận, bảo vệ quyền tố cáo của công dân. Đồng thời được cụ thể hóa và đảm bảo thực hiện quyền tố cáo bởi các Luật và Văn bản hướng dẫn thi hành luật. Khoản 3, Điều 2 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: Các quốc gia thành viên Công ước cam kết: a) Bảo đảm rằng bất cứ người nào bị xâm phạm các quyền và tự do như được công nhận trong Công ước này đều nhận được các biện pháp khắc phục hiệu quả, cho dù sự xâm phạm này là do hành vi của những người thừa hành công vụ gây ra; b) Bảo đảm rằng bất kỳ người nào có yêu cầu về các biện pháp khắc phục sẽ được các cơ quan tư pháp, hành pháp hoặc lập pháp có thẩm quyền hoặc bất kỳ cơ quan nào khác có thẩm quyền do hệ thống pháp luật của quốc gia quy định, xác định quyền lợi cho họ và sẽ mở rộng khả năng áp dụng các biện pháp khắc phục mang tính tư pháp; c) Đảm bảo rằng các cơ quan có thẩm quyền sẽ thi hành các biện pháp khắc phục đã được đề ra [tr.2]. Pháp luật một số quốc gia trên thế giới thừa nhận tố cáo là quyền của công dân, được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Trung Quốc, Singapore, Anh, Ấn Độ, Hàn Quốc, Úc đều quy định về quyền này và có thiết chế đảm bảo thực hiện. Nhiều nước quy định bất kỳ công dân nào cũng có quyền báo cho cơ quan có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật (hoặc nghi ngờ hành vi 12
- vi phạm) của bất cứ cá nhân, tổ chức nào cho cơ quan có thẩm quyền. Đối với các hành vi phạm tội về tham nhũng, hành vi phạm tội nói chung, tố cáo không chỉ là quyền mà là nghĩa vụ của công dân. Một số nước quy định các biện pháp khuyến khích để quyền tố cáo được thực hiện đầy đủ và mở rộng. Hàn Quốc, Nêpan, Pakixtan quy định mức thưởng cho những người có thông tin phát hiện chính xác về tham nhũng… Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tham gia và cam kết thực hiện các Công ước Quốc tế về quyền con người nêu trên. Vì vậy quyền tố cáo của công dân được các bản Hiến pháp ghi nhận và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Gần đây nhất là Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, ghi nhận tại Khoản 1, Điều 30: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân” [tr.17]. Khoản 2, Điều 2 Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 quy định: Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức [tr.1]. Khoản 1, Điều 2 Luật Tố cáo năm 2011 quy định: Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức [tr.1]. Khoản 1, Điều 2 Luật Tố cáo năm 2018 quy định: 13
- Tố cáo là việc cá nhân theo thủ tục quy định của Luật này báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, bao gồm: - Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; - Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực [tr.1]. Như vậy, bản chất của quyền tố cáo là quyền tự vệ hợp pháp trước những hành vi vi phạm để tự bảo vệ mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của tập thể và của người khác. Đó là quyền phản hồi, quyền dân chủ và hơn thế nữa, đó là quyền năng pháp lý của công dân trong Nhà nước pháp quyền của Nhân dân do Nhân dân vì Nhân dân. 1.1.2. Trách nhiệm của nhà nước trong giải quyết tố cáo của công dân Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh quyền tố cáo không do nhà nước ban phát, song việc đảm bảo trên thực tế lại phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của nhà nước, vào nhận thức và thái độ của hệ thống công quyền. Trách nhiệm của nhà nước trước hết thể hiện ở việc ghi nhận kịp thời và đầy đủ về mặt pháp lý quyền tố cáo của công dân. Đồng thời nhà nước không thể tùy tiện tước bỏ, cắt xén quyền chính trị cơ bản của công dân. Quyền con người nói chung, quyền tố cáo nói riêng là một trong những tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nước. Nhà nước pháp quyền phải quán triệt và hiện thực hóa hai nguyên tắc pháp luật cơ bản về đảm bảo quyền con người: Cá nhân được làm tất cả trừ những điều pháp luật cấm; Cơ quan, cán bộ nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm bảo quyền con người 14
- trong đó có quyền tố cáo của công dân, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền tố cáo của mình theo đúng các quy định của luật pháp. Mối quan hệ giữa công dân và nhà nước được xác định chặt chẽ về phương diện luật pháp và mang tính bình đẳng. Trong quan hệ pháp luật này, công dân có quyền tố cáo, nhà nước và chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ những lợi ích cơ bản nhất của nhà nước, xã hội và công dân. Khoản 2, Điều 30 Hiến Pháp 2013 quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật” [tr.17]. Như vậy, nhà nước ghi nhận quyền tố cáo là một trong những quyền chính trị cơ bản của công dân và nhà nước xây dựng các thiết chế bảo đảm cho công dân được hưởng các quyền, thực hiện quyền và cũng đòi hỏi công dân phải thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với nhà nước. Xét từ yêu cầu, nhà nước có nghĩa vụ phải tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước thông qua quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đảm bảo quyền tố cáo của công dân được thực hiện. Về lĩnh vực lập pháp, Nhà nước phải tổ chức xây dựng Hiến pháp và pháp luật quy định ràng buộc trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan nhà nước, nhà chức trách trong việc tôn trọng, bảo vệ quyền tố cáo, quy định những thiết chế bảo đảm sự tôn trọng, bảo vệ quyền tố cáo một cách hữu hiệu. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước và có giá trị pháp lý cao nhất; mọi văn bản quy phạm pháp luật khác trực tiếp hay gián tiếp liên quan tới quyền tố cáo và bảo đảm của Nhà nước đối với quyền tố cáo đều phải được ban hành trên cơ sở Hiến pháp và phải phù hợp với Hiến pháp. Các quy định của Hiến pháp về quyền tố cáo và bảo đảm của Nhà nước có ý nghĩa to lớn và tầm quan trọng 15
- đặc biệt trong xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật liên quan tới quyền tố cáo. Nhà nước là chủ thể chính của việc tổ chức thực hiện và thực hiện pháp luật về quyền tố cáo. Nhà nước vận động, động viên, thuyết phục và tổ chức các tầng lớp nhân dân tham gia vào quá trình tuyên truyền, phổ biến, giải thích và giáo dục pháp luật về quyền tố cáo; xây dựng, nêu gương và nhân rộng các điển hình của việc thực hiện pháp luật về quyền tố cáo; xây dựng, phát huy và duy trì dư luận xã hội lành mạnh trong việc thực hiện pháp luật về quyền tố cáo; xây dựng và thực hiện các chính sách, cơ chế, có biện pháp phù hợp đảm bảo, kết hợp với các tổ chức quần chúng trong việc tổ chức thực hiện và thực hiện pháp luật về quyền tố cáo; thực hiện dân chủ hóa, công khai hóa và minh bạch hóa quá trình Nhân dân đóng góp nguồn lực vào việc tổ chức thực hiện và thực hiện pháp luật về quyền tố cáo… Nhà nước cần thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh và thống nhất pháp luật về quyền tố cáo. Thực hiện pháp luật về quyền tố cáo được tiến hành dưới bốn hình thức là tuân thủ (tuân theo) pháp luật, chấp hành (thi hành) pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Tuân thủ pháp luật về quyền tố cáo là sự tự kiềm chế của các chủ thể pháp luật để không thực hiện những hành vi bị pháp luật cấm. Do đó các cơ quan nhà nước phải tiếp nhận đơn tố cáo đúng thẩm quyền, không được từ chối hoặc cản trở, trù dập người tố cáo. Ngược lại, người tố cáo không được lợi dụng quyền tố cáo để vu khống, bôi nhọ, súc phạm đến danh dự người bị tố cáo; gây mất đoàn kết nội bộ trong cơ quan nhà nước... Chấp hành pháp luật về quyền tố cáo là sự thực hiện các nghĩa vụ pháp lý bằng những hành vi tích cực của các chủ thể pháp luật (yêu cầu của Nhà nước ở đây không chỉ phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lý mà còn phải thực hiện các nghĩa vụ ấy một cách đầy đủ, nghiêm chỉnh và thống nhất). Sử dụng pháp luật về quyền tố cáo là sự thực hiện các quyền năng pháp lý đó là quyền tố cáo của công dân. Người có đơn thư tố cáo hoặc trực tiếp đến cơ 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 272 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và luật hành chính: Quản lý nhà nước về cư trú từ thực tiễn quận 3, thành phố Hồ Chí Minh
78 p | 109 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đổi mới hoạt động giám sát của HĐND quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội
110 p | 69 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Kiểm soát thủ tục hành chính từ thực tiễn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
87 p | 75 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình
109 p | 80 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình
94 p | 82 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 106 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
86 p | 71 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đánh giá viên chức ngành Y tế từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
83 p | 56 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 61 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Y tế Hà Nội
94 p | 71 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Vi phạm hành chính trong hoạt động dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
91 p | 42 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tuyển dụng viên chức ngành y tế từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
75 p | 50 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế - từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
82 p | 56 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Bảo đảm quyền vui chơi, giải trí của trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội
91 p | 45 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 82 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn