Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở - từ thực tiễn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
lượt xem 7
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, tổng kết một số vấn đề có tính lý luận và thực tiễn của pháp luật về thực hiện DCCS, luận văn hướng tới mục đích chung nhất là đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về thực hiện DCCS từ thực tiễn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở - từ thực tiễn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ .............../............... ......./....... HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA VÕ THỊ ANH TRÂM PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ - TỪ THỰC TIỄN HUYỆN NGHĨA HÀNH, TỈNH QUẢNG NGÃI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ .............../............... ......./....... HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA VÕ THỊ ANH TRÂM PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ - TỪ THỰC TIỄN HUYỆN NGHĨA HÀNH, TỈNH QUẢNG NGÃI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI THỊ THANH THÚY THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi xin chân thành cảm ơn! Huế, ngày 02 tháng 10 năm 2018 Học viên Võ Thị Anh Trâm
- LỜI CẢM ƠN Với lòng kính trọng và sự tri ân sâu sắc, trước tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý Thầy, Cô Học viện Hành chính Quốc gia đã trang bị cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong suốt thời gian qua. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn Giảng viên TS. Bùi Thị Thanh Thúy đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn tận tình từ lúc định hướng chọn đề tài cũng như quá trình hoàn thiện nghiên cứu, cô luôn động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi để giúp tôi có thể hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin cảm ơn các bạn bè, đồng nghiệp đã luôn quan tâm giúp đỡ, cung cấp rất nhiều số liệu, chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tế để giúp tôi có thể hoàn thành nghiên cứu này. Trân trọng! Thừa Thiên Huế, ngày 02 tháng 10 năm 2018 Học viên Võ Thị Anh Trâm
- MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục viết tắt Danh mục bảng biểu MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ................................................................................ 7 1.1. Dân chủ cơ sở và pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở ......................... 7 1.2. Nội dung điều chỉnh của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở ........... 18 1.3. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở .................................................................................................................. 27 1.4. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở hiện nay..35 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NGHĨA HÀNH, TỈNH QUẢNG NGÃI ....... 41 2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Nghĩa Hành có ảnh hưởng đến pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở ......................................... 41 2.2. Thực trạng quy định pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở và thực tiễn triển khai pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi ................................................................................ 45 2.3. Đánh giá chung ..................................................................................... 56 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ - TỪ THỰC TIỄN HUYỆN NGHĨA HÀNH, TỈNH QUẢNG NGÃI ..................................................................... 64 3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở ...................... 64
- 3.2. Một số giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở – từ thực tiễn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi ............................... 67 KẾT LUẬN .................................................................................................... 85 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 86
- DANH MỤC VIẾT TẮT CBCC: Cán bộ, công chức CBCC, VC: Cán bộ, công chức, viên chức DCCS: Dân chủ cơ sở GSĐTCCĐ: Giám sát đầu tư của cộng đồng HĐND: Hội đồng nhân dân. MTQG XD NTM: mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới. QPPL: Quy phạm pháp luật TTND: Thanh tra Nhân dân UBND: Ủy ban nhân dân UBMTTQVN: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam UBTVQH: Ủy ban thường vụ Quốc hội XHCN: Xã hội chủ nghĩa
- DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Thống kê các thiết chế văn hóa trên địa bàn huyện ...................... 47 Bảng 2.2. Tổng hợp kết quả lấy ý kiến đánh giá về sự hài lòng của người dân về XDNTM năm 2017 .................................................................................... 51 Biểu đồ 2.1: Kết quả khảo sát nhận thức của 200 người dân về XD NTM năm 2015 ................................................................................................................. 50 Biểu đồ 2.2: Kết quả khảo sát về tổ chức bộ máy và đào tạo bồi dưỡng cán bộ. .................................................................................................................... 62
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Dân chủ là một sản phẩm của chính trị, thể hiện sự phát triển của nhân loại. Vấn đề chính trị của mỗi quốc gia chịu sự chi phối tác động rất lớn từ việc thực hiện dân chủ, vì có dân chủ mới tạo ra sự công bằng xã hội, mới phát huy sức mạnh của mỗi người và của cả dân tộc cùng đóng góp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Dân chủ là một hình thức thể hiện quyền tự do, bình đẳng của công dân, xác định Nhân dân là chủ thể của quyền lực. Pháp luật là một yếu tố cấu thành của nội dung dân chủ. Và muốn thực hiện được DCCS thì pháp luật về thực hiện DCCS phải hoàn thiện, phải có những thiết chế thực hiện dân chủ cụ thể vào các văn bản pháp luật, các quy phạm pháp luật để cá nhân, tổ chức, cơ quan đơn vị thực hiện. Pháp luật về thực hiện DCCS là một trong những điều kiện nhằm tiếp tục hiện thực hóa ước mơ của quần chúng Nhân dân về một xã hội dân chủ, là cơ sở, tiền đề quan trọng thúc đẩy phát triển đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, tạo điều kiện bảo đảm thực hiện thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên đất nước ta, xây dựng đảng ta thực sự trong sạch vững mạnh. Pháp luật về thực hiện DCCS nếu được thực hiện tốt sẽ tạo ra cơ sở pháp lý, tạo môi trường phát huy khả năng sáng tạo, sức mạnh của cộng đồng, là điều kiện để hệ thống chính trị, tổ chức bộ máy nhà nước áp dụng thực thi hiệu quả trong quá trình quản lý, điều hành đất nước theo đúng định hướng mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn, đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: "Thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn”. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, thời gian qua cùng với việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, Đảng ta thường xuyên chăm 1
- lo xây dựng và thực hiện chế độ dân chủ XHCN. Đảng ta khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”. Xã hội XHCN mà Nhân dân ta xây dựng là xã hội “do Nhân dân làm chủ”. Các yêu cầu và nội dung của nền dân chủ XHCN từng bước được khẳng định rõ hơn trong từng bản Hiến pháp, được thể chế hóa trong các luật, pháp lệnh, nghị định, các văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tổ chức thực hiện, trong đó, pháp luật về thực hiện DCCS được chú trọng hoàn thiện và cụ thể hóa trong nhiều lĩnh vực, đi vào thực chất hơn, không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội, thể hiện tính ưu việt của chế độ dân chủ XHCN, quyền làm chủ của Nhân dân được tôn trọng và phát huy đảm bảo nguyên tắc toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Người dân đã hiểu rõ hơn về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý ý thức hơn trong việc tuân thủ pháp luật về thực hiện DCCS, thể hiện trách nhiệm trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền hạn được giao. Nhờ đó niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ngày càng được củng cố, vai trò, sức sáng tạo trong Nhân dân được phát huy, góp phần tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Pháp luật về thực hiện DCCS cần được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ hơn nữa kể cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Đặc biệt đối với thực tế Nghĩa Hành là một huyện trung du duy nhất của tỉnh Quảng Ngãi, là huyện đầu tiên được tỉnh chỉ đạo triển khai thực hiện điểm Chương trình MTQG XD NTM. Mặc dù, pháp luật về thực hiện DCCS được địa phương triển khai thực hiện và 2
- đã đạt những kết quả rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện vẫn còn những vấn đề bất cập, khó khăn, thách thức nhất định. Nhận thức pháp luật về thực hiện DCCS của một bộ phận cán bộ, đảng viên và Nhân dân chưa đầy đủ, đúng đắn, hiệu quả chưa cao, vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Vai trò, trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu, CBCC, VC có nơi còn xem nhẹ hoặc né tránh, bỏ mặc, thờ ơ hoặc đối phó với những bức xúc của Nhân dân. Một số nội dung quy định “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” còn nhiều vướng mắc, ảnh hưởng đến việc thực hiện các chủ trương phát triển kinh tế xã hội tại địa phương, nhất là trong lĩnh vực đền bù, giải phóng mặt bằng thực hiện các chương trình dự án, quy hoạch đất đai, về tuyển dụng, quy hoạch đào tạo, đề bạt cán bộ, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của Nhân dân... Để pháp luật về thực hiện DCCS được tiếp tục thực hiện hiệu quả, chất lượng, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trên các lĩnh vực, góp phần xây dựng một huyện Nghĩa Hành phát triển toàn diện, trở thành một huyện nông thôn mới kiểu mẫu đầu tiên của tỉnh thời gian đến, có hệ thống chính trị vững vàng, một bộ máy chính quyền vững mạnh, giảm thiểu những vấn đề bức xúc trong Nhân dân, đặc biệt để đạt được mục tiêu xây dựng xã hội thực sự dân chủ theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII đã được Đảng ta xác định: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để Nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của Nhân dân”. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: “pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở - từ thực tiễn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. 3
- 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nghiên cứu các tài liệu đã được công bố những năm gần đây cho thấy đã có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu vấn đề dân chủ và thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau, trong đó có các công trình tiêu biểu sau đây: - “Hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay”, của Trần Quốc Huy, Luận văn Thạc sĩ luật học, 2006, Học viện Chính trị quốc gia Hồ chí Minh. - “Thực hiện Pháp luật và tăng cường pháp chế XHCN ở nước ta hiện nay” của PGS. Tiến sĩ Quách Sĩ Hưng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009. - “Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và những vấn đề cần hoàn thiện” (2009), Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Bùi Thị Hường. - "Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình", của Trần Công Trung, luận văn thạc sỹ Luật học, 2012, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. - “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên” của Đỗ Văn Dương, luận án tiến sỹ Luật học, năm 2013, Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu nêu trên chỉ tập trung làm rõ các vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở, chưa phân tích làm rõ về mặt lý luận, tính pháp lý của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở nói chung và trong từng loại hình dân chủ cơ sở cụ thể theo quy định hiện hành như Quy định tại Nghị định 04/2015/NĐ-CP, ngày 09 tháng 01 năm 2015 của Chính phủ “về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập”. Đặc biệt, qua khảo cứu có thể thấy đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp và toàn diện về vấn đề pháp luật 4
- về thực hiện DCCS hiện nay xuất phát từ thực tiễn ở một địa bàn cụ thể như huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Vì vậy đề tài vẫn đảm bảo tính mới, tính cấp thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, tổng kết một số vấn đề có tính lý luận và thực tiễn của pháp luật về thực hiện DCCS, luận văn hướng tới mục đích chung nhất là đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về thực hiện DCCS từ thực tiễn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận của pháp luật về thực hiện DCCS, hệ thống hóa các vấn đề lý luận và pháp lý của pháp luật về thực hiện DCCS như khái niệm, đặc điểm, nội dung điều chỉnh. Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về thực hiện DCCS và việc triển khai pháp luật về thực hiện DCCS trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi; chỉ ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng. Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, bảo đảm đưa pháp luật về thực hiện DCCS vào thực tiễn cuộc sống, đặc biệt trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: quy định pháp luật và thực tiễn triển khai thực hiện pháp luật về DCCS. - Phạm vi nghiên cứu: + Phạm vi nội dung: các quy định của pháp luật DCCS và triển khai pháp luật về thực hiện DCCS ở xã, phường, thị trấn và trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập. 5
- + Phạm vi về không gian: Huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. + Phạm vi về thời gian: Từ năm 2012 đến năm 2017 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta về thực hiện DCCS. Phương pháp nghiên cứu: sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: phân tích tổng hợp, thống kê và so sánh, phương pháp lịch sử và logic… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận pháp luật về thực hiện DCCS; phân tích đánh giá thực trạng pháp luật về thực hiện DCCS trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Đề xuất một số phương hướng, giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về thực hiện DCCS và nâng cao hiệu quả của pháp luật về thực hiện DCCS ở cấp huyện trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy nghiên cứu luật học, hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, Luận văn được chia thành 3 chương với nội dung sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở Chương 2: Thực trạng pháp luật về thực hiện DCCS trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thực hiện DCCS – từ thực tiễn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi 6
- Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ 1.1. Dân chủ cơ sở và pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở 1.1.1. Khái niệm dân chủ cơ sở “Dân chủ” là thành quả của nhân loại, thể hiện sự tiến bộ của xã hội. Có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều học giả đề cập đến khái niệm và ý nghĩa của “dân chủ. Thuật ngữ “dân chủ” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ “Demockratia” (vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI trước công nguyên) do hai từ hợp thành: “demos” có nghĩa là Nhân dân và “kratein” có nghĩa là cai trị. Nghĩa tổng quát của “dân chủ” là cai trị bởi Nhân dân hay Nhân dân cai trị” [52, tr.1]. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về dân chủ do cách thức và mục đích tiếp cận khác nhau. Người Hy Lạp cổ đại quan niệm dân chủ là một hình thức cai trị, một hình thức chính phủ trong đó quyền lực thuộc về các tầng lớp người bình dân và tự do. Khái niệm này đã có nhiều bổ sung quan trọng. Đặc biệt theo Abraham Lincoln(1864), điểm khởi đầu của dân chủ là “chính quyền của dân, do dân và vì dân”, Nhân dân có quyền bình đẳng về chính trị, có ảnh hưởng ngang nhau tới quy trình chính trị và chính quyền phải nhấn mạnh tới sự tham gia của đông đảo công chúng; việc cai trị của chính quyền phải nhằm tới lợi ích chung của cộng đồng [51, tr.125]. Các bổ sung này có giá trị rất lớn trong việc xây dựng chính quyền đại diện cho dân. Democritus, một triết gia Hy Lạp cổ đại, thì lại cho rằng “Thà sống nghèo trong một nước dân chủ còn hơn cái gọi là cuộc đời hạnh phúc trong một nước độc tài, vì tự do tốt hơn nô lệ” [53]. Theo quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ luôn mang tính giai cấp, ở đó luôn tồn tại, biến đổi cùng với các cuộc đấu tranh giai cấp và sự 7
- thay đổi của phương thức sản xuất chủ yếu là xã hội. Khi nói về bản chất của hình thức chính trị - nhà nước của xã hội này, Lênin đã chỉ rõ: “Nếu không khinh thường lẽ phải và không khinh thường lịch sử thì ai cũng thấy rõ chừng nào còn có những giai cấp khác nhau thì không thể nói đến dân chủ thuần túy được mà chỉ có thể nói đến dân chủ có tính giai cấp. Cái thứ dân chủ thuần túy, dân chủ vô bờ bến chẳng qua chỉ là một công thức rỗng tuếch, đầy tính giả dối và lừa bịp”. Kế thừa, vận dụng tư tưởng của Chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng: “dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ”. Dân chủ nghĩa là: thứ nhất, dân làm chủ, “nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”; thứ hai, dân chủ là toàn bộ quyền lực và lợi ích đều thuộc về Nhân dân và được thực hiện thông qua các tổ chức quần chúng. Nhà nước ta là một nước dân chủ, mọi việc đều vì lợi ích của Nhân dân mà làm. Khắp nơi có đoàn thể Nhân dân như HĐND, MTTQ, Công đoàn, Hội nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc… những đoàn thể ấy là tổ chức, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền lợi của Nhân dân, liên lạc mật thiết với Nhân dân và chính phủ”, "bao nhiêu lợi ích đều vì dân", "quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"[30, tr.515]. Theo từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: “Dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận Nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào các tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế xã hội nhất định” [46, tr.653]. Cơ sở là cái làm nền tảng cho những cái được xây dựng trên đó hoặc dựa trên đó mà tồn tại, phát triển. Mỗi con người cùng tồn tại, sinh sống trên một địa bàn nhất định trong quá trình học tập, lao động, công tác và sinh hoạt, 8
- mỗi cá nhân luôn có sự gắn bó mật thiết với nhau, có sự ràng buộc gắn bó với cơ quan, đơn vị, tổ chức đó là cấp cơ sở. Cơ sở là tế bào trong hệ thống chính trị nước ta, là cấp cuối cùng trong 4 cấp Trung ương, tỉnh, huyện, xã (cơ sở). Cơ sở (xã, phường, thị trấn) là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện và kiểm nghiệm một cách chính xác nhất các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh trong thực tiễn khách quan của từng giai đoạn phát triển của lịch sử đất nước, là nơi Nhân dân trực tiếp sinh sống, lao động, sản xuất, công tác và học tập. Các quy định pháp luật về dân chủ muốn thành hiện thực, trước hết phải được thực thi tại cơ sở. Chỉ khi các quyền con người được thực hiện trước hết ở cơ sở, từng người dân có quyền được biết, được bàn, được kiểm tra giám sát mọi hoạt động diễn ra ở cơ sở, lúc đó quyền con người, quyền công dân mới trở thành hiện thực và được phát huy. Là một thành tố của dân chủ chính trị, dân chủ cơ sở được xác lập, thể chế hóa và phát huy như thế nào là tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể. Chẳng hạn, tại Trung Quốc, quá trình thực hành dân chủ cơ sở đã diễn ra khá rầm rộ trên địa bàn nông thôn từ đầu thập niên 1980. Dân chủ cơ sở ở đây được cấu thành bởi bốn yếu tố cơ bản: dân chủ bầu cử, dân chủ quyết sách, dân chủ quản lý và dân chủ giám sát [27, tr. 267-268]. Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm thận thức sâu sắc vai trò to lớn của dân chủ và luôn chú trọng thực hiện dân chủ từ cơ sở. Tư tưởng về "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến trong bài báo Dân vận, phát hành vào ngày 15/10/1949, Người viết: "Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rằng: việc đó là lợi ích cho họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Điểm thứ hai là bất kỳ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của 9
- dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành.Trong lúc thi hành phải theo dõi, đôn đốc, khuyến khích. Khi hoàn thành xong phải cùng dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng". Như vậy, DCCS được hiểu là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, thể hiện đảm bảo quyền cơ bản của công dân được ghi nhận và triển khai thực hiện tại địa bàn nơi sinh sống, trong các cơ quan, đơn vị. 1.1.2. Khái niệm pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra trật tự và ổn định trong xã hội” [26, tr.226]. Quan điểm học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật đã giải thích một cách đúng đắn, khoa học về bản chất của pháp luật và những mối quan hệ của nó với các hiện tượng khác trong xã hội có giai cấp. Pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp. Pháp luật vừa mang tính giai cấp lại vừa thể hiện tính xã hội. Mức độ đậm nhạt của tính giai cấp và xã hội của pháp luật rất khác nhau và thường hay biến đổi tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, đạo đức, quan điểm, đường lối và các trào lưu chính trị của mỗi nước ở một thời kỳ lịch sử nhất định. “Pháp luật vừa là sự phản ánh yêu cầu dân chủ, vừa là công cụ để thực hiện dân chủ”[41, tr.32]. DCCS theo Bác Hồ thực chất là vấn đề “Dân biết,dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” nên pháp luật về thực hiện DCCS là những quy định cụ thể rõ ràng, là sự chi tiết các chủ trương, chính sách của đảng, nhà nước về thực thiện DCCS để áp dụng trong thực tiễn, quy định rõ về những điều gì dân được biết, điều gì dân được tham gia bàn bạc, tham gia đóng góp ý kiến trước khi các cơ quan chức năng có thẩm quyền quyết định trên cơ sở tôn trọng và 10
- quyết định theo đa số nguyện vọng, ý kiến chính đáng của Nhân dân, hiện thực hóa các ý kiến, nội dung Nhân dân tham gia vào trong các quy định pháp luật, các chủ trương của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước. Như vậy, pháp luật về thực hiện DCCS là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện các nội dung về DCCS, là điều kiện, phương tiện mà qua đó đảm bảo phát huy tốt quyền làm chủ thật sự của Nhân dân, đồng thời huy động sức sáng tạo, sức mạnh tổng hợp của toàn dân tham gia thực hiện và triển khai các nội dung của dân chủ cơ sở trong đời sống xã hội. Từ những phân tích trên có thể nhận thấy pháp luật về thực hiện DCCS có những đặc điểm đó là: Thứ nhất, pháp luật về thực hiện DCCS không tồn tại dưới dạng một văn bản luật riêng biệt, bởi có phạm vi và nội dung điều chỉnh rất rộng lớn liên quan đến nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội. Hệ thống các văn bản QPPL về thực hiện DCCS nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, trong Hiến pháp, Pháp lệnh của UBTVQH, các văn bản như Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp, Bộ Luật Hình sự, Bộ Luật Dân sự; Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Thanh tra, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.., Nghị định của Chính phủ và các văn bản QPPL khác nhằm thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Thứ hai, pháp luật về thực hiện DCCS được thực hiện bởi nhiều chủ thể trong xã hội và mọi người dân. Vì vậy, muốn thực hiện có hiệu quả pháp luật về thực hiện DCCS đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa tất cả các chủ thể gồm chính quyền địa phương cấp xã, các cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức và công dân. Thứ ba, pháp luật về thực hiện DCCS thể hiện yêu cầu dân chủ phải trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật; các nguyên tắc mang tính định 11
- hướng đó là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân; Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhà nước và xã hội; nguyên tắc pháp chế XHCN; nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, đi đôi với trật tự kỷ cương; quyền đi đôi với nghĩa vụ; kiên quyết xử lý những hành vi lợi dụng dân chủ, vi phạm Hiến pháp, pháp luật, xâm phạm lợi ích của nhà nước, của tập thể, quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân. Thứ tư, pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở phát huy chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương, cơ sở, quy định nghĩa vụ cụ thể của chính quyền, trách nhiệm của người đứng đầu, đội ngũ CBCC,VC trong các cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập trong việc đảm bảo quyền làm chủ của người dân ở cơ sở. Thứ năm, pháp luật về thực hiện DCCS thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp, người dân, CBCC, VC, người lao động được bàn bạc, trực tiếp quyết định những công việc quan trọng, thiết thực gắn với quyền lợi và nghĩa vụ của họ. Thứ sáu, phát huy mạnh mẽ vai trò làm chủ của Nhân dân trong việc thực thi nền dân chủ XHCN thông qua sự tham gia của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức đại diện của Nhân dân ở các khâu. 1.1.3. Vai trò của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở Cội nguồn tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh là truyền thống trọng dân, nhận thức đúng đắn, sâu sắc về vai trò và sức mạnh của Nhân dân “dân là nước, nước có thể đẩy thuyền cũng có thể lật đổ thuyền” [02]. Chính vì vậy, Cách mạng Việt Nam phải biết dựa vào sức dân, lực lượng quần chúng, vì dân là cội nguồn của sức mạnh, là gốc của nước, căn cứ vững chắc của cách mạng “dễ mười lần không dân cũng chịu; khó trăm lần dân liệu cũng xong” [28, tr.212]. Trải qua thực tiễn cách mạng đã chứng minh rằng 12
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 266 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 171 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và luật hành chính: Quản lý nhà nước về cư trú từ thực tiễn quận 3, thành phố Hồ Chí Minh
78 p | 109 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đổi mới hoạt động giám sát của HĐND quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội
110 p | 69 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Kiểm soát thủ tục hành chính từ thực tiễn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
87 p | 74 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình
109 p | 80 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình
94 p | 82 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 105 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
86 p | 70 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đánh giá viên chức ngành Y tế từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
83 p | 56 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 61 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Y tế Hà Nội
94 p | 71 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Vi phạm hành chính trong hoạt động dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
91 p | 42 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tuyển dụng viên chức ngành y tế từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
75 p | 50 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế - từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
82 p | 55 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Bảo đảm quyền vui chơi, giải trí của trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội
91 p | 45 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 82 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn