intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng

Chia sẻ: Tri Hành | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:78

36
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu về lý luận, thực tiễn tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Cao Bằng từ đó đưa ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý, giúp các đối tượng được trợ giúp pháp lý thụ hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý thuận tiện, chất lượng và hiệu quả hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ DẠ THẢO TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TỪ THỰC TIỄN TẠI CAO BĂNG Ngành: Luật hiến pháp và Luật hành chính Mã số: 8.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ VĂN LONG Hà Nội -2020
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan những nội dung nghiên cứu trình bày trong luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật hiến pháp và Luật hành chính với đề tài “Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tại Cao Bằng” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Lê Văn Long. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. Cao Bằng, ngày .... tháng 8 năm 2020 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Thị Dạ Thảo
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 Chương 1. NHỮNG VẦN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝVỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ................................................................................................................ 8 1.1.Khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của trợ giúp pháp lý .............................. 8 1.2. Đối tượng, nội dung, phương thức trợ giúp pháp lý ...................................... 16 1.3. Điều kiện bảo đảm đối với hoạt động trợ giúp pháp lý ................................. 21 Chương 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở TỈNH CAO BẰNG........................................................................ 25 2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Cao Bằng ............................................................................................................... 25 2.2. Thực tiễn tổ chức, hoạt động trợ giúp pháp lý tại Cao Bằng ......................... 29 2.3. Đánh giá thực trạng tổ chức, hoạt động trợ giúp pháp lý tại Cao Bằng ........ 45 Chương 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở TỈNH CAO BẰNG ................................................... 54 3.1. Quan điểm về tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý .................................... 54 3.2. Giải pháp bảo đảm hiệu quả tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tại Cao Bằng....................................................................................................................... 56 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 64 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 66
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT HĐPHLN Hội đồng phối hợp liên ngành UBND Ủy ban nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong tổng thể các chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta thì trợ giúp pháp lý là một trong những chính sách có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Hoạt động trợ giúp pháp lý không những thể hiện truyền thống đạo lý của dân tộc, trách nhiệm của nhà nước và xã hội đối với những đối tượng yếu thế mà còn là một biện pháp hữu hiệu góp phần xóa đói giảm nghèo về pháp luật, giúp người dân an tâm lao động, công tác, ổn định kinh tế. Việc hình thành và phát triển của pháp luật về trợ giúp pháp lý gắn liền với quá trình nghiên cứu, tổng kết, vận dụng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng, hoàn thiện và phát triển pháp luật nói chung và mức độ đáp ứng của các dịch vụ pháp lý nói riêng. Mặc dù ra đời muộn so với lịch sử lập pháp Việt Nam nhưng cho đến nay, công tác trợ giúp pháp lý đã đạt được nhiều kết quả, khẳng định được vị trí và vai trò của mình trong giúp đỡ về mặt pháp luật cho đông đảo người nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng khác, góp phần phát huy vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Sinh ra và lớn lên tại mảnh đất Cao Bằng, nơi tập trung nhiều dân tộc thiểu số khác nhau, phần lớn người dân có đời sống còn nhiều khó khăn vất vả, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, tồn tại tình trạng bất bình đẳng khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, nhu cầu về trợ giúp pháp lý là rất lớn trong khi hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua tuy đã đạt được nhiều thành tích đáng kể nhưng còn bộc lộ những khó khăn, bất cập nhất định, chưa đáp ứng được kỳ vọng của xã hội. Các hạn chế, bất cập có thể kể đến như phạm vi, nội dung hoạt động trợ giúp pháp lý còn chưa được quy định cụ thể, trình tự, thủ tục trợ giúp pháp lý còn rườm rà, chưa tinh gọn, chưa đi sâu vào hiệu quả mà còn mang nặng tính hình thức; khả năng tiếp cận với hoạt 1
  6. động trợ giúp pháp lý của người dân còn chưa dễ dàng, nhận thức của người dân về hoạt động trợ giúp pháp lý còn chưa cao, nhiều cơ quan nhà nước, cũng như người dân còn coi nhẹ hoạt động này. Hơn nữa, từ năm 2010 các nguồn hỗ trợ từ các Dự án bị cắt giảm nên tại các địa phương, hoạt động trợ giúp pháp lý gặp rất nhiều khó khăn, nhất là đối với các hình thức trợ giúp pháp lý lưu động, tập huấn truyền thông, sinh hoạt Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý,… Để nâng cao hiệu quả tổ chức, hoạt động trợ giúp pháp lý và nhận thức cho người dân tại địa phương trong thời gian tới thì rất cần có một công trình nghiên cứu mang tính tổng thể, đầy đủ về tổ chức và hoạt động của trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Do đó, tác giả đã chọn vấn đề “Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tại Cao Bằng” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Ở Việt Nam, để đáp ứng sự phát triển về kinh tế - xã hội trong tình hình mới, vấn đề trợ giúp pháp lý đã được nghiên cứu tại nhiều đề tài tiến sĩ, thạc sĩ, đề tài cấp bộ và các chuyên đề nghiên cứu, bài báo, tạp chí làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, người có công với cách mạng và các đối tượng yếu thế khác trong xã hội như: * Nhóm các công trình nghiên cứu là các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ: - Luận án tiến sĩ của tác giả Tạ Thị Minh Lý về "Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới" (năm 2008), đã tập trung nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề về cơ sở lý luận, pháp lý và thực trạng điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý tại Việt Nam. Sự đòi hỏi điều chỉnh phù hợp của pháp luật để phù hợp với điều kiện của từng thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội, đưa ra phương hướng điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý phù hợp với sự phát triển của đất nước. - Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Đỗ Xuân Lân về “Thực hiện pháp luật đối với người nghèo trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (năm 2012) đã tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng thực hiện 2
  7. pháp luật của người nghèo và đưa ra các giải pháp đảm bảo cho người nghèo được tiếp cận pháp luật. - Luận văn thạc sĩ của tác giả Phan Thị Thu Hà về "Bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý" (năm 2013), thực hiện nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn về quyền được trợ giúp pháp lý của người dân. -Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Mộng Điệp “Tổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Gia Lai” (năm 2017); Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Ngô Văn Phát “Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận” (năm 2017) đã lý luận, thực tiễn tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Gia Lai và tỉnh Ninh Thuận từ đó đưa ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý, giúp các đối tượng được trợ giúp pháp lý thụ hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý. - Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Việt Khoa về “Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam hiện hành” (năm 2019) luận án đã nhận diện những vấn đề pháp lý và thực tiễn đang đặt ra đối với hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam hiện nay và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam phù hợp với yêu cầu bảo đảm quyền con người, chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước ta và tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay (năm 2019). * Nhóm các công trình nghiên cứu là các đề tài khoa học, bài viết khoa học trên tạp chí chuyên ngành: - Đề tài "Mô hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay" (năm 1999), do Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện, Chủ nhiệm đề tài: Ts. Tạ Thị Minh Lý. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Luận cứ khoa học và thực tiễn sửa đổi, bổ sung Luật Trợ giúp pháp lý(2015), do Viện nghiên cứu khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp) và Cục Trợ giúp pháp lý (Bộ Tư Pháp) thực hiện. 3
  8. - Một số bài báo khoa học: Nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, của tác giả Hằng Vân, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số chuyên đề tháng 1/2013); Xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách của tác giả Lê Quang Kiêm, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số chuyên đề tháng 11/2010); Cần hoàn thiện thể chế và các giải pháp để hoạt động trợ giúp pháp lý phát triển bền vững của tác giả Nguyễn Vinh, Tạp chí dân chủ và Pháp luật (số chuyên đề tháng 11/2010); Định hướng phát triển bền vững công tác trợ giúp pháp lý đến năm 2020 của tác giả Đỗ Xuân Lân, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số chuyên đề tháng 3/2012)…. Như vậy có thể thấy, hiện nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động trợ giúp pháp lý nói chung cũng như tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý ở một số địa bàn nhất định. Tuy nhiên, đa số các công trình nghiên cứu nêu trên hầu hết nghiên cứu về hoạt động trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật thời kỳ trước mà chưa cập nhật các văn bản pháp luật mới, đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp dụng trên địa bàn cả nước. Điều này cho thấy, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể, đầy đủ về lý luận về trợ giúp pháp lý và thực tiễn hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Do đó, việc trên cơ sở các thành tựu nghiên cứu trước đó của các học giả đã công bố tác giả đã mạnh dạn chọn vấn đề "Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng" để nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về lý luận, thực tiễn tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Cao Bằng từ đó đưa ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý, giúp các đối tượng 4
  9. được trợ giúp pháp lý thụ hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý thuận tiện, chất lượng và hiệu quả hơn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở mục đích nghiên cứu luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau: Một là, nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý như khái niệm, đặc điểm; ý nghĩa của trợ giúp pháp lý; nội dung và phương thức trợ giúp pháp lý; cơ sở pháp lý về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam hiện nay; các đảm bảo đối với hoạt động trợ giúp pháp lý. Hai là,thu thập, phân tích các kế hoạch, báo cáo tổng kết về công tác về công tác trợ giúp pháp lý tại Cao Bằng và tiến hành xử lý số liệu. Ba là, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 để từ đó xác định được những hạn chế, tồn tại trong hoạt động này và chỉ rõ nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó; Bốn là, đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm tăng cường hiệu quả thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Cao Bằng trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về thực tiễn tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tại Cao Bằng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung nghiên cứu: Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý. Về không gian nghiên cứu: Trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Về thời gian nghiên cứu: luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn 5 năm từ năm 2015 đến năm 2019. 5
  10. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về bảo đảm quyền con người và quyền công dân. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở lý luận nêu trên luận văn có sử dụng các phương pháp: - Phương pháp duy vật biện chứng, phân tích tại Chương, chương 2 và chương 3; - Phương pháp thống kê, so sánh, thu thập,tổng hợp tài liệu từ tài liệu chuyên ngành, sách, báo, tạp chí, Internet tại Chương 2 để đánh giá một cách sát thực hơn về thực trạng tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Cao Bằng; - Phương pháp phân tích, tổng hợp tại Chương 3 để đề xuất các giải pháp phù hợp với thực tiễn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Hoạt động trợ giúp pháp lý tại tỉnh Cao Bằng có những đặc thù và góp phần quan trọng vào việc đảm bảo quyền tiếp cận pháp lý của đối tượng được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật. Do đó, luận văn sẽ là công trình khoa học nghiên cứu về lý luận, thực tiễn những chính sách pháp luật và các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tại tỉnh Cao Bằng. Từ đó, kết quả của Luận văn có thể sử dụng để tham khảo nhằm đưa ra những giải pháp thiết thực cho tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tại tỉnh Cao Bằng. Luận văn hướng đến các mặt tổ chức và hoạt động của trợ giúp pháp lý tại tỉnh Cao Bằng, đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần thực hiện có hiệu quả những chính sách về trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Cao 6
  11. Bằng trong thời gian tới. Do đó, một số ý kiến trong luận văn có thể dùng để tham khảo, áp dụng đối với mô hình hoạt động trợ giúp pháp lý tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có điều kiện kinh tế - xã hội, dân cư, văn hóa cũng như thực trạng tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tương đồng với tỉnh Cao Bằng. 7. Cơ cấu của Luận văn Nội dung luận văn gồm có 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận, pháp lý về trợ giúp pháp lý. Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnhCao Bằng. Chương 3: Quan điểm, giải pháp về tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Cao Bằng. 7
  12. Chương 1 NHỮNG VẦN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝVỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ 1.1.Khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của trợ giúp pháp lý 1.1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý Hoạt động trợ giúp pháp lý xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử các nước trên thế giới. Nó được coi là một loại hoạt động phúc lợi xã hội được khởi nguồn từ nước Anh, nguồn gốc từ quyền có luật sư bảo vệ và quyền được xét xử công bằng được thừa nhận đầu tiên ở Châu Âu, Vương Quốc Anh và Hoa Kỳ. Cho đến nay, các nước trên thế giới triển khai hoạt động trợ giúp pháp lý ở các mức độ và mô hình khác nhau. Chế định về trợ giúp pháp lý theo đó cũng được tiếp cận dưới nhiều góc độ như kinh tế, pháp lý và góc độ nhân đạo lấy sự yếu thế, bần cùng hoặc bất bình đẳng của nhóm đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt làm căn cứ cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của mình. Về mặt kinh tế, trợ giúp pháp lý được hiểu là trách nhiệm của nhà nước bảo đảm nguồn tài chính chi trả cho các dịch vụ pháp lý cho một đối tượng nhất định nhằm đảm bảo khả năng tiếp cận công lý và công bằng xã hội. Đặc điểm này có thể được xem là một trong những căn cứ để phân định hoạt động trợ giúp pháp lý với hoạt động thiện nguyện tuy cũng thực hiện cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí và có chung mục đích góp phần bảo đảm quyền tiếp cận công lý nhưng đối tượng tiếp nhận dịch vụ pháp lý không bị hạn chế và được người thực hiện dịch vụ thiện nguyện không được hưởng bất kỳ khoản thù lao nào từ sự chi trả của nhà nước, các quỹ phúc lợi, các tổ chức xã hội [89]. Về mặt pháp lý, giữa các hệ thống pháp luật khác nhau, kỹ thuật lập pháp khác nhau thì khái niệm “trợ giúp pháp lý” cũng được quy định khác nhau. Các nước thuộc hệ thống thông luật định nghĩa trợ giúp pháp lý theo hướng khái quát, thiên về việc quy định ai là đối tượng được trợ giúp pháp lý và đặc biệt nhấn mạnh mục tiêu của trợ giúp pháp lý là bảo đảm công bằng trong tiếp cận công lý. Như vậy, trợ giúp pháp lý thuộc về trách nhiệm của 8
  13. Nhà nước trong việc bảo đảm nguồn tài chính chi trả cho các dịch vụ pháp lý cho một số đối tượng nhất định, chứa đựng thuộc tính kinh tế, nhân đạo, hướng đến bảo đảm công lý cho nhóm người gặp khó khăn về kinh tế không thể tự mình chi trả được các chi phí cho việc tiếp cận dịch vụ pháp lý [89]. Về mặt nhân đạo thì trợ giúp pháp lý được hiểu là trách nhiệm của Nhà nước nhằm bảo đảm quyền công dân, thể hiện tính nhân văn của Nhà nước thông qua chế độ miễn giảm, các dịch vụ và chi phí tố tụng với các đối tượng yếu thế để bảo đảm quyền lợi theo quy định của pháp luật hoặc đương sự. Ở Việt Nam, hoạt động trợ giúp pháp lý ra đời khá muộn, tư tưởng trợ giúp những đối tượng yếu thế được xuất hiện manh nha các văn kiện mang tính chủ trương, đường lối của đảng cụ thể tại văn bản số 485/CV-VPTW ngày 31/5/1995 của Văn phòng Trung ương Đảng có nêu: “Cần phải mở rộng loại hình tư vấn pháp luật phổ thông, đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng của các tầng lớp nhân dân nhằm góp phần nâng cao ý thức pháp luật và ứng xử pháp luật của công dân trong quan hệ đời sống hàng ngày...; cần nghiên cứu lập hệ thống dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo pháp luật”. Văn kiện này đã đặt dấu ấn cho quá trình chuyển biến toàn diện về nhận thức pháp luật, tạo tiền đề chính trị cho sự ra đời và phát triển của hoạt động trợ giúp pháp lý. Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được sử dụng chính thức trong Quyết định 734/TTG ngày 6/9/1997 của Thủ tướng chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách[49]. Tuy nhiên, phải đến khi Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 được ban hành, thì chế định trợ giúp pháp lý mới được đề cập một cách chính thức, rõ ràng trong một văn bản luật. Khái niệm “Trợ giúp pháp lý” được định nghĩa cụ thể tại Điều 3 của Luật: “Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết 9
  14. pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật” [56]. Thực tiễn khoa học pháp lý Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm “trợ giúp pháp lý”. Qua nghiên cứu, tác giả có thể chỉ ra hai quan điểm khác nhau khi xác định khái niệm “trợ giúp pháp lý” như sau: Theo nghĩa rộng, “Trợ giúp pháp lý được hiểu là việc thực hiện các dịch vụ pháp lý miễn phí của Nhà nước và xã hội cho người nghèo, người được hưởng chính sách ưu đãi và một số đối tượng khác do pháp luật quy định thông qua hình thức như tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa, kiến nghị giải quyết vụ việc và tham gia thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi công dân bình đẳng trong tiếp cận pháp luật, góp phần thực hiện công bằng xã hội”[46]. Theo nghĩa hẹp, “Trợ giúp pháp lý được hiểu là việc thực hiện các dịch vụ pháp lý miễn phí của các tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước cho người nghèo và người được hưởng chính sách ưu đãi thông qua hình thức tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa, kiến nghị giải quyết các vụ việc và tham gia thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi công dân bình đẳng trong tiếp cận pháp luật, góp phần thực hiện công bằng xã hội”[46]. Các khái niệm này đều lấy đối tượng là người nghèo và đối tượngchính sách làm cơ sở để xây dựng khái niệm “trợ giúp pháp lý”, mặc dù đã đưa ra những nét chủ yếu của hoạt động trợ giúp pháp lý nhưng chưa khái quát, đi sâu vào bản chất, mà chỉ nhìn nhận thông qua hình thức biểu hiện của đối tượng mà hoạt động trợ giúp pháp lý hướng tới. Mỗi góc độ tiếp cận trên khi xác định khái niệm “trợ giúp pháp lý” đều có những hạt nhân hợp lý nhất định, tuỳ thuộc vào góc nhìn, vào cách sử dụng mà phạm vi này là khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài về tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý 10
  15. từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng tác giả sử dụng khái niệm được quy định Điều 2 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017“Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật”[57]. Khái niệm “trợ giúp pháp lý” được quy định trong Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã thể hiện được những thuộc tính chung của hoạt động là tính kinh tế, tính nhân đạo, tính pháp lý và thể hiện được những đặc tính riêng của hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam như là một loại dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp chứa đựng tính nhân văn sâu sắc thể hiện tính chính trị - xã hội để Nhà nước bảo đảm ổn định trật tự và an toàn xã hội... - Tổ chức trợ giúp pháp lý Qua nghiên cứu tổ chức trợ giúp pháp lý có thể thấy trợ giúp pháp lý có thể được chia thành 3 mô hình phổ biến: Mô hình Nhà nước thực hiện – hay mô hình luật sư công, nghĩa là Nhà nước thực hiện hoàn toàn và Nhà nước cũng không hỗ trợ kinh phí cho các tổ chức xã hội tham gia trợ giúp pháp lý (như Philippine, Argentina…); Mô hình Nhà nước và xã hội thực hiện, đây là mô hình hỗn hợp, theo đó Nhà nước thành lập, tổ chức thực hiện và có sự tham gia của các tổ chức khác như luật sư, tổ chức xã hội (như Hà Lan, Hàn Quốc, Singgapore…); Mô hình luật sư tư và xã hội thực hiện, trong đó Nhà nước không có hệ thống các cơ quan trợ giúp pháp lý mà chỉ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về trợ giúp pháp lý, việc thực hiện các vụ việc trợ giúp pháp lý cụ thể được giao cho các tổ chức xã hội (Indonesia, Hungary…). Có thể thấy mô hình hỗn hợp giúp phát huy được các ưu điểm và khắc phục những nhược điểm của hai mô hình còn lại, Việt Nam nằm trong nhóm các nước vận hành tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý theo mô hình hỗn hợp. Với những nội dung quản lý Nhà nước được quy định tại Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 và Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, các cơ quan quản lý Nhà nước 11
  16. đã dần hoàn thiện các thể chế, chính sách, pháp luật về trợ giúp pháp lý, điều chỉnh tương đối toàn diện các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động trợ giúp pháp lý. Tổ chức, bộ máy của Trung tâm trợ giúp pháp lý tiếp tục được củng cố, kiện toàn, nhiều tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật đã đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý, đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng so với giai đoạn trước, điều kiện cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động được đảm bảo. - Nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý Nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý là những quy định cơ bản, xuyên suốt giữ vai trò chủ đạo trong suốt quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý mà các chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý phải tuân theo khi thực hiện trợ giúp pháp lý. Nguyên tắc này được quy định cụ thể tại Điều 3 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017. Theo đó hoạt động trợ giúp pháp lý dựa trên các nguyên tắc: Thứ nhất, nguyên tắc tuân thủ pháp luật, quy tắc nghề nghiệp trợ giúp pháp lý. Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc pháp chế XHCN, nguyên tắc chủ đạo trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật ở nước ta. Theo đó, người thực hiện trợ giúp pháp lý phải tuân thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp để có những chuẩn mực về hành vi, phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm, bản lĩnh nghề nghiệp.Thực hiện trợ giúp pháp lý đúng trình tự, thủ tục, quy định của pháp luật, chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các đối tượng được trợ giúp pháp lý. Thứ hai, nguyên tắc kịp thời, độc lập, trung thực, tôn trọng sự thực khách quan. Việc thực hiện trợ giúp pháp lý phải đảm bảo tính kịp thời tránh làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người được trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý độc lập trong nghiên cứu, đánh giá và phải trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, không để bị tác động bởi bất kỳ yếu tố nào. Thứ ba, nguyên tắc bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý.Người thực hiện trợ giúp pháp lý phải thực hiện tất cả 12
  17. quyền và nghĩa vụ của mình do pháp luật quy định. Vận dụng các kiến thức và kỹ năng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý và phải bồi thường hoặc hoàn trả một khoản tiền cho tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý đã trả cho người bị thiệt hại do lỗi của mình gây ra khi thực hiện trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật[57]. Thứ tư, nguyên tắc không thu tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác từ người được trợ giúp pháp lý. Người được trợ giúp pháp lý được cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí, không phải trả bất kỳ một khoản lệ phí nào, đồng thời nghiêm cấm tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và người thực hiện trợ giúp pháp lý nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác từ người được trợ giúp pháp lý; sách nhiễu người được trợ giúp pháp lý. 1.1.2. Đặc điểm của trợ giúp pháp lý Căn cứ khái niệm và đối tượng điều chỉnh của Luật Trợ giúp pháp lý có thể rút ra bản chất, đặc điểm của trợ giúp pháp lý, trên cơ sở đó sẽ là cơ sở để phân biệt hoạt động trợ giúp pháp lý với các hoạt động từ thiện hoặc các dịch vụ pháp lý khác. Thứ nhất, trợ giúp pháp lý hướng tới giúp đỡ về mặt pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý.Có thể thấy đối với mối quốc gia thì pháp luật là một công cụ hữu hiệu để công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, không phải lúc nào và ở đâu người dân cũng biết và thực hiện đầy đủ những quyền và nghĩa vụ đó. Đặc biệt với các đối tượng là những người nghèo, đối tượng chính sách - người bị thiệt thòi về kinh tế, tinh thần và thể chất trong xã hội thì trình độ hiểu biết pháp luật rất hạn chế nên việc tiếp cận, vận dụng pháp luật để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ theo đó cũng bị hạn chế. Hoạt động trợ giúp pháp lý ra đời với sứ mệnh cao cả và nhân đạo của Nhà nước nhằm mục đích giúp đỡ về mặt pháp lý cho họ để họ có cơ hội để biết, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. 13
  18. So với hoạt động trợ giúp pháp lý của đa số các nước trên thế giới chỉ hướng đến người nghèo thì ở nước ta còn có đối tượng đặc thù là người có công với cách mạng vì dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc đấu tranh oanh liệt để bảo vệ tổ quốc và giành độc lập cho dân tộc. Họ là những người có công với nước và Nhà nước phải có trách nhiệm giúp đỡ họ mọi mặt, trong đó có việc tiếp cận pháp luật được thể hiện đầy đủ trong chính sách trợ giúp pháp lý từ khi hình thành cho đến nay. Thứ hai, trợ giúp pháp lý mang đặc điểm nhân đạo sâu sắc. Các hoạt động của trợ giúp pháp lý đều hướng đến sự giúp đỡ miễn phí về pháp luật và nâng nâng cao nhận thức về pháp luật cho họ. Khi họ vướng mắc về pháp luật thì thông qua các hình thức trợ giúp pháp lý chủ yếu như: Tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng, giúp người được trợ giúp pháp lý hiểu được những kiến thức pháp luật cơ bản có liên quan đến vụ việc và ảnh hưởng đến đời sống của họ. Từ đó, hướng dẫn người được trợ giúp pháp lý có cách ứng xử phù hợp, bảo vệ được quyền và lợi ích của bản thân, đồng thời cũng hiểu được nghĩa vụ của công dân khi tham gia các quan hệ pháp luật do Nhà nước điều chỉnh. Thứ ba, trợ giúp pháp lý là một loại hình dịch vụ công trong lĩnh vực Tư pháp. Đây là dịch vụ được xác định là chức năng xã hội của Nhà nước, đối tượng được thụ hưởng dịch vụ là người yếu thế không đủ điều kiện tiếp cận với các loại dịch vụ mất phí và họ cần đến sự trợ giúp từ Nhà nước do vậy các chi phí cho hoạt động trợ giúp pháp lý chủ yếu do ngân sách Nhà nước đảm bảo. Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về trình tự thủ tục của dịch vụ này. Thứ tư, đặc điểm về chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý. Về chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý là các Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước và các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật. Như vậy xét về chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý vừa mang tính chất nhà nước vừa mang tính chất xã hội. 14
  19. Theo quy định tại Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 thì “Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước”[57]. Chính vì vậy, chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý theo quy định tại Luật này khẳng định được trách nhiệm của Nhà nước. Thứ năm, đặc điểm về người thực hiện trợ giúp pháp lý.Xuất phát từ mục đích của hoạt động trợ giúp pháp lý là giúp đỡ về mặt pháp luật cho những người “nghèo về pháp luật” nên Nhà nước có yêu cầu chặt chẽ chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý. Theo đó những người trợ giúp pháp lý phải là những người có trình độ, về kinh nghiệm, về kiến thức pháp luật và đặc biệt là sự quản lý của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý. Tùy thuộc vào sự thay đổi của các điều kiện kinh tế,xã hội, chính trị thì mỗi giai đoạn, mỗi thời điểm có thể có sự thay đổi yêu cầu về các tiêu chuẩn của người thực hiện trợ giúp pháp lý sao cho có thể đáp ứng yêu cầu về chất lượng trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý. Thứ sáu, đặc điểm về lĩnh vực trợ giúp pháp lý.Hoạt động trợ giúp pháp lý được thực hiện đối với tất cả các vụ việc có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý trong hầu hết các lĩnh vực pháp luật trừ các vụ việc có liên quan đến lĩnh vực kinh doanh - thương mại. Quy định này cũng nói lên rằng hoạt động trợ giúp pháp lý có bản chất là giúp đỡ những người có khó khăn về tài chính hoặc là không có lợi thế trong quan hệ pháp luật. 1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của trợ giúp pháp lý Thứ nhất, trợ giúp pháp lý góp phần hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN và bảo đảm quyền con người.Một trong những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước phải có trách nhiệm bảo vệ quyền con người, quyền công dân, trong đó có việc quan tâm đến người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội bằng các chính sách pháp luật và các biện pháp hỗ trợ. Hoạt động trợ giúp pháp lý 15
  20. đã phản ánh đúng đắn và đầy đủ bản chất Nhà nước của Nhân dân do Nhân dân và vì Nhân dân để đảm bảo quyền con người, quyền công dân trên thực tế giữa các chủ thể. Thứ hai, trợ giúp pháp lý góp phần trong công tác xóa đói giảm nghèo và chính sách an sinh xã hội. Để mục tiêu xóa đói giảm nghèo toàn diện, bền vững và bảo đảm các chính sách an sinh xã hội trên thực tế, đặt ra yêu cầu trợ giúp pháp lý phải trở thành một nội dung quan trọng trong tổng thể chương trình xóa đói giảm nghèo và an sinh xã hội. trợ giúp pháp lý có ý nghĩa giảm nghèo về mặt pháp luật, đóng vai trò là cầu nối để người dân nhận thức và thực hiện các chính sách ưu đãi mà Nhà nước dành cho họ hiệu quả, đồng thời giúp chính sách giảm nghèo của Đảng và Nhà nước càng trở nên toàn diện hơn. Thứ ba, trợ giúp pháp lý hỗ trợ thị trường dịch vụ pháp lý. Hiện nay, tại nước ta số lượng luật sư chưa đủ để đáp ứng nhu cầu về dịch vụ pháp lý ngày càng tăng của cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt là ở các tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn. Một phần xuất phát từ việc số lượng luật sư hiện nay ở các địa phương không đủ để đáp ứng, thứ hai xuất phát từ việc người dân không đủ điều kiện về kinh tế để tiếp cận với dịch vụ pháp lý của luật sư. Xuất phát từ yêu cầu trên, tổ chức trợ giúp pháp lý của nhà nước ra đời và phát triển đã tạo cơ chế cần thiết để người nghèo và người có công với cách mạng, người yếu thế khác trong xã hội được tiếp cận và sử dụng dịch vụ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 1.2. Đối tượng, nội dung, phương thức trợ giúp pháp lý 1.2.1.Về đối tượng được trợ giúp pháp lý Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã xây dựng chi tiết và mở rộng đối tượng để đi vào đúng bản chất của hoạt động trợ giúp pháp lý là giúp đỡ người có khó khăn về kinh tế, thể chất, tinh thần: - Nhóm được kế thừa (02 diện) đó là Người có công với cách mạng và Người thuộc hộ nghèo; 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0