Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
lượt xem 5
download
Luận văn này nghiên cứu làm rõ những vấn đề chúng về bồi thường, pháp luật về bồi thường khi khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân; Phân tích đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI MAI KIM PHƯƠNG BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP CỦA HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2020
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI MAI KIM PHƯƠNG BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP CỦA HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ HÀ NỘI, năm 2020
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai, đất đai là nguồn tài nguyên quý giá, là nguồn tư liệu sản xuất đặc biệt và có tầm quan trọng đối với mọi tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho họ và được Nhà nước bảo hộ quyền sử dụng đất. Trong quá trình phát triển đất nước, xây dựng nền công nghiệp và hiện đại hóa đất nước, chính quyền các cấp phải thực hiện việc thu hồi đất của người sử dụng để xây dựng các công trình phúc lợi tập thể, công cộng hoặc phát triển kinh tế thông qua các dự án có sử dụng đất trên toàn quốc hoặc ở thành phố Hội An nói riêng đã làm ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần của người sử dụng đất, đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng được Nhà nước giao đất, cho thuê đất. Trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của mỗi địa phương, đất đai là một yếu tố đầu vào không thể thiếu, muốn vậy nhà nước cần phải thu hồi đất và thực hiện việc bồi thường, giải phóng mặt bằng cho các đối tượng sử dụng đất để phục vụ cho các dự án đầu tư. Công tác thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng là vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất, tác động tới mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội và cộng đồng dân cư, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhà nước, chủ đầu tư, đặc biệt với hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi. Nhằm hạn chế tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, Nhà nước ban hành các Luật và nhiều chính sách bồi thường, hỗ trợ để tạo hành lang pháp lý, cơ chế tổ chức thực hiện giữa Nhà nước với đối tượng sử dụng đất. Cơ chế, chính sách bồi thường, hỗ trợ bước đầu đã giúp người bị thu hồi đất ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, một 1
- bộ phận không nhỏ trong số các hộ dân bị thu hồi đất nói chung, đất nông nghiệp nói riêng còn chưa thỏa mãn do mức bồi thường chưa bằng với giá thị trường, chính sách bồi thường có nhiều điểm chưa hợp lý ...Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, ngoài đơn giá bồi thường chưa hợp lý, còn là do chế độ chính sách về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ còn nhiều bất cập, chưa đảm bảo hài hòa giữa nghĩa vụ và quyền lợi hợp pháp của đối tượng sử dụng đất bị thu hồi. Thực tế đó đòi hỏi Nhà nước phải tiếp tục đổi mới chính sách bồi thường đối với người dân bị thu hồi đất nông nghiệp. Trong những năm gần đây, trên địa bàn thành phố Hội An có hàng chục dự án phải thu hồi đất nông nghiệp của người dân. đã góp phần làm thay đổi căn bản về diện mạo cơ sở hạ tầng kỹ thuật tại địa phương, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của thành phố. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được nhất định thì vẫn còn nhiều dự án chưa được triển khai hoặc triển khai chậm tiến độ, mà nguyên nhân căn bản là công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ còn nhiều bất cập, những vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện ảnh hưởng đến các yếu tố xã hội như: người lao động mất đất sản xuất, vấn đề chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm cho nhân dân,...chưa được giải quyết triệt để, làm gia tăng tình trạng khiếu kiện, khiếu nại trong nhân dân nên kéo theo chậm tiến độ bàn giao mặt bằng để thi công các công trình. Do vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để giải quyết những bất cập nêu trên trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, vừa đảm bảo hài hòa quyền lợi của các bên liên quan vừa đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong lĩnh vực này. Với mong muốn đóng góp một phần vào công cuộc tìm tòi đó học viên chọn đề tài “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài nghiên cứu trong Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Luật kinh tế của 2
- mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong thời gian gần đây, có một số tác giả nghiên cứu về các vấn đề khác nhưng có liên quan đến công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất: Trong thời gian qua đã có nhiều nghiên cứu đề cập đến công tác giải phóng mặt bằng. Những nghiên cứu đó đã cung cấp những luận cứ khoa học, thực tiễn cho việc xây dựng, triển khai công tác giải phóng mặt bằng ở từng địa phương nói riêng và của cả nước nói chung, như: - Lê Du Phong, 2007: “Thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia”, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia 2007. Trong công trình này các tác giả đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi; Thực trạng thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi; quan điểm và giải pháp đảm bảo việc làm, thu nhập và đời sống của người có đất bị thu hồi. - Đề tài: “Đánh giá và giải pháp cải thiện tình hình giải phóng mặt bằng trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Luận án tiến sĩ của nghiên cứu sinh Trần Đông Dực, Đại học Bách Khoa Hà Nội 2011.Luận án này đã tập trung phân tích khá sâu sắc thực trạng thu hồi đất và GPMB, nhất là đất nông nghiệp ở các huyện ngoại thành Hà Nội, cũng như tác động tích cực và tiêu cực của thu hồi đất và GPMB đến việc làm và đời sống của những người có đất bị thu hồi (trước hết là với đội ngũ người lao động). Luận án cũng đã đưa ra nhiều giải pháp có cơ sở khoa học, có tính khả thi để làm tốt hơn công tác GPMB ở Hà Nội những năm sắp tới. - GS.TSKH Đặng Hùng Võ, Cơ chế bồi thường, giải phóng mặt bằng, 3
- tái định cư khi nhà nước thu hồi đất, Cổng thông tin điện tử Thành phố Thanh Hóa ,thanhhoacity.gov.vn, dẫn theo ashui. Trong bài viết, Giáo sư đã nêu 7 nhược điểm của cơ chế Nhà nước thu hồi đất để phục vụ phát triển kinh tế : Một là, vấn đề xác định giá đất để tính bồi thường cho người bị thu hồi đất chưa được quy định theo một chuẩn mực nhất quán; hai là, việc thu hồi đất được tiến hành theo dự án, công trình đã được phê duyệt cho nên người bị thu hồi đất lại coi đất đang sử dụng vào mục đích nông nghiệp như đất phi nông nghiệp theo dự án đang triển khai. ba là, nhà đầu tư dự án, công trình phải làm việc với rất nhiều đối tác để thực hiện việc bồi thường, giải phóng mặt bằng; nhiều trường hợp phải làm việc với UBND của cả ba cấp tỉnh, huyện và xã, làm việc với ban bồi thường giải phóng mặt bằng, làm việc với những người có đất bị thu hồi; không ít trường hợp phải chi phí đóng góp thêm cho địa phương, chi thêm ngoài phương án cho người có đất bị thu hồi; bốn là, thu hồi đất nhưng không ưu tiên trả bằng đất mà thường trả bằng tiền, những trường hợp phải tái định cư cho người bị thu hồi đất ở đối với các dự án lớn chưa được giải quyết thỏa đáng, điều kiện khu tái định cư không bằng khu dân cư có đất bị thu hồi; năm là, không bảo đảm công bằng trong những người sử dụng đất chung quanh dự án, công trình đang triển khai (đặc biệt là các dự án, công trình mở rộng đường giao thông thuộc khu dân cư); có người đang sử dụng đất ở vị trí thuận lợi (thí dụ giáp mặt đường) nay bị thu hồi toàn bộ đất phải tái định cư ở nơi khác, có người đang sử dụng đất ở vị trí không thuận lợi nay ngẫu nhiên được ở vị trí thuận lợi và đương nhiên nhận được giá trị tăng thêm của quyền sử dụng đất do dự án, công trình đó mang lại; sáu là, Nhà nước không chỉ thu hồi đất để thực hiện các dự án, công trình lớn để phát triển kinh tế phục vụ lợi ích quốc gia mà thực hiện thu hồi đất cho cả những dự án nhỏ, lẻ phục vụ thuần túy cho lợi ích kinh tế của doanh nghiệp; việc thu hồi đất cho các dự án loại nhỏ, lẻ này dễ gây cho người có đất bị thu hồi ấn 4
- tượng Nhà nước lấy quyền lợi của người này trao cho người khác; bảy là, việc Nhà nước trực tiếp thu hồi đất cho mọi dự án, công trình còn mang nặng cơ chế bao cấp cho nên nhà quy hoạch không đưa yếu tố kinh tế vào bài toán quy hoạch phát triển của mình; nhiều dự án, công trình vẫn được triển khai khi kinh phí bồi thường giải phóng mặt bằng chiếm tới 80% giá trị của dự án, công trình. - Nguyễn Toàn (2016) “Quản lý nhà nước về giải phóng mặt bằng trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính quốc gia. Luận văn đã nêu thực trạng và đề xuất các giải pháp Quản lý nhà nước về giải phóng mặt bằng trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng:Hoàn thiện cơ chế, chính sách liên quan đến giải phóng mặt bằng Hoàn thiện về tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách trong giải phóng mặt bằng; Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ chế động viên, khuyến khích; tăng cường công tác thanh kiểm tra tình hình quản lý và sử dụng đất, đồng thời giải quyết tốt đơn thư khiếu nại, tố cáo - Phan Văn Tân (2016), Xung đột xã hội về đất đai ở nông thôn thời kỳ đổi mới (Nghiên cứu trường hợp tỉnh Hà Tây), Luận án Tiến sĩ, Học viện Hành chính quốc gia. Luận án đã phân tích Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu xung đột xã hội về đất đai; Thực trạng xung đột xã hội về đất đai ở nông thôn Hà Tây thời kỳ đổi mới và một số giải pháp cơ bản giải quyết xung đột xã hội về đất đai ở nông thôn Hà Tây thời gian tới Mặc dù có nhiều nghiên cứu về vấn đề giải phóng mặt bằng nhưng hầu hết các nghiên cứu đều đề cập dưới góc độ quản lý nhà nước, chưa nghiên cứu dưới góc độ pháp lý. Hơn nữa, đối với thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam chưa có một nghiên cứu cụ thể nào về công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng. Vì vậy, đề tài: “Bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp 5
- của hộ gia đình, cá nhân theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” là đề tài cấp thiết, phù hợp với thực tiễn phát triển của thành phố Hội An nói riêng và các địa phương có điều kiện tương tự Hội An nói chung. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn (thông qua tìm hiểu tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam) của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân. Từ đó, nêu định hướng và kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để hoàn thành mục đích trên luận văn có nhiệm vụ: - Làm rõ những vấn đề chúng về bồi thường, pháp luật về bồi thường khi khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân; - Phân tích đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân. - Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. - Kiến nghị định hướng và đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn thành phố Hội An. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu trong luận văn là các quy định pháp luật và thực 6
- tiễn thực hiện các quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Các quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành. - Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam - Thời gian khảo sát từ ngày 01/7/2014 - ngày Luật đất đai 2013 có hiệu lực đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối luật pháp của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xem xét chính sách bồi thường đối với người dân có đất thu hồi nông nghiệp. Điểm tựa quan trọng của cách tiếp cận là đất đai thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước phải có trách nhiệm với người dân có đất bị thu hồi. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu trọng tâm là phương pháp phân tích và được kết hợp với các phương pháp: tổng hợp, quy nạp và nội ngoại suy để đánh giá tiến trình lịch sử, bối cảnh, hoàn cảnh cụ thể của chính sách bồi thường đối với người dân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở thành phố Hội An. Đặc biệt, tiêu chí đánh giá chính sách chủ yếu dựa vào kết quả thực tiễn gắn với điều kiện của thành phố Hội An. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Đưa ra các căn cứ khoa học của pháp luật bồi thường đối với người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi. 7
- Chỉ ra điểm hợp lý, chưa hợp lý của công tác bồi thường đối với người dân bị thu hồi đất nông nghiệp ở thành phố Hội An. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kiến nghị hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác bồi thường đối với người dân bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hội An trong những năm tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn có 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực trạng pháp luật về lĩnh vực này ở Việt Nam Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam; Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. 8
- CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP CỦA HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ LĨNH VỰC NÀY Ở VIỆT NAM 1.1. Các khái niệm thu hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân 1.1.1. Khái niệm thu hồi đất Theo nghĩa tiếng Việt, có thể hiểu thu hồi đất là việc nhà nước lấy lại đất đã giao, đã cho thuê của một tổ chức, cá nhân nào đó. Điều 54, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 nêu rõ: “Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật” và “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật”. Điều 4, Luật Đất đai 2013 quy định: - Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của luật này. Quyền và trách nhiệm của Nhà nước đối với đất đai được quy định tại điều 3 luật đất đai 2013 như sau: + Quy định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất + Quyết định mục đích sử dụng đất. + Quy định về hạn mức sử dụng đất và thời hạn sử dụng đất. 9
- + Quyết định thu hồi đất, trưng dụng đất. + Định giá đất. + Quy định trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất; quy định chính sách tài chính về đất đai. Như vậy, thu hồi đất là quyền của Nhà nước ta được quy định trong Hiến pháp và pháp luật căn cứ vào vị thế đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai. Thu hồi đất là việc các cơ quan nhà nước thu hồi quyền sử dụng đất của những cá nhân, tổ chức nào đó để giao cho cá nhân hoặc tổ chức khác sử dụng hoặc để Nhà nước sử dụng vào mục đích chung. Thu hồi đất hiểu theo nghĩa này, khác với thu hồi đất của chủ cho thuê đất khi hết kỳ hạn thuê. 1.1.2. Khái niệm bồi thường cho người có đất nông nghiệp bị thu hồi Bồi thường là sự đền đáp lại tất cả những thiệt hại mà chủ thể gây ra một cách tương xứng.Thiệt hại có thể bao gồm cả thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Theo quy định của pháp luật dân sự thì bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt hại phải khắc phục hiệu quả bằng cách đền bù các tổn thất về vật chất và tinh thần cho bên bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất về vật chất thực tế, được tính thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí để ngăn chặn hạn chế thiệt hại thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút. Theo Khoản 6 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất”. Theo Khoản 12 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 thì: “Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất”. 10
- 1.2. Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng - Nhóm yếu tố chính sách, pháp luật đất đai: Đất đai là đối tượng quản lý phức tạp, luôn biến động theo sự phát triển của nền kinh tê - xã hội. Để thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về đất đai đòi hỏi các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực này phải ổn định và phù hợp với tình hình thực tế. Việc ban hành chính sách, pháp luật đất đai có ảnh hưởng rất lớn đến công tác bồi thường, GPMB. Tuy nhiên, do tính chưa ổn định, chưa thống nhất của chính sách, pháp luật đất đai qua các thời kỳ mà công tác bồi thường, GPMB đã gặp khá nhiều khó khăn. Kết quả nghiên cứu tại thành phố Hà Tĩnh cho thấy: các chính sách, pháp luật đất đai có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác bồi thường, GPMB bao gồm: quy hoạch, kế hoạch SDĐ; bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền SDĐ; giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai. Những năm gần đây, chính sách, pháp luật đất đai luôn được sửa đổi, hoàn thiện nhằm giải quyết các vướng mắc trong công tác bồi thường, GPMB và dần phù hợp với yêu cầu thực tiễn triển khai. - Nhóm yếu tố tài chính: Nhóm yếu tố tài chính có vai trò quyết định đến tiến độ cũng như sự thành công của dự án bồi thường, GPMB. Trong nhóm yếu tố này thì nguồn vốn, giá đất bồi thường, hỗ trợ và giá bồi thường tài sản là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến công tác bồi thường, GPMB. Phương án bồi thường, GPMB chỉ được thực hiện khi có đủ nguồn vốn, ngược lại dự án sẽ bị treo hoặc chậm tiến độ. Yếu tố giá đất cũng ảnh hưởng lớn đến công tác bồi thường, GPMB. Thực tiễn cho thấy, giá đất luôn có xu hướng tăng vì bị hạn chế bởi số lượng, do đó thường xảy ra một nghịch lý: Khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu về đất đai cao, cung không đáp ứng được cầu thì quá trình bồi thường, GPMB sẽ gặp khó khăn vì người dân luôn đòi hỏi về giá đất bồi 11
- thường, hỗ trợ cao. Khi nền kinh tế gặp khủng hoảng, thị trường đất đai đóng băng thì việc bồi thường, GPMB được thực hiện dễ dàng hơn. - Nhóm yếu tố thửa đất: Các yếu tố thuộc nhóm này bao gồm: vị trí, khả năng sinh lợi, diện tích, hình dạng, mục đích SDĐ và pháp lý. Đất đai có đặc trưng cơ bản là cố định về vị trí, vì vậy thậm trí ngay trong một khu vực có điều kiện kinh tế, xã hội giống nhau thì 2 thửa đất (kể cả liền kề) cũng có những đặc điểm riêng (hình dạng, diện tích, khả năng sinh lời) dẫn đến giá của chúng không đồng nhất, kéo theo nhu cầu bồi thường cũng khác nhau.1.3. Mục tiêu, nguyên tắc xây dựng chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất ở Việt Nam. Những thửa đất có vị trí thuận lợi, khả năng sinh lợi cao thì mức bồi thường sẽ cao, còn yếu tố pháp lý, diện tích và mục đích SDĐ là cơ sở để xác định đối tượng, điều kiện bồi thường, hỗ trợ. - Nhóm yếu tố liên quan đến người SDĐ: Vấn đề tiếp cận đất đai luôn đòi hỏi có sự nghiên cứu chuyên sâu về các lĩnh vực xã hội. Trên thực tế, chính các yếu tố tự nhiên (vị trí địa lý, khí hậu, đất đai...) có ảnh hưởng mạnh mẽ đến thu nhập, trình độ dân trí, phong tục, tập quán của người dân. Thu hồi đất làm cho người dân phải di chuyển chỗ ở, thay đổi cách thức canh tác, phương thức sản xuất, thậm chí cả các vấn đề về tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng. Đa phần người dân luôn e ngại phải thay đổi, đặc biệt là những hộ buôn bán, kinh doanh. Do vậy, việc người dân hiểu biết rõ về pháp luật đất đai hạn chế được tình trạng khiếu nại, tố cáo trong quá trình thực hiện bồi thường, GPMB. Ngoài ra, những yếu tố khác như: thu nhập, trình độ dân trí... cũng có ảnh hưởng đến công tác bồi thường, GPMB. 12
- - Nhóm yếu tố về tổ chức thực hiện: Bồi thường GPMB là một quá trình phức tạp vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, sinh kế của người bị thu hồi đất. Nếu tổ chức và thực hiện không tốt sẽ dẫn đến khiếu nại, khiếu kiện về đất đai. Do vậy, để thực hiện có hiệu quả công tác bồi thường, GPMB thì việc xây dựng, triển khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đất đai; khả năng xử lý công việc của cán bộ chuyên môn cần phải được thực hiện khoa học và hợp lý. Đây là những yếu tố có ảnh hưởng lớn và quyết định đến tiến độ bồi thường, GPMB; làm giảm khiếu nại, khiếu kiện về đất đai. 1.3.1. Mục tiêu của chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái dịnh cư đối với người dân bị thu hồi đất ở Việt Nam * Mục tiêu thứ nhất của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, người sở hữu nhà ở. Điều 5 Luật đất đai 2003 quy định: "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu... Nhà nước trao quyền sử dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định; quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất" , và tại Điều 5 Luật đất đai 2013 cũng khẳng định “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước làm đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất theo quy định” Vậy, về mặt pháp lý dù người sử dụng đất được hưởng thành quả từ việc sử dụng đất vào các hoạt động kinh tế, xã hội nhưng đất đai phải được sử dụng nhằm mục đích phục vụ sự tồn tại và phát triển của xã hội mà Nhà nước là người đại diện. Tuy nhiên, các cơ quan nhà nước thường không phải là người sử dụng trực tiếp đất. Người dân mới là người khai thác quỹ đất, họ chỉ khai thác quỹ đất hiệu quả khi quyền lợi của họ được tôn trọng và bảo hộ. Làm sao để mục 13
- tiêu chung của xã hội và mục tiêu riêng của người sử dụng đất hài hòa với nhau tạo điều kiện cho phát triển nhanh, bền vững là mục tiêu quan trọng của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Ở đây, xử lý tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đất cũng như vận dụng các công cụ tổ chức, tuyên truyền, tài chính của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là rất quan trọng. Quyền sở hữu và quyền sử dụng đất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Quyền sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta là quyền sở hữu về mặt pháp lý (Nhà nước quy định trách nhiệm của mình cũng như quyền lợi và nghĩa vụ của người sử dụng đất). Các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao quyền sử dụng đất và phải thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước. Nếu quan hệ này được thiết lập hợp lý thì chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư sẽ dễ triển khai hơn. Thông thường, việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải đáp ứng các yêu cầu: - Tạo điều kiện để người bị mất đất có cuộc sống bằng hoặc tốt hơn trước khi bị thu hồi đất. - Điều tiết phần lợi ích gia tăng không do các cá nhân tạo ra về ngân sách nhà nước. - Tạo điều kiện để người sử dụng đất sau này hoàn thành mục tiêu đã được xã hội chấp thuận. - Bảo tồn được quỹ đất và môi trường. * Mục tiêu thứ hai của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là khuyến khích người dân tự nguyện giao đất. Để họ tự nguyện và nhanh chóng giao đất, chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư không những phải có mức bồi thường, hỗ trợ, hợp lý, phải 14
- tổ chức tốt việc bố trí tái định cư, mà còn phải cung cấp cho người mất đất đầy đủ thông tin trung thực để họ tự quyết định. Ngoài ra chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải được hoạch định và thực hiện nhất quán, tránh các mâu thuẫn, xung đột trong quá trình triển khai. * Mục tiêu thứ ba của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là ổn định cuộc sống, tạo việc làm cho người dân bị mất đất. Việc thu hồi đất ở nước ta không hoàn toàn mang tính thị trường nên quan tâm đến cuộc sống của người dân bị mất đất là một mục tiêu quan trọng. Để ổn định cuộc sống cho người mất đất cần xây dựng khu tái định cư đồng bộ, có hạ tầng kỹ thuật bằng hoặc hơn nơi đi, nhất là các dịch vụ thiết yếu như giao thông, điện, nước, y tế, giáo dục, hành chính, ... Ở nước ta, mục tiêu này thường gặp nhiều khó khăn ở các dự án phúc lợi tập thể, kinh tế công là do kinh phí của Nhà nước còn hạn chế và việc tổ chức thực hiện các khâu trong giải phóng mặt bằng còn nhiều vấn đề cần phải điều chỉnh. Nếu khu tái định cư không được xây dựng hạ tầng kỹ thuật tốt, phù hợp thì người dân sẽ không vào khu tái định cư, đó là những vấn đề cần có chính sách phù hợp. Để ổn định lâu dài cho người dân bị mất đất, cần tạo điều kiện cho họ có việc làm thông qua các chương trình đào tạo, hỗ trợ đầu tư, lập nghiệp hoặc xúc tiến việc làm. Thực tế việc này chưa được coi trọng hoặc do người dân bị thu hồi đất có trình độ học vấn thấp không đáp ứng chương trình đào tạo, hoặc do người dân không có nhu cầu đào tạo. * Mục tiêu thứ tư của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là góp phần thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, xây dựng phát triển nhà ở, phát triển kinh tế - xã hội. 15
- Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là công cụ Nhà nước bố trí, sắp xếp các loại đất và nhà ở cho đối tượng sử dụng phù hợp với mục tiêu sử dụng đất hiệu quả và thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được phê duyệt phải có căn cứ khoa học, phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của đất nước là phương án sử dụng đất tốt nhất để Nhà nước và nhân dân thực hiện. Không nên xây dựng chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư một cách tùy tiện. Khi tính tiền bù đắp thiệt hại cho người sử dụng đất do bị thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế, các cơ quan liên quan phải căn cứ vào quy hoạch để xem xét tính hợp lý của khu tái định cư cũng như để điều hòa lợi ích phát sinh theo quy hoạch. 1.3.2. Nguyên tắc xây dựng và hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân có đất thu hồi Thứ nhất, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất. Cần quán triệt quan điểm Nghị quyết số 19-NQ/TW Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khóa XI đã thể hiện rõ quan điểm, định hướng của Đảng ta liên quan đến chính sách, pháp luật về đất đai, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất, cụ thể như sau: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng để sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn và có các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất và được bồi thường khi Nhà nước thu hồi, tùy theo từng loại đất và nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Quan điểm trên là sự cụ thể hóa Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc 16
- lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là phát triển thị trường bất động sản, bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất, làm cho đất đai thực sự trở thành nguồn vốn cho phát triển, thị trường bất động sản trong nước có sức cạnh tranh so với thị trường khu vực. Thứ hai, thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, khơi dậy được sức mạnh của lòng dân, đội ngũ cán bộ, đảng viên lãnh đạo tại địa phương năng động, sáng tạo. Bài học “Được lòng dân” là bài học lớn nhất để có được “Đảng nói dân tin; mặt trận, đoàn thể vận động dân theo, chính quyền làm dân ủng hộ”. Thành công khi triển khai kế hoạch thu hồi đất là Nhà nước và nhân dân cùng làm; Theo cơ chế “Nhà nước thu hồi đất theo quy hoạch”, chính quyền công bố thông tin quy hoạch, vận động người dân đạt được sự đồng thuận. Điều này giúp tạo sự công bằng trong xã hội và hạn chế các biến động về giá một cách bất thường. Có thể nói, quan điểm Nhà nước và nhân dân cùng chia sẻ lợi ích bằng cách người dân tham gia góp đất xây dựng các công trình công cộng, nhờ đó đã giúp tiết kiệm chi phí chỉnh trang đô thị và nâng giá trị đất của người dân sau khi quy hoạch. Tất cả các dự án thu hồi đất đều lấy ý kiến nhân dân, khi có trên 80% hộ dân đồng tình mới triển khai thực hiện. Khi thu hồi đất dọc hai bên đường đã giúp chính quyền có điều kiện chỉnh trang đô thị, hạn chế bất công khi những hộ gia đình ở sau, khi quy hoạch được ra mặt tiền một cách tự nhiên. Nhờ cơ chế “góp đất và điều chỉnh lại đất đai”, rất nhiều dự án thu hồi đất “Nhà nước và nhân dân cùng làm” đã thành công. Và để “dân tin, dân theo, dân ủng hộ” thì các quyết sách của các nhà lãnh đạo địa phương phải xuất phát từ những nhu cầu lợi ích chính đáng của đại quần chúng nhân dân và luôn luôn được “bàn bạc dân chủ, công khai minh bạch, đối thoại trực tiếp, thực hiện thắng lợi phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm”. 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 266 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020
74 p | 335 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
83 p | 103 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
66 p | 104 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
79 p | 215 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đình công bất hợp pháp từ thực tiễn các khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh
76 p | 121 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2013
84 p | 76 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 89 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 31 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
84 p | 181 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 105 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Cưỡng chế thi hành bản án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thi hành tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
99 p | 32 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
75 p | 72 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
78 p | 56 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 61 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về mua bán nợ xấu phát sinh từ hợp đồng tín dụng của ngân hàng thương mại qua thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh
101 p | 16 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 82 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thực thi pháp luật Việt Nam về chuyển nhượng dự án xây dựng nhà ở thương mại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
77 p | 16 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn