Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh theo Pháp luật Doanh nghiệp từ thực tiễn Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh
lượt xem 8
download
Luận văn trình bày các nội dung chính sau: Lý luận về pháp luật về đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh; Thực trạng pháp luật về đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh theo pháp luật doanh nghiệp từ thực tiễn tại Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh theo Pháp luật Doanh nghiệp từ thực tiễn Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÝ NGỌC HIẾU ĐĂNG KÝ KINH DOANH CỦA HỘ KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI - 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÝ NGỌC HIẾU ĐĂNG KÝ KINH DOANH CỦA HỘ KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN THANH LÝ HÀ NỘI - 2021
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh thương mại sẽ ít nhiều tác động đến lợi ích chung của cộng đồng và xã hội; góp phần hình thành và phát triển thể chế kinh tế thị trường, bảo đảm vai trò quản lý của nhà nước trong các lĩnh vực, ngành nghề có liên quan. Ngoài hệ thống các loại hình doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp thì hộ kinh doanh là mô hình pháp lý khá phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam. Hộ kinh doanh đã gắn liền với quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần của nước ta với một số tên gọi, cụ thể như: hộ kinh doanh cá thể, hộ tiểu công nghiệp, hộ gia đình, hộ kinh doanh. Cùng với quá trình tăng trưởng, phát triển của nhiều thành phần kinh tế trong thời gian vừa qua, khu vực kinh tế tư nhân trong đó có hộ kinh doanh ngày càng tăng về số lượng và đa dạng về ngành nghề kinh doanh; loại hình hộ kinh doanh đã khẳng định vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế nước ta, đã đạt và hiện tiếp tục đạt nhiều thành tựu đáng kể như: sử dụng một cách tối ưu nguồn nhân lực lao động xã hội, đóng góp thiết thực vào giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh xã hội, tham gia xóa đói giảm nghèo. Việc sản xuất, kinh doanh của hộ kinh doanh đa dạng, nhiều ngành nghề, đủ các mặt hàng, nhiều sản phẩm truyền thống tiếp tục được hộ kinh doanh giữ gìn và phát triển. Do hộ kinh doanh có quy mô nhỏ, gọn mang tính chất gia đình hoặc liên kết nhóm nên không tốn nhiều chi phí, không phát sinh nhiều thủ tục hành chính trong quá trình khởi nghiệp, áp dụng hình thức nộp thuế theo tỷ lệ doanh thu rất thuận tiện và giản đơn, đặc biệt là có thể không sử dụng nhiều lao động. Pháp luật doanh nghiệp hiện hành đã cụ thể hóa quyền tự do kinh doanh của công dân theo Hiến pháp năm 2013; Luật Doanh nghiệp năm 2014 hướng đến mục tiêu đơn giản hóa tối đa về trình tự, thủ tục cho các chủ thể kinh doanh; bên cạnh đó, Luật Doanh 1
- nghiệp năm 2020 đã đưa hộ kinh doanh ra ngoài sự điều chỉnh, giao cho Chính phủ quy định việc đăng ký và hoạt động của loại hình kinh doanh này. Vì xác định rõ vai trò, vị thế của hộ kinh doanh trong quá trình đổi mới phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, quy định pháp luật tạo điều kiện thuận lợi trong vận hành và phát triển kinh tế đối với loại hình hộ kinh doanh. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay cho thấy từ khái niệm đến địa vị, trách nhiệm pháp lý của hộ kinh doanh đều chưa rõ ràng, cụ thể. Bên cạnh đó, hộ kinh doanh còn gặp nhiều hạn chế như mặc dù được kinh doanh ở nhiều địa điểm nhưng không được mở chi nhánh, văn phòng đại diện, không có quy định về thủ tục giải thể, phá sản…; Quy định pháp luật hiện nay đã có nhiều khuyến khích, tạo thuận lợi cho các hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp. Nhưng trong thực tiễn áp dụng pháp luật còn nhiều lúng túng và khó khăn, chưa thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi loại hình từ hộ kinh doanh lên doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh. Trước những bất cập hiện nay, việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hộ kinh doanh nhằm minh bạch, rõ ràng, đảm bảo về mặt pháp lý là rất cần thiết; qua đó nhà nước sẽ tối đa hóa các nguồn lực, giảm thiểu, tiến đến xóa bỏ những hạn chế với hộ kinh doanh để hoạt động đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh đơn giản và tiện ích, khả thi và hiệu quả nhất. Vì những lý do trên nên học viên lựa chọn đề tài: “Đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh theo Pháp luật Doanh nghiệp từ thực tiễn Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh” để thực hiện luận văn thạc sĩ luật kinh tế. Luận văn đã hướng đến quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, so sánh và đi sâu phân tích luận cứ khoa học, nhiều luận điểm, thực tiễn pháp lý của hộ kinh doanh về việc đăng ký kinh doanh nhằm đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh đảm bảo phù hợp với thực tiễn. 2
- 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong chương trình đào tạo cử nhân luật tại các trường Đại học trong nước, nội dung về hộ kinh doanh là một phần của chương trình Luật Thương mại, ví dụ như Giáo trình Luật Thương mại phần chung và thương nhân, của Trường Đại học Quốc gia Hà Nội; Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam tập 1 và 2, của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2017; Giáo trình Luật Thương mại tập 2, của Trường Cao đẳng Thương mại, Nxb. Giáo dục, 2008. Nghiên cứu pháp luật về đăng ký kinh doanh ở nước ta hiện nay có các Luận án, Luận văn như: Luận án Tiến sĩ luật học chuyên ngành Luật Kinh tế năm 2016 của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy; nghiên cứu vấn đề pháp luật về đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh là Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật kinh tế năm 2019 của tác giả Nguyễn Minh Cường. Nghiên cứu về đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh, luận văn mong muốn làm rõ một số vấn đề bất cập, chưa khả thi trong các quy định của pháp luật hiện nay, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Doanh nghiệp năm 2020, đồng thời đưa ra các giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao địa vị pháp lý của hộ kinh doanh so với các loại hình kinh doanh khác. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu là đề xuất một số giải pháp sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật, hỗ trợ hoạt động của các hộ kinh doanh trong việc đăng ký kinh doanh, kiến nghị một số phương hướng góp phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu như sau: Thứ nhất, phân tích các vấn đề lý luận pháp luật của hộ kinh doanh về đăng ký kinh doanh theo hướng việc đăng ký kinh doanh được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các quy định như: khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa, giá trị pháp lý của hộ kinh doanh, những điều kiện để thực hiện việc đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh và là quyền hiến định của các hộ kinh doanh. 3
- Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh qua thực tiễn tại Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Thứ ba, trên cơ sở lý luận và thực trạng của pháp luật của các hộ kinh doanh về đăng ký kinh doanh, luận văn tập trung đưa ra những giải pháp và phương hướng góp phần hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh ở nước ta trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ thực tiễn tại Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề pháp lý của hộ kinh doanh về thành lập, hoạt động,…trong thực tiễn kinh doanh thương mại. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thực tiễn áp dụng pháp luật về đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh tại Quận 8 Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2017-2020. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và áp dụng phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội và luật học; đó là: các phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, hệ thống, lịch sử, phương pháp xã hội pháp luật… Bên cạnh đó, Luận văn sử dụng các kết quả khi tham gia các hội thảo, ghi chép các ý kiến của các chuyên gia để thu thập những đánh giá cũng như đề xuất giải pháp khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp, hoàn thiện pháp luật đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh. Chương 1. Luận văn sử dụng phương pháp chủ đạo là phân tích và tổng hợp để nêu lên những lập luận của pháp luật về đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh, qua đó làm rõ khái niệm hộ kinh doanh, đăng ký kinh doanh và pháp luật về đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh. Chương 2. Luận văn sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp để chỉ ra thực trạng thực thi pháp luật trong hoạt động đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh từ thực tiễn tại Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. 4
- Chương 3. Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp luật học so sánh, phương pháp hệ thống để đề ra các giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật của các hộ kinh doanh về đăng ký kinh doanh từ thực tiễn tại Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Về ý nghĩa khoa học, luận văn đóng góp về phương diện lý luận cho công tác nghiên cứu pháp lý, quá trình hoàn thiện và thực thi pháp luật của các hộ kinh doanh về đăng ký kinh doanh, theo đó đề xuất mô hình đăng ký kinh doanh phù hợp. Luận văn đã làm rõ sự tác động của hệ thống pháp luật về hộ kinh doanh đến quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; nêu bật chức năng, vai trò pháp luật của các hộ kinh doanh về đăng ký hoạt động kinh doanh. Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nghiên cứu, cũng như là tài liệu tham khảo, làm cơ sở trong quá trình áp dụng pháp luật về đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh ở nước ta. 7. Kết cấu của luận văn Bằng phương pháp tiếp cận và những nội dung nghiên cứu nêu trên, luận văn gồm ba chương chính cụ thể sau: Chương 1. Lý luận về pháp luật về đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh. Chương 2. Thực trạng pháp luật về đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh theo pháp luật doanh nghiệp từ thực tiễn tại Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh. 5
- Chương 1 LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH CỦA HỘ KINH DOANH 1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh 1.1.1. Khái niệm hộ kinh doanh Tại các quốc gia phát triển trên thế giới chỉ quy định về hộ kinh doanh do cá nhân làm chủ với các khái niệm không giống nhau như doanh nghiệp cá thể (sole proprietorship), doanh nghiệp một chủ (one-man business), thương nhân cá thể (sole trader). Nhằm làm rõ khái niệm “hộ kinh doanh” ở nước ta, đầu tiên chúng ta phải tìm hiểu, làm rõ thuật ngữ “hộ gia đình” - thuật ngữ này đã nhiều lần được nhắc đến trong các văn bản pháp quy kể từ năm 1964, đặc biệt là Luật Nghĩa vụ quân sự 1981 (được sửa đổi, bổ sung năm 1990) tại Điều 29 khoản 6 “người có anh, chị hoặc em ruột trong cùng một hộ gia đình là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại ngũ”. Hộ gia đình với tư cách chủ thể quan hệ dân sự, là một trong những chủ thể sử dụng đất bên cạnh các đơn vị vũ trang, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức kinh tế và cá nhân được quy định trong Luật đất đai 1993. Sau đó tiếp tục tại Điều 116 Bộ luật dân sự năm 1995 ghi nhận hộ gia đình là một chủ thể của quan hệ dân sự. Chủ thể hộ gia đình được ghi nhận tại Điều 106 Bộ luật dân sự năm 2005 như sau: “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc lĩnh vực này”. Ngoài ra, Luật Đất đai năm 2013 sửa đổi bổ sung cũng ghi nhận “tư cách” chủ thể của hộ gia đình trong các quan hệ về quyền sử dụng đất hay sản xuất nông nghiệp. Điều này có ý nghĩa là Bộ luật Dân sự và một số văn bản quy phạm pháp luật khác cũng đã ghi nhận sự tồn tại khách quan của kinh tế hộ gia đình với tư cách là đơn vị 6
- kinh tế tự chủ trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và một số ngành nghề khác. Trong giai đoạn phát triển của nước ta hiện nay, hộ gia đình đang được xem là đối tượng đầu tư chủ yếu của các ngành: Ngân hàng, tổ chức tín dụng; số lượng giao dịch tài chính, tín dụng giữa hộ gia đình và ngân hàng, các tổ chức tín dụng ngày càng tăng theo thời gian. Do vậy, khi xác định chủ thể thành viên hộ gia đình, Bộ luật dân sự trước kia và một số quy định pháp luật có liên quan thường coi hộ gia đình là một trong những chủ thể đặc biệt, do hộ gia đình được hiểu như là các thành viên có khối tài sản chung, cùng đóng góp công sức nhằm mục đích hoạt động kinh tế chung trong quá trình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác theo quy định của pháp luật. Kinh tế hộ gia đình được xem là sản xuất, buôn bán nhỏ, mang tính tự cung, tự cấp, tự túc hoặc sản xuất hàng hóa với năng suất lao động không cao mà có vị trí, vai trò quan trọng trong quá trình phát triển sản xuất kinh doanh, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, trong đó có nước ta. Kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam đã xuất hiện, duy trì và phát triển hơn nghìn năm nay và tiếp tục sẽ là thành tố cơ bản trong phát triển sản xuất nông nghiệp, trong xã hội; những hoạt động kinh tế hộ gia đình ngày càng phát triển và đa dạng. Nhằm gia tăng năng suất, tăng cường đẩy mạnh phạm vi sản xuất ra khỏi hộ, khi đó hộ gia đình phải thực hiện các quy trình, các bước và thủ tục để tham gia vào thị trường thương mại. Với tính chất ban đầu là buôn bán nhỏ lẻ, kinh doanh theo hình thức hộ, một khi đảm bảo các điều kiện cần thiết, hộ gia đình có quyền đăng ký ngành nghề, chính thức bước vào kinh doanh với tên gọi là hộ kinh doanh cũng như các loại hình kinh doanh khác, được Nhà nước đảm bảo hoạt động. Tuy nhiên, hiện nay các loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật Doanh nghiệp không bao gồm hộ kinh doanh, đồng nghĩa với hộ kinh doanh chưa được thừa nhận là một loại hình doanh nghiệp. Tổ chức có tên riêng, có trụ sở giao dịch, có tài sản, được thành lập, đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam 7
- và có trụ sở chính tại Việt Nam được pháp luật xác nhận là doanh nghiệp; hành vi thực hiện một, một số hoặc tất cả công đoạn từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, cung ứng dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận được gọi là kinh doanh. Các hoạt động kinh doanh luôn có sự đa dạng về hình thức, cách thức thực hiện và được điều chỉnh bởi pháp luật kinh tế; qua đó, cho dù là cá nhân, nhóm cá nhân hoặc pháp nhân (công ty) đều có thể mang nội hàm của khái niệm doanh nghiệp. Chính vì vậy khái niệm doanh nghiệp là khái niệm kinh tế, không phải là khái niệm pháp lý. Từ phân tích khái niệm trên, có quan điểm cho rằng việc thừa nhận hộ kinh doanh là doanh nghiệp bằng cách đưa chúng vào Luật doanh nghiệp là vấn đề rất bình thường. Tuy nhiên, với quan điểm như vậy, đồng nghĩa rằng chúng ta đang có sự nhầm lẫn giữa khái niệm pháp lý với khái niệm kinh tế. Khoản 1 Điều 79 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP định nghĩa về hộ kinh doanh như sau: “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ. Trường hợp các thành viên hộ gia đình đăng ký hộ kinh doanh thì ủy quyền cho một thành viên làm đại diện hộ kinh doanh. Cá nhân đăng ký hộ kinh doanh, người được các thành viên hộ gia đình ủy quyền làm đại diện hộ kinh doanh là chủ hộ kinh doanh”. Hộ kinh doanh không phải là một chủ thể pháp lý, các thành viên là cá nhân tham gia hộ kinh doanh đó mới là chủ thể pháp lý, hộ kinh doanh chỉ là cách gọi chung cho những nhóm cá nhân kinh doanh với trách nhiệm vô hạn (chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh). Vì những cơ sở nêu trên, công ty kinh doanh khác với cá nhân kinh doanh, mặc dù về khái niệm kinh tế thì hai chủ thể này đều là doanh nghiệp, nhưng về khái niệm pháp lý, những cơ chế, thủ tục và điều kiện pháp lý đối với các chủ thể này là không giống nhau. Do đó, hộ kinh doanh như là một chủ thể doanh nghiệp nhưng không được quy định trong Luật doanh nghiệp 8
- hiện hành, mà hộ kinh doanh trong một thời gian khá dài đã mang tư cách pháp lý trong nhiều văn bản pháp quy, nổi bật nhất là trong Bộ luật dân sự. Bên cạnh đó, hộ kinh doanh là khái niệm có từ thực tiễn cuộc sống mang bản chất từ các ngành, nghề truyền thống và văn hóa dân tộc lâu đời, bắt nguồn từ thuật ngữ “hộ gia đình”. Trước đây, Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 và Nghị định số 109/2004/NĐ-CP ngày 02/4/2004 của Chính phủ quy định hộ kinh doanh cá thể; sau đó, Nghị định số 78/2015/NĐ-CP và hiện nay là Nghị định số 01/2021/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp có hiệu lực ngày 04/01/2021 với tên gọi là “hộ kinh doanh” [10], [11]. Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh được nêu tại Nghị định số 88/2006/NĐ-CP[7]. Khoản 1 Điều 79 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP định nghĩa về hộ kinh doanh như sau: “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ. Trường hợp các thành viên hộ gia đình đăng ký hộ kinh doanh thì ủy quyền cho một thành viên làm đại diện hộ kinh doanh. Cá nhân đăng ký hộ kinh doanh, người được các thành viên hộ gia đình ủy quyền làm đại diện hộ kinh doanh là chủ hộ kinh doanh”. Theo định nghĩa nêu trên cho thấy hộ kinh doanh được chia thành hai loại trên cơ sở căn cứ vào chủ thành lập ra nó, đó là: (i) Hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ và (ii) Hộ kinh doanh do hộ gia đình làm chủ. “Hộ gia đình” được kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể hay hộ kinh doanh như trên vừa nêu là một bước tiến mới của pháp luật doanh nghiệp. 9
- Một là, “hộ gia đình” không phải là pháp nhân, cũng không phải là cá nhân, mà đó là chủ thể đặc biệt theo pháp luật Việt Nam, là “thương nhân thể nhân” [13]. Hai là, các thành viên của “hộ gia đình” rất khó xác định; dấu hiệu nhận biết có quan hệ hôn nhân, huyết thống hay nuôi dưỡng là một “gia đình”. Tuy nhiên quy định “hộ gia đình” hiện nay không bắt buộc tất cả các thành viên phải có tất cả những mối quan hệ nêu trên. Thành viên của hộ gia đình cần phải thỏa mãn có hai điều kiện sau đây: Mối quan hệ (là điều kiện cần), thông qua việc có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng; và chung sống (là điều kiện đủ), thể hiện qua việc cùng làm việc chung nhằm kiếm sống hoặc cùng cư trú tại một nơi dựa trên cơ sở có chung một khối tài sản. Tuy nhiên, số lượng các thành viên của hộ gia đình có thể biến động, do đó sẽ tạo ra không ít khó khăn cho việc giải quyết các tranh chấp có liên quan. Thành viên hộ gia đình được xác lập thông qua sổ hộ khẩu; có lẽ đây không phải là một việc làm hợp lý vì sự tồn tại của sổ hộ khẩu không có đầy đủ cơ sở để đứng vững trong xu thế hiện nay. Bên cạnh đó, sổ hộ khẩu không thể xác định rằng các thành viên có cùng trú ngụ hay là cùng làm việc kiếm sống hay không. Ở quy định cũ (Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký kinh doanh) cho thấy chủ sở hữu hộ kinh doanh có thể là một nhóm người có gồm các cá nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Nếu nhóm người này không phải là một hộ gia đình, không có quan hệ huyết thống, giả sử họ chỉ là những bạn hàng thân thiết thì trong trường hợp này hộ kinh doanh giúp người ta dễ dàng liên tưởng đến loại hình công ty hợp danh hoặc công ty hợp vốn đơn giản. Chủ sở hữu là một cá nhân có sự khác biệt rất lớn với chủ sở hữu là một nhóm người, bởi nó sẽ quyết định đến: cơ cấu tổ chức, cách thức hoạt động, chế độ trách nhiệm, đại diện pháp lý của hộ kinh doanh. Bởi vậy, việc quy định chủ sở hữu hộ kinh doanh gồm một nhóm người như khái niệm trên về hộ kinh doanh là không hợp lý. 10
- Pháp luật Việt Nam hiện nay phân biệt hộ kinh doanh với doanh nghiệp thông qua chủ thể là thể nhân kinh doanh hay là tổ chức kinh doanh. Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ, chỉ được đăng ký một hộ kinh doanh trên toàn quốc, tuy nhiên có thể hoạt động kinh doanh tại nhiều địa điểm nhưng phải chọn một địa điểm để đăng ký trụ sở hộ kinh doanh và phải thông báo cho cơ quan quản lý thuế, cơ quan quản lý thị trường nơi tiến hành hoạt động kinh doanh đối với các địa điểm kinh doanh còn lại, đây là nội dung mới, tiến bộ của pháp luật doanh nghiệp [11]. Có thể hiểu rằng, pháp luật doanh nghiệp hiện nay xác định hộ kinh doanh với các loại hình doanh nghiệp không có gì khác nhau về hình thức, chỉ có chủ thể, quy mô kinh doanh là khác nhau. Như vậy, Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập; đối với hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ, cá nhân có toàn quyền quyết định về mọi hoạt động kinh doanh của hộ (như chủ doanh nghiệp tư nhân đối với doanh nghiệp tư nhân); đối với hộ kinh doanh do các thành viên hộ gia đình làm chủ, mọi hoạt động kinh doanh của hộ do các thành viên trong hộ gia đình quyết định; các thành viên hộ gia đình ủy quyền cho một người làm chủ hộ kinh doanh, tham gia các giao dịch có liên quan đến hoạt động kinh doanh thưong mại. Hiện nay, hộ kinh doanh không còn được ghi nhận là một chủ thể trong giao dịch dân sự và không còn được quy định trong Bộ Luật Dân sự năm 2015, một trong những bộ luật “mẹ” có liên quan đến hoạt động kinh doanh thương mại. 1.1.2. Đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh 1.1.2.1. Hộ kinh doanh không phải là pháp nhân Hộ kinh doanh được thành lập bởi một cá nhân vì vậy họ không thể là pháp nhân; hộ kinh doanh gắn liền với cá nhân thành lập ra hộ kinh doanh; tài sản thuộc sở hữu của cá nhân làm chủ hộ kinh doanh; chủ hộ kinh doanh 11
- được hưởng tất cả lợi nhuận (sau khi đã thực hiện các nghĩa vụ tài chính và thanh toán theo quy định của pháp luật) và phải trách nhiệm bằng tất cả tài sản thuộc sở hữu của mình. Đối với trường hợp hộ kinh doanh được thành lập bởi các thành viên hộ gia đình, thì hộ kinh doanh mang bản chất là hộ gia đình kinh doanh, theo đó, hộ kinh doanh cũng không phải là pháp nhân. Là thể nhân hoạt động kinh doanh độc lập và có tư cách pháp lý riêng như là một doanh nghiệp nhưng hộ kinh doanh không được thực hiện đầy đủ các quyền mà doanh nghiệp có như trong Luật Doanh nghiệp đã quy định. Khi tham gia thỏa thuận kinh doanh, đại diện hộ kinh doanh nhân danh mình để thực hiện hoạt động giao dịch đó hoặc có thể thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với các khoản nợ và nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ hoạt động kinh doanh. Để được thừa nhận có tư cách pháp nhân (theo Điều 74 Bộ Luật dân sự 2015), tổ chức phải thỏa mãn các yếu tố như: - Một là, được thành lập theo quy định pháp luật; có cơ quan điều hành trong cơ cấu tổ chức, được quy định trong điều lệ hoặc quyết định thành lập pháp nhân; - Hai là, tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, có tài sản độc lập với pháp nhân, cá nhân khác; tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập, nhân danh của tổ chức. Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, cho thấy hộ kinh doanh không thỏa mãn yếu tố “có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình” nên không phải là pháp nhân; đặc điểm này của hộ kinh doanh khá giống với doanh nghiệp tư nhân. Nếu so sánh hộ kinh doanh với công ty hợp danh thì có thể thấy rằng, cả hai mô hình kinh doanh này đều có điểm chung là các thành viên phải chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới đối với các nghĩa vụ tài chính. Do đó, cả hộ kinh doanh và công ty hợp danh đều không có sự tách bạch tài sản giữa tài sản của doanh nghiệp với 12
- tài sản của thành viên. Tuy nhiên, công ty hợp danh vẫn được pháp luật quy định tư cách pháp nhân còn hộ kinh doanh thì không (Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp - Khoản 2 Điều 177 Luật Doanh nghiệp 2020). 1.1.2.2. Chủ hộ kinh doanh chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của hộ kinh doanh Cá nhân hoặc các thành viên phải chịu trách nhiệm trả dứt nợ mà không phụ thuộc vào số tài sản kinh doanh họ đang có khi phát sinh các khoản nợ; không tính đến vào việc họ đã chấm dứt hay đang thực hiện hoạt động kinh doanh. Trước hết cần nêu lại định nghĩa về hộ kinh doanh theo Nghị định số 01/2021/NĐ-CP năm 2021 để xác định chế độ trách nhiệm của chủ hộ kinh doanh: “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ. Chỉ được đăng ký một hộ kinh doanh trong phạm vi toàn quốc. Chủ hộ kinh doanh có thể thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh. Trong trường hợp này, chủ hộ kinh doanh, các thành viên hộ gia đình tham gia đăng ký hộ kinh doanh vẫn chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác phát sinh từ hoạt động kinh doanh” [11]. Những quy định này nhìn chung rất khó xác định chế độ trách nhiệm của chủ hộ kinh doanh do cách viết. Theo đó, chúng ta có thể hiểu có ba yếu tố để xác định hộ kinh doanh như sau: (i) Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình làm chủ; (ii) Chỉ được đăng ký một hộ kinh doanh trong phạm vi toàn quốc; (iii) Chủ hộ kinh doanh chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh. Về nguyên tắc, khi kinh doanh trong điều kiện bình thường, thương nhân phải chịu trách nhiệm bằng tất cả tài sản của mình đối với các khoản nợ phát sinh. 13
- Do vậy định nghĩa về hộ kinh doanh theo Nghị định số 01/2021/NĐ- CP năm 2021 chưa rõ về chế độ trách nhiệm; việc phân tích như vậy phải gắn chặt với bản chất của hộ kinh doanh. [36] Trường hợp hộ gia đình làm chủ hộ kinh doanh, thì việc xác định trách nhiệm của từng thành viên hộ gia đình phải cần đến nhiều quy định của Bộ luật Dân sự 2015 [37]. Trường hợp cá nhân làm chủ hộ kinh doanh, thì phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của hộ kinh doanh. Hộ kinh doanh trong trường hợp này rất giống với loại hình công ty hợp danh; cá nhân hoặc các thành viên trong hộ kinh doanh chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ phát sinh của hộ kinh doanh từ hoạt động kinh doanh; hay nói cách khác, khi phát sinh các khoản nợ, không phụ thuộc vào số tài sản kinh doanh hay tài sản dân sự mà họ đang có; không phụ thuộc vào việc họ đang thực hiện hay đã chấm dứt thực hiện hoạt động kinh doanh [37]. 1.2. Khái niệm đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh Mỗi thực thể kinh doanh thương mại, khi tham gia vào thị trường và thực hiện các hoạt động thương mại, sản xuất kinh doanh đòi hỏi một số yêu cầu như: chủ thể, vốn, ngành nghề kinh doanh, trụ sở, chiến lược, phương pháp kinh doanh,... Một trong những điều kiện quan trọng và đặc biệt quan trọng là chủ thể kinh doanh phải tiến hành thủ tục đăng ký thành lập với cơ quan quản lý nhà nước để được xác nhận sự ra đời của các chủ thể thương mại trên thị trường. Dưới góc độ là biện pháp nhằm minh bạch, công khai địa vị pháp lý của các chủ thể, thì “đăng ký” được xem là hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm chứng nhận và chấp thuận về mặt pháp lý đối với chủ thể kinh doanh. Bên cạnh đó, hoạt động đăng ký là khâu cuối của quá trình xác lập quyền sở hữu. Chủ thể có quyền sở hữu, quản lý và duy trì hoạt động đăng ký sau khi thực hiện thủ tục đăng ký. Từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản Khoa học xã hội và Trung tâm Từ điển, năm 1994 đã nêu: “để chính thức công nhận cho hưởng quyền lợi hay làm nghĩa vụ thì phải đăng ký, đăng 14
- ký là việc ghi vào Sổ của cơ quan quản lý...” [35]. “Đăng ký là cách thức ghi chép vào sổ sách do nhà nước đặt ra như: đăng ký kết hôn, đăng ký kinh doanh, đăng ký quyền sử dụng đất đai...” trích Từ điển Giải thích thuật ngữ hành chính [34]. Khi tiến hành kinh doanh, chủ thể phải thực hiện đăng ký kinh doanh (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác), đây là hành trang pháp lý rất quan trọng khi gia nhập vào hoạt động kinh doanh thương mại. Hoạt động đăng ký kinh doanh được thực hiện theo trình tự, thủ tục nhất định, áp dụng thực hiện trên cả nước theo các văn bản quy phạm pháp luật được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành; chủ thể kinh doanh sẽ được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và bắt đầu kinh doanh khi thực hiện đăng ký và được ghi vào sổ đăng ký kinh doanh. Thông qua phương pháp tiếp cận trên, có thể khái niệm như sau: Đăng ký kinh doanh là hành vi nhằm khai trình với cơ quan có thẩm quyền của nhà kinh doanh, công khai về hoạt động kinh doanh của mình với giới kinh doanh và được Nhà nước cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thông qua đó ghi nhận, bảo hộ hoạt động kinh doanh. Việc đăng ký kinh doanh là cơ sở pháp lý và cũng tạo tiền đề cho việc xác nhận sự hình thành, hoạt động, tồn tại và phát triển của chủ thể kinh doanh, được xem xét từ các khía cạnh sau: Một là, từ khía cạnh quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; tạo ra tư cách chủ thể kinh doanh bằng hành vi xác nhận của cơ quan quản lý Nhà nước, dù xét ở góc độ nào thì hành vi đăng ký kinh doanh phải được thực hiện theo những trình tự, thủ tục nhất định. Nội dung này có nghĩa là tự do kinh doanh sẽ không thể được xác lập nếu không có đầy đủ các quy định pháp luật nhằm bảo đảm việc đăng ký kinh doanh của các chủ thể kinh doanh. Hai là, chủ thể nhằm thực hiện nhu cầu kinh doanh của mình mà thực hiện hành vi đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để đảm bảo quyền tự do kinh doanh của mình. 15
- Đăng ký kinh doanh là hành vi quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, hộ kinh doanh, là việc Nhà nước chính thức thừa nhận tư cách pháp lý của doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác; sau đó sẽ thực hiện việc giám sát đối với hoạt động kinh doanh của họ; sự giám sát này được thực hiện với mục đích bảo đảm cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể nhưng không gây ra hậu quả tiêu cực cho xã hội, rõ nét nhất là sự suy thoái, hủy hoại môi trường sống mà cả thế giới đang phải gánh chịu. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các nước phát triển như Vương quốc Anh, Singapore, Úc, Hà Lan, Pháp,… hộ kinh doanh là một trong những hình thức kinh doanh phổ biến do sự đơn giản trong thủ tục thành lập và chi phí gia nhập thị trường thấp. Mặt khác, chủ hộ kinh doanh được quyền chủ động, hoàn toàn độc lập trong việc quyết định phạm vi hoạt động kinh doanh của mình. Nhưng khi chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ của hộ kinh doanh, chủ hộ kinh doanh hoàn toàn gặp khó khăn trong việc huy động vốn, tăng quy mô sản xuất. Sự hình thành và phát triển mô hình hộ kinh doanh là quy luật tất yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, quy luật tự nhiên của nền kinh tế thị trường, của hoạt động kinh doanh thương mại. Vì vậy, đăng ký hộ kinh doanh đã trở thành quy định pháp luật tại nhiều quốc gia trên thế giới, theo đó vừa đảm bảo việc quản lý đối với mô hình kinh doanh này mà còn thực thi chính sách xã hội. Ở nước ta trước đây việc đăng ký kinh doanh chỉ là ghi nhận sự ra đời của chủ thể kinh doanh (gọi là chủ thể kinh doanh vì nó bao gồm cả doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình bên cạnh các loại hình công ty TNHH, công ty cổ phần và công ty hợp danh), còn hiện nay (từ thời điểm Nghị định 43/2010/NĐ-CP và Nghị định 78/2015/NĐ-CP có hiệu lực và nay là Nghị định 01/2021/NĐ-CP) khi làm thủ tục đăng ký doanh nghiệp bao gồm toàn bộ quá trình đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế, đăng ký thay đổi và các hành vi đăng ký, thông báo khác. Qua đó, có thể hiểu rằng: Đăng ký kinh doanh của 16
- các hộ kinh doanh là việc ghi nhận các hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh do cơ quan quản lý nhà nước thực hiện; nhà nước quản lý thông qua việc thu thuế và điều chỉnh các nội dung thay đổi khác đối với hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh. Đăng ký kinh doanh là khâu đầu tiên của doanh nghiệp, cá nhân khởi nghiệp và cần phải được thực hiện tốt nhằm khuyến khích người dân thành lập doanh nghiệp, hộ kinh doanh. Tuy nhiên, việc cấp phép đăng ky`1 kinh doanh hiện vẫn còn tình trạng yêu cầu bổ sung hồ sơ nhiều lần, thời gian xử lý khá chậm, thái độ phục vụ của một số nhân viên công quyền chưa thật sự đúng mức làm cho người dân chưa thật hài lòng và ít nhiều ảnh hưởng không tốt đến ý định khởi nghiệp. Đăng ký kinh doanh là một trong những dịch vụ hành chính công do cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp thực hiện, là thủ tục đầu tiên, cơ sở pháp lý căn bản thành lập Doanh nghiệp, hộ kinh doanh. Nội dung của Đăng ký kinh doanh gồm: cấp, điều chỉnh giấy chứng nhận Đăng ký kinh doanh; cung cấp thông tin về doanh nghiệp, hộ kinh doanh; yêu cầu doanh nghiệp, hộ kinh doanh báo cáo tình hình kinh doanh, thực hiện hậu kiểm sau cấp giấy chứng nhận Đăng ký kinh doanh. Parasuraman và cộng sự (1988), Spreng và Mackoy (1996) đều cho rằng, sự hài lòng của khách hàng là phản ứng của họ về sự khác biệt cảm nhận giữa kinh nghiệm đã biết và sự mong đợi. Do vậy, chất lượng dịch vụ Đăng ký kinh doanh chính là sự thỏa mãn của công dân, tổ chức được xác định bởi việc so sánh giữa chất lượng cảm nhận và chất lượng mong đợi. Dịch vụ công chất lượng cao không chỉ làm gia tăng hài lòng của khách hàng mà còn xây dựng sự trung thực thông qua quá trình minh bạch, trách nhiệm giải trình; đo lường sự hài lòng của khách hàng là một giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức công, đảm bảo cung cấp dịch vụ hành chính tốt nhất, thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính, hiện đại hóa bộ máy nhà nước. 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 282 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020
74 p | 339 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
83 p | 111 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
66 p | 106 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
79 p | 220 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đình công bất hợp pháp từ thực tiễn các khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh
76 p | 123 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2013
84 p | 78 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 96 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 32 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
84 p | 182 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 108 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Cưỡng chế thi hành bản án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thi hành tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
99 p | 35 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
75 p | 74 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
78 p | 58 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 65 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về trách nhiệm của người quản lý, người điều hành ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam
79 p | 24 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 83 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thực thi pháp luật Việt Nam về chuyển nhượng dự án xây dựng nhà ở thương mại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
77 p | 18 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn