Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng gia công trong thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Công ty Max Succeed
lượt xem 12
download
Luận văn trình bày các nội dung về những vấn đề lý luận về hợp đồng gia công trong thương mại theo pháp luật Việt Nam; Thực trạng về thực hiện pháp luật hợp đồng gia công trong thương mại và thực tiễn tại công ty TNHH Max Succeed; Quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật hợp đồng gia công trong thương mại từ thực tiễn công ty TNHH Max Succeed.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng gia công trong thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Công ty Max Succeed
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- NGUYỄN ĐỨC THƯ HỢP ĐỒNG GIA CÔNG TRONG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CÔNG TY MAX SUCCEED LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội, năm 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- NGUYỄN ĐỨC THƯ HỢP ĐỒNG GIA CÔNG TRONG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CÔNG TY MAX SUCCEED Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN THANH HẢI Hà Nội, năm 2021
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, đôi khi một thương nhân nói chung, doanh nghiệp nói riêng không tự mình thực hiện hết các công đoạn của khâu sản xuất. Thông thường, chỉ thực hiện một số công đoạn then chốt và giao lại cho một hoặc nhiều thương nhân khác thực hiện phần còn lại cho đến khi hoàn thành sản phẩm. Đây là xu hướng chung của thế giới hiện nay. Việt Nam được đánh giá là một xưởng gia công lớn của khu vực và trên thế giới. Theo kết quả Tổng điều tra kinh tế 2017, trong năm 2016 cả nước có 1.740 doanh nghiệp thực hiện hoạt động gia công hàng hóa với nước ngoài, trong đó có 1.687 doanh nghiệp nhận gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài. Giá trị nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho quá trình gia công, lắp ráp của các doanh nghiệp nhận gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài chiếm khoảng 12% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Tổng tiền phí gia công các doanh nghiệp nhận được trong năm 2016 là 8,6 tỷ USD. Hoạt động nhận gia công hàng hóa cho nước ngoài đã có những đóng góp trong xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam. Cụ thể, trong năm 2016, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sau gia công của các doanh nghiệp thực hiện gia công hàng hóa cho đối tác nước ngoài chiếm hơn 18% (32,4 tỷ USD) tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đồng thời kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu từ các đối tác nước ngoài của các doanh nghiệp này chiếm 11,5% (20,2 tỷ USD) tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Trong khi đó, giá trị hàng hóa sau gia công của các doanh nghiệp ngoài nhà nước đạt 6,7 tỷ USD chiếm 20,6% và nhập khẩu nguyên liệu đạt 3,8 tỷ USD chiếm 19%; giá trị hàng hóa sau gia công của các doanh nghiệp nhà nước đạt giá trị khiêm tốn khoảng 150 triệu USD, chiếm tỷ trọng 0,5% và nhập khẩu nguyên liệu đạt 99,6 triệu USD, chiếm 0,5% [10]. Điều này mang lại cho nền kinh tế Việt Nam những tác động tích cực song cũng cho thấy hoạt động gia công của các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu vẫn là làm thuê cho các đối tác nước ngoài, bởi các doanh nghiệp Việt Nam chỉ hưởng phần phí (tiền công) từ việc gia công lắp ráp, phần lớn nguyên liệu đầu vào do đối tác nước ngoài cung cấp. 1
- Trước khi tiến hành gia công đòi hỏi các bên phải giao kết hợp đồng, gọi là HĐGC thương mại. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc tránh phát sinh tranh chấp trong quá trình thực hiện. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, HĐGC thương mại được quy định bởi BLDS, LTM và các văn bản hướng dẫn khác có liên quan. Khi những quy định này đi vào thực tiễn, tất nhiên sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, bất cập làm cho hiệu quả thực hiện không được như mong muốn. Ngoài ra, bản thân đang làm việc tại Công ty TNHH Max Succeed là Công ty được chuyển đổi từ Công ty Quốc Tế Vĩ Hảo Việt Nam TNHH – doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập tại Việt Nam chuyên sản xuất và gia công các loại sản phẩm may mặc như quần áo, nón, khăn choàng, gang tay, túi xách, ba lô, áo yếm, áo yếm dùng trong thể thao, sản xuất, gia công thuê sản phẩm may mặc,…Thời gian qua, việc thực hiện pháp luật HĐGC tại Công ty đã đạt được hiệu quả nhất định, tuy nhiên vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định. Do đó, việc nghiên cứu về HĐGC dưới góc độ pháp luật là rất cần thiết. Xuất phát từ những điều kiện thực tiễn và lý luận đó, học viên quyết định chọn đề tài “Hợp đồng gia công trong thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Công ty Max Succeed” làm Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ cho mình. Đồng thời, thông qua đó giúp học viên học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm, nâng cao kiến thức pháp luật của mình về lĩnh vực HĐGC thương mại trên thực tế. Từ đó, đề ra những giải pháp nâng cao việc thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về HĐGC trong thương mại từ thực tiễn Công ty TNHH Max Succeed. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Theo sự tìm hiểu của học viên, hiện nay có rất ít công trình nghiên cứu về HĐGC thương mại dưới góc độ pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng, tuy nhiên có thể tìm thấy một số công trình nghiên cứu khác liên quan như: - Quyển sách “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005”, Tập II phần thứ ba: Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự do Hoàng Thế Liên (chủ biên) năm 2013, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Sách này đã tập trung bình luận các quy 2
- định pháp luật về HĐGC trong dân sự. Đây là tài liệu tham khảo rất cần thiết để tác giả đánh giá các quy định về HĐGC. - Bài viết của tác giả Đồng Thái Quang (2014) về “Chế tài phạt vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại năm 2005 - Một số vướng mắc về lý luận và thực tiễn” đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20, tr.19-26. Bài viết đã nêu lên những tồn tại, bất cập khi áp dụng chế tài phạt vi phạm, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật đối với chế tài này. Tác giả đã kế thừa bài viết này để đánh giá, phân tích các quy định pháp luật về chế tài phạt vi phạm trong HĐGC thương mại, từ đó nêu lên những tồn tại, bất cập khi áp dụng chế tài phạt vi phạm, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện. - Các quyển “Giáo trình Luật thương mại”, Tập I, Tập II do tác giả Nguyễn Văn Tý (chủ biên) (2015), Nhà xuất bản Công an nhân dân đã làm rõ một số vấn đề lý luận về hợp đồng thương mại, nội dung thực hiện pháp luật về hợp đồng thương mại cũng như lược sử phát triển hình thành và phát triển của luật thương mại. Tác giả đã sử dụng tài liệu này để phân tích lược sử hình thành và phát triển pháp luật HĐGC trong thương mại. - Luận án tiến sĩ “Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng thương mại ở Việt Nam hiện nay”, năm 2016 của tác giả Lê Thị Tuyết Hà tại Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Luận án tập trung nghiên cứu giải quyết nội dung quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại; từ đó đưa ra các giải pháp về pháp luật và thực tiễn. Đây là tài liệu tham khảo rất cần thiết để tác giả phân tích trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại gia công. - Bài viết của tác giả Trần Thị Nhật Anh (2016) về “Hoàn thiện quy định về chế tài bồi thường thiệt hại theo Luật thương mại năm 2005” đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5, tr.13-17. Bài viết đã nêu lên những tồn tại, bất cập khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật đối với chế tài này. Tác giả đã kế thừa bài viết này để đánh giá, phân tích các quy định pháp luật về chế tài bồi thường thiệt hại HĐGC thương mại, từ 3
- đó nêu lên những tồn tại, bất cập khi áp dụng chế tài này, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện. - Bài viết “Bình luận về HĐGC theo BLDS năm 2015” của tác giả Đào Xuân Thủy trên Tạp chí Kinh tế đối ngoại năm 2017. Chủ yếu tập trung trình bày những điểm mới về HĐGC trong BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005, qua đó đề cập một số vấn đề còn tồn tại của quy định về HĐGC. Đây là tài liệu tham khảo rất cần thiết để tác giả đánh giá các quy định về HĐGC. Mỗi công trình nghiên cứu là mỗi cách nhìn khác nhau về hợp đồng, đây là những tài liệu quý báu trong việc nghiên cứu đề tài Luận văn. Các công trình nghiên cứu, đã góp phần tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về thực hiện pháp luật về hợp đồng thương mại nói chung, HĐGC nói riêng. Tuy nhiên, chưa đi sâu nghiên cứu, đánh giá thực tiễn, đặc biệt từ thực tiễn Công ty TNHH Max Succeed. Với luận văn này, học viên mong muốn làm rõ hơn những vấn đề lý luận về hợp đồng về HĐGC chỉ ra những bất cập của việc thực hiện các quy định pháp luật về HĐGC trong thương mại từ thực tiễn Công ty TNHH Max Succeed. Từ đó, đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về thực hiện pháp luật HĐGC trong thương mại hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn có mục đích nghiên cứu pháp luật về HĐGC thương mại từ thực tiễn Công ty TNHH Max Succeed; từ đó đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về HĐGC thương mại và nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu trên đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Hệ thống một cách khái quát các cơ sở lý luận về HĐGC thương mại như khái niệm, đặc điểm, phân biệt giữa HĐGC trong thương mại và gia công trong dân sự, lược sử hình thành và phát triển, ý nghĩa của HĐGC cũng như phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật HĐGC trong thương mại. 4
- - Phân tích, so sánh các văn bản pháp luật, quy phạm pháp luật về HĐGC thương mại, cụ thể là làm rõ quy định về giao kết hợp đồng; thực hiện hợp đồng; các chế tài xử lý vi phạm và phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng. - Tiến hành thống kê, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về HĐGC thương mại từ thực tiễn Công ty TNHH Max Succeed. - Đưa ra các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về HĐGC thương mại. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn đi sâu nghiên cứu những vấn đề phát sinh từ thực trạng thực hiện pháp luật về HĐGC trong thương mại. Qua đó, đề ra một số kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về thực hiện pháp luật Việt Nam về HĐGC trong thương mại. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn có phạm vi nghiên cứu sau: - Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu, phân tích các văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng quy định liên quan đến HĐGC thương mại như: BLDS, LTM, Luật Trọng tài thương mại,…và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các công trình nghiên cứu những tác giả đi trước đã được công bố liên quan đến HĐGC thương mại như: Giáo trình, Sách, Tạp chí, Luận án,…Song song đó là sử dụng các công bố, thống kê liên quan đến thực tiễn thực hiện pháp luật HĐGC từ Công ty TNHH Max Succeed. - Phạm vi không gian: Thực tiễn tập trung chủ yếu tại Công ty TNHH Max Succeed. - Phạm vi thời gian: Từ năm 2016 đến năm 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lênin trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt Nam về HĐGC thương mại. 5
- 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên sau: - Phương pháp hệ thống hóa lý thuyết được sử dụng trong Luận văn để làm sáng tỏ cơ sở khoa học về HĐGC thương mại. - Phương pháp tổng hợp, liệt kê được sử dụng trong Luận văn nhằm trình bày nội hàm pháp luật về HĐGC thương mại. - Phương pháp phân tích luật viết được sử dụng trong Luận văn để làm sáng tỏ các quy định của pháp luật Việt Nam về HĐGC thương mại. - Phương pháp thống kê được sử dụng trong Luận văn nhằm làm rõ tình hình thực hiện pháp luật về HĐGC thương mại tại Công ty TNHH Max Succeed nói riêng, Việt Nam nói chung. - Luận văn còn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp so sánh; phương pháp đánh giá, bình luận; phương pháp quy nạp. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn Luận văn hệ thống một cách khoa học các vấn đề lý luận về HĐGC thương mại. Trong đó, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận mới như khái niệm, đặc điểm, phân biệt giữa HĐGC trong thương mại và gia công trong dân sự, lược sử hình thành và phát triển, ý nghĩa của HĐGC cũng như phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật HĐGC trong thương mại. Đồng thời, làm rõ cấu trúc pháp luật của HĐGC thương mại qua các khía cạnh quy định về giao kết hợp đồng; thực hiện hợp đồng; các chế tài xử lý vi phạm và phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn Luận văn đã phân tích được thực trạng trong quy định của pháp luật về HĐGC thương mại hiện nay qua thực tiễn tại Công ty TNHH Max Succeed; từ đó đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy trong các cơ sở đào tạo luật, các viện nghiên cứu và các chủ thể như 6
- Tòa án; Viện kiểm sát; Trọng tài, Hòa giải viên thương mại và đặc biệt là vận dụng tại Công ty TNHH Max Succeed. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài được kết cấu thành 3 chương cụ thể như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về HĐGC trong thương mại theo pháp luật Việt Nam. Chương 2: Thực trạng về thực hiện pháp luật HĐGC trong thương mại và thực tiễn tại công ty TNHH Max Succeed. Chương 3: Quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật HĐGC trong thương mại từ thực tiễn công ty TNHH Max Succeed. 7
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG GIA CÔNG TRONG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, đặc điểm của HĐGC trong thương mại 1.1.1. Khái niệm HĐGC trong thương mại Hợp đồng là một dạng cụ thể của giao dịch dân sự nói chung. Giao dịch - mối quan hệ “giữa người với người” - là mối liên hệ phổ biến trong xã hội loài người và cũng là một trong các chế định pháp lý cổ điển, xuất hiện từ rất lâu đời trong lịch sử khoa học pháp lý. Giao dịch dân sự còn là phương tiện pháp lý quan trọng để các công dân thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần trong sản xuất kinh doanh cũng như sinh hoạt tiêu dùng [11, tr.5]. Theo lý thuyết về hợp đồng, thì hợp đồng là căn cứ phát sinh nghĩa vụ, hay nói cụ thể hơn, hợp đồng trước hết là sự kiện pháp lý, là giao dịch nhằm tạo lập hệ quả pháp lý. Với tư cách là sự kiện pháp lý, hợp đồng bao hàm hai yếu tố đó là sự thỏa thuận và mục đích tạo lập hiệu lực pháp lý (mục đích xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ). Hợp đồng chỉ được thiết lập khi có sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên, tức là khi có sự đồng thuận của các ý định hay sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể. Song sự thỏa thuận giữa các bên không nhằm mục đích tạo lập hệ quả pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ thì cũng không có hợp đồng nào được hình thành. Vậy, hợp đồng được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của mình cho từng loại hợp đồng cụ thể. Chẳng hạn, đối với việc giao kết hợp đồng thương mại thì quyền và nghĩa vụ của các bên khi xác lập hợp đồng phải dựa trên sự thỏa thuận nhưng vẫn đảm bảo rằng sự thỏa thuận đó không vi phạm pháp luật về hợp đồng thương mại và các pháp luật khác có liên quan. Một hợp đồng thì nhất thiết phải có tên gọi. Khi hợp đồng được các bên gọi bằng một tên nhất định và tên này được ghi nhận trong luật, thì toàn bộ chế định 8
- pháp lý của hợp đồng đó được áp dụng để chi phối các mối quan hệ kết ước liên quan mà không cần sự bày tỏ ý chí rành mạch của các bên. LTM năm 2005 không đưa ra khái niệm cụ thể về HĐGC trong thương mại nhưng có đưa ra khái niệm về gia công trong thương mại cũng như hình thức HĐGC. Gia công trong thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công để hưởng thù lao (Điều 178 LTM năm 2005). Đồng thời, HĐGC phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương (Điều 179 LTM năm 2005). Từ những phân tích nêu trên, có thể khái niệm: HĐGC thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện công việc, tạo ra sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công, bên đặt gia công nhận sản phẩm và trả tiền công. 1.1.2. Đặc điểm của HĐGC trong thương mại Xuất phát từ khái niệm của HĐGC cho thấy, loại hợp đồng này có 05 (năm) đặc điểm như sau: Thứ nhất, về chủ thể. Nói chung chủ thể trong hợp đồng là phải từ 02 chủ thể trở lên, tư cách chủ thể phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi, có nghĩa chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng là phải đáp ứng các quy định pháp luật của chủ thể đó. HĐGC trong thương mại được xác lập giữa các chủ thể là thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với các chủ thể hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi chọn áp dụng LTM để điều chỉnh quan hệ HĐGC của các bên (Khoản 3 Điều 1 LTM năm 2005). Như vậy, khi đề cập đến chủ thể của HĐGC phải có ít nhất một bên là thương nhân. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá 9
- nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh (Khoản 1 Điều 6 LTM năm 2005). Thứ hai, HĐGC thương mại là loại hợp đồng song vụ, mang tính đền bù. Luật dân sự Việt Nam nói chung, LTM nói riêng từ trước tới nay tỏ ra đồng nhất trong việc coi phân loại hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ là phân loại đầu tiên được nhắc tới trong các BLDS. Đó là các loại hợp đồng thông dụng theo quan niệm của Luật La Mã (luật nghiêm chính), theo đó hợp đồng đơn vụ chỉ làm phát sinh nghĩa vụ đối với một bên trong hợp đồng. Ngược lại, hợp đồng song vụ làm phát sinh hiệu lực với cả các bên đối ước, tức là họ có quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Theo BLDS năm 2015, hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau. Đối với HĐGC trong thương mại, bên gia công có quyền yêu cầu bên đặt gia công phải chuyển cho mình vật liệu đạt tiêu chuẩn về chất lượng, chủng loại, tính đồng bộ và số lượng cùng vật mẫu, bản vẽ để chế tạo. Bên gia công yêu cầu bên đặt gia công nhận tài sản mới do chính mình tạo ra và trả tiền công như đã thỏa thuận. Chính vì vậy, đây là loại hợp đồng song vụ. Ngoài ra, theo lý thuyết về hợp đồng, hợp đồng có đền bù là loại hợp đồng mà trong đó mỗi bên chủ thể sau khi đã thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận được từ bên kia một lợi ích tương ứng. Đối với HĐGC trong thương mại, khoản tiền mà bên thuê gia công phải trả cho bên gia công là khoản đền bù. Khoản đền bù này là tiền công do các bên thỏa thuận trong HĐGC. Từ những phân tích nêu trên, có thể kết luận rằng HĐGC thương mại là loại hợp đồng song vụ, mang tính đền bù. Thứ ba, bản chất của HĐGC thương mại tuy có nét giống với hợp đồng cung ứng dịch vụ nhưng vẫn có những điểm khác biệt. Nếu xét về bản chất thì HĐGC tuy có một số nét giống hợp đồng dịch vụ nhưng vẫn có những điểm khác về bản chất so với hợp đồng dịch vụ. Điểm giống nhau cơ bản của hai loại hợp đồng này đều là loại hợp đồng song vụ, có đền bù. Điểm khác nhau quan trọng để phân biệt hai loại hợp đồng này là kết quả của công việc hay còn gọi là mục đích của hợp đồng. 10
- Khi giao kết HĐGC sẽ gắn liền với mục đích sinh lợi (mục đích lợi nhuận). Cần lưu ý, mục đích lợi nhuận của cá nhân, tổ chức trong hoạt động kinh doanh, thương mại là mong muốn của cá nhân, tổ chức đó thu được lợi nhuận mà không phân biệt có thu được hay không thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, thương mại đó. Hoạt động kinh doanh, thương mại không chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm cả các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, thương mại. Trong hợp đồng dịch vụ, kết quả của công việc sau khi thực hiện không thể hiện dưới dạng hiện vật, hay nói cách khác là kết quả của công việc trong hợp đồng dịch vụ không tạo ra các sản phẩm vật chất, mặc dù đó là những kết quả đạt được từ công sức của người làm dịch vụ. Ví dụ: kết quả của chuyến đi du lịch trong dịch vụ hướng dẫn du lịch,…Còn trong HĐGC, kết quả công việc được thực hiện trong hợp đồng luôn thể hện dưới dạng các sản phẩm vật chất. Ví dụ: Những bộ bàn ghế được đóng theo HĐGC đóng đồ gỗ hay các thiết bị được lắp ráp trong hợp đồng lắp ráp, chế tạo máy,…[18, tr.600]. Song song đó, trong hợp đồng dịch vụ, việc thực hiện công việc theo hợp đồng dịch vụ chỉ phụ thuộc vào những yêu cầu và những thông tin cần thiết liên quan đến công việc mà bên thuê dịch vụ cung cấp để bên cung ứng dịch vụ thực hiện, bên thuê dịch vụ có thể cung cấp để bên cung ứng dịch vụ thực hiện, bên thuê dịch vụ có thể cung cấp cho bên cung ứng dịch vụ máy móc, thiết bị cần thiết để thực hiện hợp đồng dịch vụ, nhưng không phải cung cấp nguyên vật liệu cho bên cung ứng dịch vụ thực hiện hợp đồng; còn trong HĐGC chất lượng của sản phẩm mà bên nhận gia công thực hiện phụ thuộc vào nguyên liệu, mẫu mã sản phẩm mà bên đặt gia công cung cấp cho bên nhận gia công. Việc phân biệt sự khác nhau giữa HĐGC và hợp đồng dịch vụ chủ yếu có ý nghĩa trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hai loại hợp đồng đó. Thứ tư, đối tượng của HĐGC thương mại phải là vật được xác định theo yêu cầu. 11
- Đối tượng của HĐGC là vật được xác định trước theo mẫu, theo tiêu chuẩn mà các bên thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Về lý thuyết, vật rất đa dạng, nhưng không phải bất cứ vật nào cũng trở thành đối tượng của bất kỳ quan hệ nghĩa vụ nào. Tùy thuộc vào tính chất, đặc tính, vị trí, tính năng, công dụng của vật,…mà từng vật cụ thể chỉ có thể là đối tượng của một hoặc một số quan hệ nghĩa vụ nhất định, Vì vậy, tùy vào từng loại vật khác nhau mà cách thức thực hiện nghĩa vụ giao vật cũng khác nhau [12, tr.78]. Trong HĐGC thương mại, vật là một loại sản phẩm, hàng hóa do bên thuê gia công đặt theo hợp đồng. Mẫu của vật này có thể do bên thuê gia công chỉ định hoặc do bên gia công đưa ra và bên thuê gia công chấp nhận. Mẫu mà các bên sử dụng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội. Như vậy, có thể thấy, đối tượng của HĐGC là vật chưa có thực khi hai bên giao kết hợp đồng, mà vật đó chỉ được xác định trước theo mẫu, theo tiêu chuẩn nhất định và bên gia công có nghĩa vụ phải tạo ra sản phẩm gia công theo đúng mẫu mà hai bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật quy định. Đối với đối tượng của HĐGC, nếu pháp luật có quy định về tiêu chuẩn thì tiêu chuẩn đó thường liên quan đến việc sản phẩm gia công phải đảm bảo các yếu tố về sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng, bảo vệ môi trường,… Theo Điều 180 LTM năm 2005, hàng hóa gia công bao gồm tất cả các loại hàng hóa đều có thể được gia công, trừ trường hợp hàng hóa thuộc diện cấm kinh doanh. Trường hợp gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài để tiêu thụ ở nước ngoài thì hàng hóa thuộc diện cấm kinh doanh, cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu có thể được gia công nếu được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Thứ năm, về hình thức hợp đồng. Hình thức của hợp đồng là cách thức thể hiện ý chí ra bên ngoài của các bên giao kết hợp đồng. Thông qua cách biểu hiện này, có thể biết được nội dung của giao dịch đã xác lập. Hình thức của hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng trong tố tụng. Nó là chứng cứ xác nhận các quan hệ đã, đang tồn tại giữa các bên, từ đó, xác định trách nhiệm pháp lý khi có vi phạm hợp đồng xảy ra. Tùy thuộc vào nội 12
- dung, tính chất của từng hợp đồng cũng như tùy thuộc vào độ tin tưởng lẫn nhau mà các bên có thể lựa chọn một hình thức nhất định để giao kết hợp đồng phù hợp với từng trường hợp cụ thể [2, tr.14]. Về nguyên tắc, các bên được tự do lựa chọn hình thức, hợp đồng có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Tuy nhiên, đối với HĐGC trong thương mại thì hợp đồng phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương (Điều 179 LTM năm 2005). Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định pháp luật (khoản 15 Điều 3 LTM năm 2005). Như vậy, so với các loại hợp đồng thương mại khác thì hình thức HĐGC mang tính chất đặc thù, bắt buộc lập thành văn bản. 1.2. Phân biệt HĐGC trong thương mại và HĐGC trong dân sự Việc phân biệt HĐGC trong thương mại và HĐGC trong dân sự có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt trong trường hợp các bên có tranh chấp thì việc phân biệt này dùng để xác định quan hệ tranh chấp dân sự hay thương mại. Tranh chấp hợp đồng dân sự quy định tại khoản 3 Điều 26 và tranh chấp hợp đồng thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 BLTTDS năm 2015. Mặc dù đều là các tranh chấp về sự thỏa thuận của các bên; trình tự, thủ tục tố tụng đều theo quy định của BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, về căn cứ pháp luật để áp dụng giải quyết thì khác nhau: Tranh chấp hợp đồng dân sự (HĐGC trong dân sự) căn cứ vào BLDS vá các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến dân sự; còn giải quyết các tranh chấp hợp đồng thương mại (HĐGC trong thương mại) là theo quy định của LTM và các văn bản quy phạm pháp luật khác về thương mại, trừ khoản 3 Điều 4 LTM năm 2005, khoản 3 Điều 4 BLDS năm 2015, tức là hoạt động thương mại không được quy định trong LTM và trong các luật khác thì áp dụng quy định của BLDS. Và trường hợp luật khác có liên quan không quy định hoặc có quy định nhưng vi phạm trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự thì quy định của BLDS được áp dụng [14, tr.417]. 13
- Thứ nhất, chủ thể của HĐGC trong thương mại phải có ít nhất một bên là thương nhân, còn chủ thể của HĐGC trong dân sự có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Với quy định hiện hành của BLDS năm 2015, chủ thể của quan hệ dân sự là cá nhân hoặc pháp nhân còn chủ thể của HĐGC trong thương mại phải có ít nhất một bên là thương nhân. Lý do có sự khác biệt này là vì, để thực hiện hoạt động thương mại thì chủ thể HĐGC thương mại cần đáp ứng những yêu cầu nhất định về vốn, về tư cách pháp lý, về một số yêu cầu điều kiện mang tính nghề nghiệp để triển khai hoạt động thương mại thường xuyên, độc lập trên thị trường. Ảnh hưởng của hoạt động thương mại đối với nền kinh tế - xã hội cũng có sự khác biệt so với các giao dịch dân sự. Do vậy, sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động thương mại cũng có những điểm khác biệt. Một trong những yêu cầu thể hiện sự quản lý của Nhà nước là quy định về điều kiện chủ thể tham gia hoạt động thương mại nói chung, HĐGC nói riêng là tổ chức, cá nhân có hoạt động thương mại phải đăng ký kinh doanh với tư cách thương nhân. Thứ hai, HĐGC trong thương mại gắn liền với hoạt động mang tính nghề nghiệp của thương nhân - hoạt động thương mại, vì vậy mục đích của HĐGC thương mại chủ yếu gắn với mục đích sinh lợi, còn gia công trong dân sự mang đậm tính chất dân sự. Phân biệt này xuất phát và gắn liền với đặc điểm về chủ thể chủ yếu của HĐGC trong thương mại là thương nhân. Theo lý thuyết và trong thực tiễn, thương nhân sẽ thường xuyên thực hiện hoạt động thương mại với mục đích sinh lời. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, một bên của hợp đồng thương mại không có mục đích sinh lời như hợp đồng được thiết lập giữa thương nhân và các tổ chức, cá nhân có liên quan. Hoặc giữa các tổ chức, cá nhân với nhau đơn thuần là thực hiện công việc để tạo ra sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công, bên đặt gia công nhận sản phẩm và trả tiền công theo như HĐGC trong dân sự. Thứ ba, HĐGC trong thương mại không đặt ra vấn đề cụ thể đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng như trong dân sự. 14
- Theo quy định tại Điều 551 BLDS năm 2015, mỗi bên đều có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện HĐGC, nếu việc tiếp tục thực hiện hợp đồng không mang lại lợi ích cho mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác, nhưng phải báo cho bên kia biết trước một thời gian hợp lý. Bên đặt gia công đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thì phải trả tiền công tương ứng với công việc đã làm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Bên nhận gia công đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thì không được trả tiền công, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng mà gây thiệt hại cho bên kia thì phải bồi thường. Còn trong hoạt động thương mại nói chung, HĐGC nói riêng thông thường chỉ đặt ra 07 loại chế tài được liệt kê tại Điều 292 LTM năm 2005, không đề cập đến vấn đề đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng. Thứ tư, phương thức giải quyết bằng trọng tài thương mại sẽ không được áp dụng khi xảy ra tranh chấp đối với HĐGC trong dân sự. Khác với HĐGC trong thương mại, phương thức giải quyết bằng trọng tài thương mại có thể được áp dụng nếu các bên có thỏa thuận và phải là một trong ba dạng tranh chấp theo quy định tại Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 bao gồm (i) Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (ii) Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại (iii) Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài. Đối với HĐGC trong dân sự thì phương thức giải quyết này sẽ không được áp dụng. Đây là điểm đặc thù phân biệt phương thức giải quyết giữa HĐGC trong thương mại và trong dân sự. 1.3. Lược sử hình thành và phát triển quy định của pháp luật Việt Nam về HĐGC trong thương mại Sự hình thành và phát triển quy định của pháp luật Việt Nam về HĐGC trong thương mại gắn liền với sự hình thành và phát triển của LTM Việt Nam. 1.3.1. Giai đoạn trước ngày 01/01/2006 Trong các triều đại phong kiến Việt Nam đã có các bộ luật như Bộ hình thư 15
- (triều Lý), Bộ Quốc triều thống chế (triều Trần), Bộ Quốc triều hình luật (triều Lê), Bộ Hoàng Việt luật lệ (triều Nguyễn), mặc dù nội dung nặng về hình sự nhưng ngoài những quy định về luật hình sự, các bộ luật này còn chứa đựng một số chế định của luật dân sự và một số ngành luật khác và các bộ luật này có thể được coi như nguồn gốc của dân luật Việt Nam. Như vậy, các quy định của luật dân sự có từ thời phong kiến, còn pháp luật về thương mại nói chung, HĐGC nói riêng hầu như không được biết đến trong pháp luật Việt Nam thời phong kiến. Điều đó có thể lý giải là vì nền thương mại Việt Nam lúc bấy giờ còn kém cỏi, chưa có gì phát triển đáng kể [33, tr.15]. Đến thời kỳ Pháp thuộc, năm 1864 người Pháp đem Bộ LTM của mình áp dụng vào Nam Kỳ và Bộ luật đó cũng được áp dụng vào Bắc Kỳ năm 1888. Bộ LTM Pháp quy định về các vấn đề như thương gia và quyền hạn, nghĩa vụ của thương gia; về các hội buôn; về thương phiếu; về luật hàng hải; về phá sản (khánh tận) và về tòa án thương mại. Năm 1892, Pháp ban hành sắc lệnh quy định việc hành nghề thương mại của người Á Đông ngoại quốc và người Việt Nam sinh tại các nhượng địa Pháp (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng) thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật Pháp. Theo tinh thần các văn bản trên, hoạt động thương mại của các thương nhân trên lãnh thổ Việt Nam được điều chỉnh bằng pháp luật Pháp, trong trường hợp những người này có vi phạm thì được xét xử ở các tòa án Pháp và theo pháp luật của Pháp. Tuy nhiên, trong giai đoạn này hoạt động gia công thương mại vẫn chưa được phát triển, chủ yếu là phát triển hoạt động mua bán hàng hóa. Sau Cách mạng tháng Tám, trên cơ sở Sắc lệnh 90/SL ngày 10/10/1945 và Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong những năm đầu cách mạng, pháp luật về thương mại vẫn còn hiệu lực trừ những luật lệ trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể nhân dân cộng hòa. Khi hòa bình lập lại (1954), đất nước bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Ở miền Nam, chính phủ Việt Nam cộng hòa đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về thương mại quan trọng, trong đó phải kể đến Bộ LTM ban hành ngày 20/12/1972. Với sự ra đời của Bộ LTM, LTM Việt Nam cộng 16
- hòa có một bước phát triển đáng kể với nội dung khá phong phú, đề cập nhiều vấn đề của đời sống thương mại lúc đó ở miền Nam Việt Nam như định nghĩa và lịch sử của LTM, về thương gia, khế ước thương mại,…Tuy nhiên, hoạt động gia công trong thương mại vẫn chưa được điều chỉnh một cách cụ thể, rõ ràng. Năm 1989, Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế đã ra đời, theo đó, hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình. Như vậy, trong văn bản này cũng chưa cụ thể hóa HĐGC trong thương mại. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 89/CP ngày 15/12/1995 về việc bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép xuất, nhập khẩu hàng hóa từng chuyến. Theo đó, căn cứ chỉ tiêu chung của Nhà nước về xuất, nhập khẩu, Bộ Thương mại cấp giấy phép xuất, nhập khẩu đối với những mặt hàng và nhóm hàng gia công. Đồng thời, Bộ Thương mại – Tổng Cục hải quan đã ban hành Thông tư liên bộ số 77-TM/TCHQ ngày 29 tháng 7 năm 1996 điều chỉnh và bổ sung các quy định của liên Bộ thương mại – Tổng cục hải quan về việc thực hiện Nghị định 89/CP ngày 15/12/1995 của Chính phủ. Theo đó, tất cả các HĐGC hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam cho nước ngoài đều do Bộ Thương mại phê duyệt. Riêng đối với các phụ kiện bổ sung của các HĐGC đã được Bộ Thương mại phê duyệt không có nội dung về máy móc thiết bị và không sửa đổi nội dung của các điều khoản thương mại, doanh nghiệp trực tiếp đến cơ quan Hải quan để làm thủ tục xuất nhập khẩu. Đối với các phụ kiện bổ sung HĐGC có nội dung về máy móc thiết bị và thay đổi nội dung, điều khoản thương mại của hợp đồng do Bộ Thương mại phê duyệt. Việc gia công hàng xuất khẩu của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do Bộ Thương mại phê duyệt hợp đồng và phụ kiện của hợp đồng. 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 282 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020
74 p | 339 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
83 p | 111 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
66 p | 107 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
79 p | 220 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đình công bất hợp pháp từ thực tiễn các khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh
76 p | 123 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2013
84 p | 78 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 96 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 32 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
84 p | 183 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 108 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Cưỡng chế thi hành bản án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thi hành tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
99 p | 35 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
75 p | 74 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
78 p | 58 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 65 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về mua bán nợ xấu phát sinh từ hợp đồng tín dụng của ngân hàng thương mại qua thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh
101 p | 17 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 83 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thực thi pháp luật Việt Nam về chuyển nhượng dự án xây dựng nhà ở thương mại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
77 p | 20 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn