Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Đặc điểm thơ Nguyễn Hoa
lượt xem 4
download
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là tập trung tìm hiểu và nhận diện những nét đặc sắc trong thơ Nguyễn Hoa trên cả hai phương diện nội dung và cách thức biểu hiện, trên cơ sở đó khẳng đinh thành tựu cùng những đóng góp của thơ Nguyễn Hoa với nền thơ ca Việt Nam đương đại. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Đặc điểm thơ Nguyễn Hoa
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC VŨ THANH HUYỀN ĐẶC ĐIỂM THƠ NGUYỄN HOA LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2017
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC VŨ THANH HUYỀN ĐẶC ĐIỂM THƠ NGUYỄN HOA Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã ngành: 60.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Bích Thu THÁI NGUYÊN - 2017
- i LỜI CẢM ƠN Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến người hướng dẫn khoa học - PGS.TS Nguyễn Thị Bích Thu, cô đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu. Đặc biệt, tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới nhà thơ Nguyễn Hoa và gia đình đã hết sức tạo điều kiện, quan tâm giúp đỡ để tôi có thể hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Luận văn này là kết quả của một quá trình học tập và nghiên cứu. Vì vậy, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến những người thầy, người cô đã giảng dạy các chuyên đề cao học cho lớp Văn học Việt Nam K9 (2015 - 2017) tại trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và những người thân đã luôn ủng hộ động viên tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn. Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017 Tác giả luận văn Vũ Thanh Huyền
- ii
- iii MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... i MỤC LỤC ........................................................................................................ ii MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ............................................................ 5 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ..................................................... 5 5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 5 6. Cấu trúc của luận văn ................................................................................ 6 7. Đóng góp của luận văn.............................................................................. 6 Chương 1. THƠ NGUYỄN HOA TRONG DÒNG CHẢY CỦA THƠ VIỆT NAM TỪ SAU 1975 ĐẾN NAY ...................................... 7 1.1. Khái lược thơ Việt Nam từ sau 1975 đến nay ....................................... 7 1.1.1. Những tiền đề lịch sử thẩm mĩ ........................................................ 7 1.1.2. Sự đổi mới trong tư duy thơ Việt Nam sau 1975............................ 8 1.2. Hành trình thơ Nguyễn Hoa ................................................................. 17 1.2.1. Vài nét về cuộc đời ....................................................................... 17 1.2.2. Hành trình thơ Nguyễn Hoa .......................................................... 19 1.3. Quan niệm về thơ ................................................................................. 23 Tiểu kết chương 1............................................................................................ 28 Chương 2. CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO VÀ HÌNH TƯỢNG CÁI TÔI TRONG THƠ NGUYỄN HOA ............................................... 29 2.1. Cảm hứng chủ đạo trong thơ Nguyễn Hoa .......................................... 29 2.1.1. Cảm hứng về Tổ quốc, về người lính ........................................... 30 2.1.2. Cảm hứng về quê hương, về mẹ, về đất đai .................................. 41 2.1.3. Cảm hứng về thiên nhiên .............................................................. 48
- iv 2.2. Hình tượng cái tôi trong thơ Nguyễn Hoa ........................................... 51 2.2.1. Cái tôi chân thật, trong trẻo, giản dị, chân thành. ......................... 53 2.2.2. Cái tôi đầy trách nhiệm, giàu niềm tin khao khát vươn lên khẳng định mình ................................................................................................ 59 2.2.3 Cái tôi suy tư, chiêm nghiệm ......................................................... 62 Tiểu kết chương 2............................................................................................ 73 Chương 3. ĐẶC ĐIỂM THƠ NGUYỄN HOA NHÌN TỪ NGÔN NGỮ, CẤU TỨ, THỂ THƠ................................................................. 74 3.1. Ngôn ngữ .............................................................................................. 74 3.1.1. Sử dụng lớp từ ngữ, hình ảnh đơn giản, bình dị, quen thuộc. ...... 75 3.1.2. Sử dụng lớp từ ngữ, hình ảnh tinh tế, biểu cảm, mới mẻ, sáng tạo ................................................................................................... 77 3.2. Cấu tứ ................................................................................................... 79 3.2.1. Cấu tứ theo dòng tâm trạng ........................................................... 80 3.2.2. Cấu tứ theo mạch triết lí ................................................................ 82 3.3. Thể thơ ................................................................................................. 86 3.3.1. Thơ dài .......................................................................................... 86 3.3.2. Thơ ngắn ....................................................................................... 91 Tiểu kết chương 3............................................................................................ 96 KẾT LUẬN .................................................................................................... 98 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 100
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đại thắng mùa xuân 1975 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nhân dân ta: đất nước thống nhất, non sông liền một dải, một kỉ nguyên mới mở ra cho dân tộc. Cùng với sự đổi thay của đất nước là sự phát triển đổi mới của văn học, trong đó thể loại xung kích bao giờ và trước hết cũng là thơ ca. Sau 1975, do tự thân phát triển của thơ, do nhu cầu đổi mới của nhà thơ, thơ ca đã phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Đặc biệt từ năm 1986, sự nghiệp đổi mới diễn ra ở mọi cấp độ đã làm thay đổi diện mạo đất nước, ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm và tư duy sáng tạo nghệ thuật của các nhà thơ cũng như các văn nghệ sĩ nói chung. Chính điều này đã tạo nên một diện mạo mới, phong phú, phức tạp nhưng cũng rất ấn tượng, độc đáo của thơ. Có thể nói, thơ sau 1975 đến nay vẫn là một mảnh đất màu mỡ để người đọc thỏa sức khám phá và trải nghiệm. Trong đội ngũ các nhà thơ xuất hiện đông đảo sau 1975, Nguyễn Hoa là một trong số đó. Đọc thơ Nguyễn Hoa, ta đã gặp được những bài thơ, câu thơ hay, xúc động mà giản dị, ta thấy cảm mến một con người vừa có tài, có tâm, có vốn sống dày dặn và lao động nghệ thuật nghiêm túc. Gần 50 năm làm thơ, Nguyễn Hoa với những bước đi lặng lẽ mà bền bỉ cho thấy ở ông một sự thủy chung gắn bó máu thịt với công việc làm thơ. Nguyễn Hoa yêu thơ, đam mê thơ và với ông viết dường như chỉ để trải lòng mà không hề suy tính thiệt hơn, thậm chí không mong chờ vào sự vinh danh. Dù tuổi không còn trẻ, và đã đi hết gần quãng đời thăng trầm của một thi sĩ nhưng Nguyễn Hoa vẫn mải miết với những trang thơ, mải miết cống hiến và chắt lọc tinh hoa cho đời. Với một lớp vỏ bọc khá giản dị về ngôn từ nhưng những vần thơ của Nguyễn Hoa lại mang nhiều suy tư chiêm nghiệm. Đó là những vần thơ “tụ gom thành nhị và lặng lẽ tỏa hương” [6]. Ông đã nhận được những giải thưởng đáng kể, cần phải nhắc đến: Giải thưởng Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam năm 2002, giải C với tập thơ Mùa xuân không bị bỏ quên; Giải thưởng Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam 2013 với tập thơ Thắp xanh niềm tôi; Giải thưởng Văn học nghệ thuật, báo chí 5 năm (2009-2014), giải C với tập thơ Máy bay đang bay và những bài thơ khác. Với những thành tựu
- 2 nhất định, thơ Nguyễn Hoa đã được người đọc và giới phê bình quan tâm. Đã có nhiều bài viết nhận xét, đánh giá về thơ Nguyễn Hoa, chủ yếu đó là tình cảm yêu mến của những người bạn từng đọc thơ và hiểu về tâm hồn thơ của tác giả. Tuy nhiên cho đến nay vẫn còn thiếu những công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu về thơ Nguyễn Hoa. Đây chính là lí do để chúng tôi lựa chọn đề tài Đặc điểm thơ Nguyễn Hoa với mong muốn ghi nhận những thành công nhất định về nội dung và nghệ thuật trong thơ Nguyễn Hoa cùng những đóng góp của thơ ông trong đời sống thi ca Việt Nam từ 1975 đến nay. 2. Lịch sử vấn đề Sáng tác thơ của Nguyễn Hoa đã được giới phê bình và khá nhiều bạn yêu thơ biết đến. Nhìn chung các bài viết đều thống nhất đánh giá tài năng và ghi nhận những đóng góp của Nguyễn Hoa trong dòng thơ đương đại. Trong Nguyễn Hoa và thơ [51], Nguyễn Trọng Tạo nhận thấy đọc thơ Nguyễn Hoa “mà hình dung ra cả con đường đầy nhọc nhằn gian khó của đời lính, đời thơ, đời sông, đời núi. Những bài thơ trải lòng nhà thơ sau những cuộc đi dài, sau những chiêm nghiệm đời người đêm trắng, sau những gian lao được mất sống còn”, đó là “một Nguyễn Hoa trăn trở suy nghĩ ghi ghi chép chép, trang trải nợ đời”. Nguyễn Hoa đã từng nói: “Tôi có lòng chân thành không biết sợ”, và Nguyễn Trọng Tạo cho rằng: “ Đó chính là lòng chân thành của thi sĩ đã trổ lá, trổ hoa lên cái cây ngôn ngữ”, và đó cũng là “ cái gốc của người thơ, cái gốc của thơ” [51] . Đọc thơ Nguyễn Hoa, tác giả Đoan Trang cảm nhận: “Thế giới trong thơ Nguyễn Hoa là thế giới của cái đẹp, của những mảnh hồi ức, những kỉ niệm ngọt ngào, những cảnh sắc quê hương … luôn ăm ắp sự sống và tâm trạng. Cảm thức về cuộc sống và triết lí nhân sinh luôn xuất hiện trong thơ Nguyễn Hoa. Chúng đồng hành và đan xen nhau gây nên những hiệu quả bất ngờ về cảm xúc và gây ấn tượng.”… “Có lẽ những tháng năm gia nhập quân ngũ cùng với niềm đam mê triết học đã trang bị cho Nguyễn Hoa một kinh nghiệm sống khá dày dặn, vì thế trong những câu thơ của anh, ta có cảm giác như vừa gặp sự tri âm, những lời tự sự được bật lên bởi những chiêm nghiệm, những suy tư và khát vọng cần được chia sẻ trong mỗi cuộc đời”… “Cảm hứng chủ đạo và bao trùm trong các bài thơ của Nguyễn Hoa chính là sự đằm thắm, sâu lắng của cảm xúc, hướng về tình yêu đối với con người và quê hương” [56].
- 3 Bước vào thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Hoa, nhà nghiên cứu Hồ Thế Hà phát hiện: Thơ Nguyễn Hoa là những mảnh vỡ thời gian và nỗi nhớ buốt nhức nỗi niềm nhân thế, chúng có khả năng vẫy gọi liên chủ thể tiếp nhận và đồng cảm. Nó như ước muốn của nhà thơ: Ước muốn tôi bài thơ không lặp lại.” [20]. Tác giả Hồ Sĩ Vịnh trong bài viết: Thơ Nguyễn Hoa- Nguồn thơ sáng tạo, đánh giá: “Thơ Nguyễn Hoa như một cuốn nhật kí của một người lính, sống với quê hương sông Chu, trải nghiệm với chiều dài đất nước, nhưng tứ thơ của ông không miên man, kể lể, miêu thuật sự kiện mà đi tìm tâm lí của sự kiện” [59]. Nét độc đáo trong quá trình sáng tác của Nguyễn Hoa chính là thơ ngắn. Nói như Hồ Sĩ Vịnh “Thơ ngắn có thể là một sở trường của Nguyễn Hoa”. Đã có khá nhiều ý kiến nhận xét trước những vần thơ lạ, kiệm lời của nhà thơ. Nguyễn Trọng Tạo viết: “Anh (Nguyễn Hoa) muốn thơ phải tốc độ và anh đã viết ngắn lại những bài thơ có thể viết dài. Anh không quan niệm tình cảm phải nhiều nước mắt, nên thơ anh là thứ thơ “nước mắt lặn vào trong”. Và anh trở thành một nhà thơ trọng chữ, kiệm lời.” [51]. Trịnh Thanh Sơn cũng có những đánh giá tương tự về thơ ngắn Nguyễn Hoa: “Anh kiệm lời trong giao tiếp đã đành, đến kiệm chữ trong thơ mới thực là riết róng … Vì kiệm lời nên Nguyễn Hoa có ý thức dụng công tinh lọc chữ … Trong những trường hợp thành công, chữ của Nguyễn Hoa như những tín hiệu, lại như bấm huyệt, khiến người đọc ngạc nhiên đến sững sờ” [47]. Trần Hoài Anh trong bài viết của mình đã nhận thấy: “với Nguyễn Hoa, chữ trong thơ không chỉ là kết quả của sự cày xới, mà đó chính là một thân phận, một số kiếp, một duyên nghiệp được anh gọi là kiếp chữ ... Với Nguyễn Hoa, chữ là hiện thân của thơ và thơ là hóa thân của chữ” [3]. Nhân đọc thơ ngắn Nguyễn Hoa, Nguyễn Văn Tông nhận xét: “đúng như tên gọi của tập thơ, gồm toàn những bài thơ ngắn, khổ thơ ngắn và đa phần câu thơ ngắn, chắt lọc ngôn từ, biến tấu linh hoạt, giàu cảm hứng, thẩm sâu ý tứ, nhà thơ muốn tạo dựng phong cách mới, rất riêng của mình.” [52]. Tác giả Mai Bá Ấn trong bài viết “Thơ Nguyễn Hoa- Tụ gom thành nhị và lặng lẽ tỏa hương” (Tạp chí Văn nghệ Hội VHNT Vĩnh Phúc số 11+12 năm 2013) đã nhận xét: “Thơ Nguyễn Hoa không chú tâm đến màu sắc của những cánh hoa mà anh chỉ chú tâm đến cái nhị hoa khuất sau những cánh hoa khoe sắc, nơi tụ gom tinh túy hoa để lặng lẽ tỏa hương dịu dàng trong gió”, “Đọc thơ Nguyễn Hoa, bất luận là thơ ngắn hay thơ dài, ta vẫn dễ dàng nhận ra những câu thơ, đoạn thơ mà bản thân
- 4 nó có thể trở thành một đơn vị thơ độc lập, ẩn chứa những thông tin thẩm mỹ đầy khơi gợi.”; nhận xét về thơ ngắn, tác giả bài viết cũng khẳng định: “Thông thường những người làm được thơ ngắn hay, tất nhiên họ đã phải trải qua một quá trình liên tưởng chiêm nghiệm dài cả một đời người. Chính trường liên tưởng rộng này đã đưa đến cho Nguyễn Hoa những bài thơ ngắn, những đoạn thơ, câu thơ mang tính chắt lọc cao”, Mai Bá Ấn phát hiện ra “còn có một Nguyễn Hoa thơ văn xuôi, thơ dài bên cạnh những dòng thơ ngắn với một khả năng liên tưởng rộng…”[6]. Ngoài trường liên tưởng, Mai Bá Ấn đã cho rằng: “Thơ Nguyễn Hoa dễ đọc và cũng dễ tìm thấy những tứ thơ đọng lại.”[6]. Tác giả Bùi Xuân trong bài viết Như muối ướp nỗi đau tươi mãi, đã khẳng định: Cái làm nên bản sắc những bài thơ ngắn Nguyễn Hoa chính là sự gắn kết ba trong một: ý, tứ, chữ. Chữ trong thơ Nguyễn Hoa không làm kiếp phu chữ bình thường mà hóa thân vào ý và tứ, đồng hành cùng ý và tứ, làm nên giá trị của câu thơ, bài thơ” [61]. Trong bài viết nhân đọc Thắp xanh niềm tôi (tập thơ của Nguyễn Hoa, NXB Hội Nhà văn 2013), tác giả Trần Hoàng Vy có nhận xét:Tập thơ mỏng, 65 trang, nhưng đầy ắp nội lực của một cây bút thơ đã nửa thế kỉ làm thơ chan chứa những tình cảm sâu lắng, hàm súc những ngôn từ với những ẩn dụ thơ có khi như huyễn mộng nhưng có khi cũng thực là đời… Năm mươi tư bài thơ, nhà thơ Nguyễn Hoa không lẩy ra những câu thơ làm đề từ song lại đưa ra ở bìa 4 của tập thơ như một lập ngôn: “Hoa trong vườn ngủ hết/ Còn thức hoa bóng đèn/ Sương gió lùa điệp điệp/ Vẫn đốt lòng mình lên”… Nguyễn Hoa “Vẫn đốt lòng mình lên qua hình tượng một loại hoa gọi tên là “hoa bóng đèn” (hoa đăng) để soi tỏ cõi mình, cõi đời và cõi thơ”[ 60]. Không chỉ thành công ở thơ ngắn, Nguyễn Hoa còn viết khá nhiều thơ dài. Hồ Sĩ Vịnh đã phát hiện: “Nguyễn Hoa có nhiều tiền đề, thi hứng để viết trường ca” [59]…Tập thơ Máy bay đang bay và những bài thơ khác là một tập thơ được khá nhiều bạn yêu thơ chú ý. Tác giả Hà Đức Ái trong bài viết Máy bay đang bay hay người bay.. đã cảm nhận: “thật ngỡ ngàng, sửng sốt khi đọc tập thơ mới của Nguyễn Hoa… Chỉ gói gọn trong 20 bài thơ mà có đến 118 trang in. Bài thơ dài nhất 19 trang, còn bài ngắn nhất 2 trang nhưng có đến 30 câu…” Tác giả Bùi Xuân cũng đã nhận xét về tập thơ này: “Tôi thấy Nguyễn Hoa như có sẵn một niềm tin vững chắc, như anh tin “đường thơ còn dài”. Đọc bài thơ “Máy bay đang bay” như thấy được cái bỡ ngỡ, dễ thương khi ngồi trong khoang bay, nhưng
- 5 cuối cùng là một Nguyễn Hoa minh triết, giàu bản lĩnh và đức tin.” Ngoài ra, tác giả còn nhận thấy Nguyễn Hoa là người sống rất thực với những bài thơ của mình. Nhịp điệu những bài thơ tự do của anh có lúc nhanh, nhưng thường là chậm, đằm và chắc, cứ như dòng sông đã về qua đồng… Những bài thơ tự do của Nguyễn Hoa đã vượt lên bão, để đồng hành cùng chủ nhân của nó trên … máy bay đang bay” [61]. Qua khảo sát có thể thấy, những nhận xét, đánh giá của các tác giả yêu thơ, các nhà phê bình là khá thống nhất trong việc khẳng định, đề cao tài năng và tâm huyết thơ Nguyễn Hoa. Với chúng tôi, những bài nhận xét, đánh giá này có ý nghĩa tham chiếu quan trọng và trên cơ sở những gợi ý của các tác giả, luận văn hi vọng có thể tìm hiểu một cách hệ thống hơn, phân tích lí giải sâu hơn về thơ Nguyễn Hoa. 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu - Đặc điểm thơ Nguyễn Hoa 3.2 Mục tiêu nghiên cứu - Luận văn tập trung tìm hiểu và nhận diện những nét đặc sắc trong thơ Nguyễn Hoa trên cả hai phương diện nội dung và cách thức biểu hiện, trên cơ sở đó khẳng đinh thành tựu cùng những đóng góp của thơ Nguyễn Hoa với nền thơ ca Việt Nam đương đại. 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu thơ Nguyễn Hoa trong bối cảnh thơ Việt Nam đương đại. - Tìm hiểu đặc điểm thơ Nguyễn Hoa trên phương diện cảm hứng, đề tài và hệ thống hình tượng. - Tìm hiểu đặc điểm thơ Nguyễn Hoa trên phương diện ngôn ngữ, cấu tứ, thể thơ. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân loại thống kê. - Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại. - Phương pháp so sánh đối chiếu. 5. Phạm vi nghiên cứu Khảo sát và tìm hiểu thơ Nguyễn Hoa qua các tập thơ: - Dưới mặt trời (tập thơ 1988, NXB Quân đội nhân dân). - Vàng của mùa thu (tập thơ 1989, NXB Hà Nội)
- 6 - Ngôi sao số phận tôi (tập thơ 1991, NXB Thanh niên) - Con Tổ quốc (tập thơ 1992, NXB Quân đội nhân dân) - Sấm lành (tập thơ 1993, NXB Hội nhà văn) - Sơn ca (tập thơ 1994, NXB Văn hóa thông tin) - Từ một đến tám (tập thơ 1997, NXB Văn hóa thông tin) - Trở về (tập thơ 1997, NXB Quân đội nhân dân) - Mùa xuân không bị bỏ quên (tập thơ 2002, NXB Văn hóa thông tin) - Bên con (tập thơ 2002, NXB Hội Nhà văn) - Ánh mắt tươi (tập thơ 2005, NXB Hội nhà văn) - Lặng lẽ tôi (tập thơ 2007, NXB Hội Nhà văn) - Lửa mát (tập thơ 2009, NXB Hội Nhà văn) - Thắp xanh niềm tôi (tập thơ 2014, NXB Hội nhà văn) - Máy bay đang bay và những bài thơ khác (tập thơ 2011, NXB Hội nhà văn) - Thơ Nguyễn Hoa (tuyển tập thơ, NXB Hội Nhà văn, 2014). 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của Luận văn gồm 3 chương. Chương 1: Thơ Nguyễn Hoa trong dòng chảy của thơ Việt Nam từ sau 1975 đến nay. Chương 2: Cảm hứng chủ đạo và hình tượng cái tôi trong thơ Nguyễn Hoa Chương 3: Đặc điểm thơ Nguyễn Hoa trên phương diện ngôn ngữ, cấu tứ, thể thơ. 7. Đóng góp của luận văn - Luận văn là công trình chuyên biệt đầu tiên tìm hiểu và nhận diện đặc điểm về nội dung và nghệ thuật thơ Nguyễn Hoa, góp phần ghi nhận giá trị thẩm mỹ trong thơ Nguyễn Hoa. Trên cơ sở đó khẳng định tài năng cùng những đóng góp của nhà thơ với đời sống thi ca đương đại nói riêng và rộng ra với văn học Việt Nam từ sau đổi mới đến nay.
- 7 Chương 1 THƠ NGUYỄN HOA TRONG DÒNG CHẢY CỦA THƠ VIỆT NAM TỪ SAU 1975 ĐẾN NAY 1.1. Khái lược thơ Việt Nam từ sau 1975 đến nay 1.1.1. Những tiền đề lịch sử thẩm mĩ Dân tộc Việt Nam đã trải qua 30 năm trường kì gian khổ chiến đấu chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Đại thắng mùa xuân 1975 đã mở ra kỉ nguyên độc lập tự do, thống nhất đất nước. Tuy nhiên, đời sống hậu chiến cũng đặt ra rất nhiều cam go, thách thức với những người vừa bước ra khỏi chiến tranh. Cuộc sống thời bình với những quy luật của nó đã tác động mạnh mẽ đến lối sống, cách nghĩ của con người, buộc họ phải nhận thức lại nhiều vấn đề về cuộc sống cũng như các mối quan hệ nhân sinh, xã hội. Nguyễn Trọng Tạo đã từng viết: “Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi/ Câu trả lời thật không dễ dàng chi…” (Tản mạn thời tôi sống). Như vậy, sau 1975, ta có thể thấy rõ những chuyển biến và đổi thay phức tạp, đa chiều trong trạng thái tinh thần xã hội. Sau 1986, cùng với Đại hội Đảng lần thứ VI, đất nước chuyển sang thời kì Đổi mới. Nội dung quan trọng nhất của sự nghiệp đổi mới là định hướng vì con người: “Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người là mục đích của mọi hoạt động”[13]. Điều này đã kéo theo những chuyển biến tích cực và to lớn trên nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng… Riêng về lĩnh vực văn nghệ, Nghị quyết 5 của Bộ Chính Trị đã nêu rõ: “Đổi mới và nâng cao sự lãnh đạo về quản lý văn hóa văn nghệ lên một bước cao hơn”[13]. Nghị quyết đã khẳng định rõ vai trò tự do sáng tạo của mỗi văn nghệ sĩ chính là điều kiện sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hóa, văn nghệ và để phát triển tài năng. Đại hội Đảng VI là sự đáp ứng hết sức kịp thời và mạnh mẽ yêu cầu của dân tộc và thời đại vào thời điểm lịch sử đó. Tinh thần dân chủ được phát huy trên nhiều lĩnh vực của đời sống, đã tiếp thêm nghị lực và sức mạnh cho toàn thể dân tộc trong thời kì đổi mới. Bối cảnh ấy thúc đẩy sự thức tỉnh ý thức cá nhân, đòi hỏi sự quan tâm đến từng số phận con người. Bên cạnh đó, việc nhà nước chủ trương mở cửa hội nhập với thế giới tạo nên những hoạt động giao lưu văn hóa, văn học rộng rãi, cởi mở. Sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội, tinh thần dân chủ và ý thức “nhìn thẳng vào sự thật”, nói rõ sự thật là những động lực cơ bản của văn học Đổi mới. Trong quan niệm về chức năng
- 8 văn học, mối quan hệ giữa văn học và đời sống, nhà văn và bạn đọc cũng như sự tiếp nhận văn học v.v có những thay đổi tích cực. Việc tìm kiếm, thể nghiệm cách tiếp cận thực tại về các thủ pháp và bút pháp nghệ thuật đã được phát huy mạnh mẽ. Đồng thời cá tính và phong cách cá nhân của nhà văn cũng được chú ý, đề cao. Tóm lại, chiến thắng mùa xuân năm 1975 đã mở ra một thời kì mới với lịch sử dân tộc, đồng thời cũng mở ra một chặng đường mới của nền văn học Việt Nam. Sự chuyển biến lớn của đất nước sau năm 1975, đặc biệt sau Đại hội Đảng lần thứ VI đã tác động sâu sắc, mạnh mẽ tới sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân dân, trong đó có văn học nghệ thuật. Tất cả đã tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển tích cực của nền văn học Việt Nam hiện đại. 1.1.2. Sự đổi mới trong tư duy thơ Việt Nam sau 1975 1.1.2.1. Tương ứng với sự thay đổi của bối cảnh lịch sử- xã hội, tình hình phát triển của thơ Việt Nam sau 1975 có nhiều thay đổi so với giai đoạn trước đó. Trong giai đoạn 1945- 1975, tương ứng và chi phối bởi một hoàn cảnh lịch sử có tính đặc thù, những giá trị văn hóa xã hội cơ bản đã được thiết lập trên cơ sở cộng đồng, tập thể, dân tộc; cảm hứng chủ đạo của nền văn học cách mạng là Chủ nghĩa yêu nước, khát vọng độc lập tự do và lí tưởng xã hội chủ nghĩa. Văn học thời kì này hướng đến những sự kiện và biến cố lớn lao, trọng đại có liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của dân tộc, của cộng đồng, những xung đột gay gắt về ý thức hệ, nội dung cảm hứng thiên về cái cao cả hào hùng với thái độ ngợi ca: Thơ ta ơi! Hãy cất cao tiếng hát Ca ngợi trăm lần Tổ quốc chúng ta (Mùa thu mới - Tố Hữu) Người nghệ sĩ đồng hành với Cách mạng qua bao gian lao, thăng trầm lịch sử và đã tạo nên một diện mạo văn học đặc thù, mang đậm dấu ấn của một giai đoạn lịch sử dữ dội mà hào hùng. Hướng đến và đề cao giá trị cộng đồng, dân tộc với những phẩm chất truyền thống, nhiệm vụ cơ bản của sáng tác văn học giai đoạn này là tuyên truyền, cổ vũ cho Cách mạng, cho các nhiệm vụ chính trị. Do đó, hình tượng trung tâm của nền văn học này là những hình tượng mang tính sử thi như Tổ quốc, Nhân dân, Lãnh tụ, Người lính… Những hình tượng này hiện lên đẹp đẽ, rực rỡ, muôn người như một. Vai trò cá nhân mờ nhạt, ít được nói đến trong văn học, cái riêng hòa vào cái chung của cộng đồng. Ta có thể thấy trong những câu thơ nổi tiếng của Tố Hữu:
- 9 Mà nói vậy: Trái tim anh đó Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều Phần cho thơ, và phần để em yêu… (Bài ca xuân 61) Sau năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, bối cảnh đó đã tác động sâu sắc, mạnh mẽ tới toàn bộ sinh hoạt vật chất và tinh thần của dân tộc, trong đó có lĩnh vực văn học nghệ thuật. Đặc biệt từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, “với tinh thần đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật” đã tạo cơ sở tư tưởng cho hướng dân chủ hóa trong văn học được khơi dòng và phát triển mạnh mẽ. Dân chủ hóa đã thấm sâu và được thể hiện ở nhiều cấp độ và bình diện của đời sống văn học. Điều này đòi hỏi người nghệ sĩ phải tích cực đổi mới quan niệm về hiện thực, về bản chất hoạt động sáng tạo cũng như vai trò trách nhiệm của mình trong điều kiện lịch sử xã hội mới. Đây chính là động lực quan trọng tạo nên nguồn cảm hứng sáng tạo mới trong thơ Việt Nam sau 1975. Trước 1975, do hoàn cảnh lịch sử xã hội gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc dẫn đến việc đề cao quá mức thuộc tính phản ánh hiện thực. Vấn đề hình thức nghệ thuật bị hiểu một cách phiến diện, hẹp hòi, cũng như sự tìm tòi sáng tạo của cá nhân nghệ sĩ bị coi nhẹ. Do quan niệm phản ánh ấu trĩ và thô sơ này mà bản chất hiện thực chưa được khai thác thể hiện một cách sâu sắc và phong phú như vốn có. Đời sống nội tâm, tinh thần của con người cá nhân không được chú ý đúng mức, thậm chí những biểu hiện của tình cảm riêng tư có khi còn bị đồng nhất với chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Nói cách khác, ở thời kì này, thơ đã không phản ánh được một cách toàn vẹn và khách quan hiện thực tâm hồn con người. Bên cạnh đó, do bị chi phối bởi hoàn cảnh lịch sử đặc thù, trong văn học nghệ thuật nói chung, thơ ca nói riêng, những mặt tiêu cực, hạn chế trong xã hội chưa được đề cập, nhiều nội dung hiện thực bị né tránh: những điều ngang trái, bất công trong xã hội, những bi kịch, mất mát, đau thương trong chiến tranh, những tình cảm riêng tư, những khao khát bản năng trong đời sống cá nhân… Tóm lại, trong một thời gian dài trước năm 1975, con người được chú ý nhiều hơn trong mối quan hệ với lịch sử, dân tộc, thời đại, ngược lại phần riêng tư, cá nhân, cá tính, số phận riêng ít được chú ý đề cập. Nói cách khác, văn học thời kì này quan tâm đến vấn đề “con người trong lịch sử” hơn là “lịch sử trong con người”.
- 10 Sau năm 1975, tinh thần đổi mới đã trỗi dậy mạnh mẽ trong thơ ca nói riêng, trong văn học nói chung, nhằm hướng tới một quan niệm đầy đủ, sâu sắc và toàn diện hơn về hiện thực. Nhận thức này là tất yếu, bởi nó gắn với những thay đổi mạnh mẽ của bối cảnh hậu chiến, và khi bên cạnh đời sống lịch sử, cộng đồng, đời sống cá nhân đã được đặt ra như một vấn đề xã hội cần thiết. Do vậy, bản chất của thơ cũng như mối quan hệ giữa thơ ca và hiện thực đã được nhận thức lại. Giờ đây, thơ có quyền nói tới cả những vấn đề mà mà trước đây người ta ít quan tâm, thậm chí cả những vấn đề mà trước đây bị xem là “húy kị”. Hiện thực được phản ánh trong văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng phải là một hiện thực toàn vẹn, được nhìn nhận trong mối quan hệ đa chiều phong phú và phức tạp như chính bản thân đời sống. Đó không chỉ là hiện thực bên ngoài mà còn là hiện thực bên trong, hiện thực của đời sống tư tưởng, tình cảm, cảm xúc… của con người. Trách nhiệm của người nghệ sĩ phải nói lên được cái toàn vẹn, cái đa chiều đó. Như vậy, sự thức tỉnh trở lại của ý thức cá nhân đã mở ra cho văn học nhiều đề tài và chủ đề mới, làm thay đổi quan niệm về con người. “Văn học ngày càng đi tới một quan niệm toàn vẹn và sâu sắc hơn về con người mà nền tảng triết học hạt nhân cơ bản của quan niệm ấy là tư tưởng nhân bản”[42]. Giờ đây con người được xem là điểm xuất phát, là đích cuối cùng của văn học, là điểm quy chiếu, vừa là thước đo của mọi vấn đề trong xã hội, cho nên tư tưởng thời đại đòi hỏi người nghệ sĩ phải có sự đổi mới mạnh mẽ trong cách cảm, cách nghĩ với quan niệm dấn thân vào cuộc đời và tôn trọng sự thật. Nhà văn Nga I. Turghenhev từng nói: “Nghệ sĩ mà bị tước mất khả năng nhìn thấy cái trắng và cái đen - cả ở bên phải và bên trái - thì có nghĩa anh ta đang đứng bên lằn ranh của cái chết”. Một nền thơ nhân đạo, mang tính hiện thực không thể né tránh sự thật, mặc dù để làm được điều đó, đòi hỏi rất nhiều trách nhiệm, bản lĩnh cũng như lương tri của người cầm bút. Từ góc nhìn của mĩ học, nhà lí luận Lê Ngọc Trà khẳng định: “Trong cuộc chạy đua ồ ạt của nhân loại về tương lai, nhà văn không được quyền chỉ vỗ tay hoan hô mà còn phải cảnh tỉnh, không có quyền chỉ chào đón những người anh hùng đang có đầy triển vọng mà còn phải nhìn thấy trước báo động về nguy cơ cái xấu đang về đích trước hay cùng lúc với cái đẹp. Đó là nghĩa vụ xã hội của văn học”
- 11 Lưu Quang Vũ đã từng khẳng định: Thơ không bao giờ câm lặng Như nhịp đập của trái tim trung thực Là nhân chứng của anh Là ngọn lửa trắng trong Trên lịch sử tối tăm, trên tro bụi. Cùng quan điểm trên, Thanh Thảo đã tuyên bố: Cái đẹp là sự thật Hơn cả tắm trong lửa, trong nước, là tắm trong những ý nghĩ trung thực. Xuất phát từ một ý thức xã hội thẩm mỹ mới, đầy tính trách nhiệm công dân của người nghệ sĩ trước hiện thực, thơ ca giờ đây không chỉ là những “chữ đẹp”, những chữ “ngọt ngào” đã dùng “quen tay đến nhẵn mòn sờn rách” mà phải là “những chữ lấm lem đứng dậy từ đời thực” (thơ Lưu Quang Vũ). Thơ sau 1975, do vậy, mang đậm màu sắc duy lý, với cảm hứng chủ đạo giàu tính nhân bản, đó là thức tỉnh lương tri, lòng nhân ái và khát vọng của con người. 1.1.2.2. Trước 1975, ý thức cộng đồng dường như trùm lấp cả ý thức cá nhân. Cả nền thơ thống nhất trong ý thức cái tôi trữ tình chính trị. Dù nhà thơ muốn hay không, tác phẩm của họ cũng phải đại diện cho quan điểm thẩm mỹ của một thời kỳ lịch sử nhất định, một bộ phận xã hội nhất định, xuất phát từ ý thức chính trị nhất định. Đất nước trong 10 năm (1975 - 1985) thời kì hậu chiến, cảm hứng lớn trong thơ vẫn là cảm hứng ngợi ca. Khi đất nước có chiến tranh, chính các nhà thơ đã từng nếm trải những gian lao thử thách, hy sinh và tự nguyện, tự giác hòa chung một giọng điệu, cất cao lời thơ ca ngợi đất nước do những yêu cầu tất yếu của lịch sử. Vì vậy, sang thời kì hậu chiến, hoàn cảnh đất nước còn những tương đồng, tâm trạng vẫn chưa thôi những xúc động về Tổ quốc, nhân dân. Và nhà thơ vẫn đóng vai trò là người cổ vũ, động viên quần chúng. Có điều cảm hứng ca ngợi đã khác trước. Trầm tĩnh mà ca ngợi, bớt đi cái sôi nổi, dõng dạc, chính luận một thời, cũng có nghĩa niềm vui đã lắng lại, nỗi đau mất mát đã thấm sâu, gợi lên những suy tư, chiêm nghiệm. Viết về chiến tranh, về sự hồi sinh của đất nước, về lao động, xây dựng, các nhà thơ hướng tới ca ngợi con người. Con người ở nhiều thế hệ, nhiều hoàn cảnh, tâm trạng với những tâm thế khác nhau. Con người hiện lên đúng như nó
- 12 tồn tại. Con người vừa tự hào, vừa chấp nhận hy sinh, vừa yên vui, vừa lo toan, vừa chủ động, vừa chịu đựng. Cuộc sống hiện lên trong nhiều bài thơ với cảm hứng lãng mạn: Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải), Trên cảng dầu khí (Xuân Hoàng), Nắng gió Vũng Tàu (Hoài Vũ), Đàn chim di cư hát về rừng cũ (Võ Văn Trực), Trong những chuyến xe buýt (Lê Văn Ngăn)…Các thế hệ nhà thơ cùng đứng vào dàn đồng ca, ca ngợi để giữ niềm tin, để định hướng sống. Nhưng cũng từ dàn đồng ca lãng mạn ấy bắt đầu đã xuất hiện giọng trầm, có dư vang. Cùng với cảm hứng ca ngợi, thơ bắt đầu chuyển sang cảm hứng đời tư- thế sự. Cái tôi suy tư đích thực xuất hiện trong thơ Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ, … và trở lại ở cả những nhà thơ lớn trụ cột của nền thơ cách mạng như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Nguyễn Khoa Điềm. Chất thế sự xuất hiện trong thơ Tố Hữu như một nét mới trong thơ của ông: Đêm cuối năm. Riêng một ngọn đèn Dở hay, khôn dại những chê khen Làm ăn, hai chữ, quen mà lạ Thế cuộc, nhân tình, rõ trắng đen. (Đêm cuối năm) Đi sâu khai thác thế giới nội cảm, các nhà thơ đã tự điều chỉnh thái độ thẩm mỹ của mình. Có nghĩa là họ chủ trương lí giải cuộc sống bằng lăng kính chủ quan, lăng kính cá nhân, thông qua những trải nghiệm và nhận thức riêng, trên cơ sở đó mà phân tích và cắt nghĩa về cuộc đời: Đời ngoài tuổi năm mươi Mong gì hương sắc lạ Nở chùm hoa trên đá Mùa xuân không chịu lùi (Hoa trên đá - Chế Lan Viên) Có thể khẳng định, sau 1975, “thơ Việt Nam từ âm hưởng anh hùng ca, thơ chính luận, thời sự chuyển sang những suy ngẫm, trải nghiệm về cuộc đời, về nghệ thuật” [8]. Nhà thơ Thanh Thảo, một đại diện tiêu biểu của nền thơ chống Mỹ trong Khối vuông ru bíc, nhận thức rất rõ sự chuyển động ấy của chính mình. Nếu trước kia ông viết về hiện thực đời sống chiến tranh bằng giọng điệu sử thi và bút pháp lãng mạn đầy hào sảng và bay bổng thì sau 1975, thơ ông đầy chất lý sự, và tỉnh táo
- 13 đến rạch ròi: “Có nhà thơ tin rằng đời bây giờ tỉnh quá. Tôi ngược lại, tôi thích: tỉnh táo, tỉnh khô, tỉnh bơ, tỉnh như sáo, vì tôi biết cái tỉnh đó chỉ là phía nhìn thấy được của đam mê”… Những thay đổi trong quan niệm nghệ thuật đó đem lại những sản phẩm nghệ thuật mang tinh thần đổi mới. Từ đây xuất hiện xu hướng cảm hứng thơ quay về các đề tài thế sự và đời tư với những suy tư cá nhân, những trăn trở đời thường. Với cảm hứng này, thơ chú ý phân tích, lý giải con người ở nhiều bình diện, cả bề nổi lẫn bề chìm, cả mặt ổn định lẫn dao động, biến đổi, cả phần ý thức lẫn vô thức. Nguyễn Duy trong Đánh thức tiềm lực (1982), Bằng Việt trong Khoảng cách giữa lời (1983), Lâm Thị Mỹ Dạ trong Bài thơ không năm tháng (1983), Xuân Quỳnh với Tự hát (1984), Ý Nhi với Người đàn bà ngồi đan (1985), … khao khát tìm lại mình, tìm lại những giá trị đích thực trong cuộc đời, tình yêu bằng những rung động chân thành, thông cảm, sẻ chia cùng lo toan, trách nhiệm. Cuộc sống đất nước thời kì hậu chiến hiện ra nhiều khi xót xa, cay đắng. Con người sẽ trở về vị trí bình thường, hằng ngày phải đối mặt với những mưu sinh. Nhà thơ cũng ở tư thế đó để nhìn nhận, chiêm nghiệm. Nhờ vậy, chất hiện thực trong thơ được tăng cường. Đó là cái nghèo đói nghiệt ngã, thảm thương: Thuyền vỏ trấu mỏng manh, ba chìm bảy nổi Khúc dân ca cũng bèo bọt, mây trôi Đói thâm niên Đói truyền đời Điệu múa cổ cũng chậm buồn như đói” (Trần Nhuận Minh) Đời sống nhà thơ, một phần đời sống nhân dân trong thời kì hậu chiến cũng vô vàn khó khăn, thiếu thốn: Nhà chỉ mấy thước vuông, sách vở xếp cạnh nồi Nếu nằm mơ em quờ tay là chạm vào thùng gạo Căn nhà nhỏ treo tranh và phơi áo Ta chỉ có mấy thước vuông cho hạnh phúc của mình (Nhà chật - Lưu Quang Vũ) Nhìn chung, thơ mười năm hậu chiến, cảm hứng ngợi ca vẫn là nổi trội. Cảm hứng thế sự còn là mạch ngầm, khởi động nhưng chắc chắn đó là sự chuẩn bị cho những bứt phá mạnh mẽ sau năm 1985.
- 14 Năm 1986, sự nghiệp đổi mới diễn ra ở mọi cấp độ đã làm thay đổi diện mạo đất nước, ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm và tư duy sáng tạo nghệ thuật của các nhà thơ cũng như các văn nghệ sĩ nói chung. Ở thời kì đổi mới, các nhà thơ vẫn tiếp tục những cố gắng của thời kỳ tiền đổi mới: cái tôi nhà thơ được khẳng định, cá tính sáng tạo được tôn trọng, con người cá nhân được đặt ở vị trí ưu tiên. Bên cạnh giọng điệu ngợi ca, thơ mở ra và chấp nhận nhiều giọng điệu, nhiều sắc thái tâm lý: nỗi buồn, cô đơn, tâm trạng xao xuyến không yên, … của thời mở cửa, kinh tế thị trường phát triển. Nét nổi bật trong thơ sau 1986 là khẳng định con người cá tính. Điều này có thể thấy ở ngay tên gọi của nhiều tập thơ, bài thơ: Tôi vẽ mặt tôi của Lê Minh Quốc, Tôi gọi tôi của Đinh Thị Thu Vân, Người đi tìm mặt của Hoàng Hưng. Đó là cái tôi không giấu giếm, tìm mọi cách khẳng định mình, thể hiện mình: Gạn lọc yêu thương uống chén đầy Sợ mình vơi nhạt mất men say Tự cười sao cứ đa mang thế Quơ lấy vui buồn ôm trĩu tay. (Trần Lê Văn) Vẽ tôi một nét môi cười Một dòng nước mắt một đời phù du (Hoàng Phủ Ngọc Tường) Đó còn là cái tôi trải nghiệm, đau khổ, xót xa, triết lý; hay cái tôi nhận ra sự nhỏ bé, hữu hạn của mình: Tôi nhỏ nhoi tồn tại chính mình Nhân danh một chính mình tồn tại (Thạch Quỳ) Cũng có khi là một cái tôi tự tin, hy vọng nhưng rất tội nghiệp: Bởi tôi tin bản thân nỗi đau Có bước đi riêng trong bóng tối Lý do để tôi chờ đợi Là một sự kiếm tìm Một thứ ánh sáng riêng (Đỗ Trọng Khơi)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
147 p | 670 | 92
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ chat - Tiếng Việt và tiếng Anh
141 p | 667 | 73
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam bộ
240 p | 303 | 65
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ chỉ thực vật trong tiếng Việt (đối chiếu giữa các phương ngữ)
116 p | 230 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm của tiêu đề văn bản trong thể loại tin tức
192 p | 248 | 60
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
146 p | 152 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tiếp xúc ngôn ngữ Ê Đê - Việt ở tỉnh Đak Lăk trên bình diện từ vựng - ngữ nghĩa
155 p | 201 | 48
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngôn ngữ văn bản hành chính tiêng Việt trong lĩnh vực thương mại
152 p | 241 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri luận
92 p | 170 | 42
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Quán ngữ tình thái tiếng Việt
94 p | 168 | 41
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngữ nghĩa – Ngữ dụng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
98 p | 163 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
165 p | 166 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Cấu tạo hình thức và ngữ nghĩa của thuật ngữ thể thao tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
249 p | 205 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Lịch sự trong hành động cầu khiến tiếng Việt
148 p | 155 | 31
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong câu tiếng Việt
211 p | 156 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ án văn tiếng Việt
203 p | 119 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Màu sắc Nam bộ trong ngôn ngữ truyện ký Sơn Nam
113 p | 155 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Một số tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Tố Hữu
25 p | 122 | 17
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn