Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ, Văn hóa và Văn học Việt Nam: Thành ngữ đối trong tiếng Việt (có đối chiếu với tiếng Lào)
lượt xem 3
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ đặc điểm của thành ngữ đối trong tiếng Việt, những nét tương đồng và khác biệt giữa thành ngữ đối trong tiếng Việt và thành ngữ đối trong tiếng Lào; qua đó, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc nghiên cứu, dạy học tiếng Việt, tiếng Lào với tư cách là bản ngữ và ngoại ngữ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ, Văn hóa và Văn học Việt Nam: Thành ngữ đối trong tiếng Việt (có đối chiếu với tiếng Lào)
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM AMPHAY KIRIVONG THÀNH NGỮ ĐỐI TRONG TIẾNG VIỆT (Có so sánh với tiếng Lào) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2020
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM AMPHAY KIRIVONG THÀNH NGỮ ĐỐI TRONG TIẾNG VIỆT (Có so sánh với tiếng Lào) Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam Mã số: 8220102 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN VĂN LỘC THÁI NGUYÊN - 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 8 năm 2020 Tác giả AMPHAY KIRIVONG i
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo và bạn bè đồng nghiệp. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS Nguyễn Văn Lộc, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Ngữ văn, Phòng Đào tạo - Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên cùng các thầy giáo ở Viện Ngôn ngữ học, Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn hữu, đồng nghiệp đã động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Thái Nguyên, tháng 8 năm 2020 Tác giả AMPHAYKIRIVONG ii
- MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii MỤC LỤC............................................................................................................ iii DANH MỤC CÁC BẢNG ..................................................................................... v MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 1 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 2 4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 2 5. Đóng góp của đề tài ......................................................................................... 2 6. Cấu trúc của đề tài ........................................................................................... 3 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN ... 4 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................... 4 1.1.1. Tình hình nghiên cứu về thành ngữ trong tiếng Việt ................................ 4 1.1.2. Tình hình nghiên cứu về thành ngữ đối................................................... 13 1.1.3. Các công trình nghiên cứu về thành ngữ tiếng Lào và một số ngôn ngữ khác .. 14 1.1.4. Về tình hình nghiên cứu đối chiếu thành ngữ ......................................... 15 1.2. Cơ sở lí luận ................................................................................................ 15 1.2.1. Các đơn vị ngữ pháp trong tiếng Việt ..................................................... 15 1.2.2. Thành ngữ và thành ngữ đối tiếng Việt ................................................... 19 1.2.3. Vài nét về tiếng Lào và thành ngữ đối trong tiếng Lào ........................... 26 1.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 29 Chương 2: ĐẶC ĐIỂM VỀ NGUỒN GỐC, SỐ LƯỢNG VÀ CẤU TẠO CỦA THÀNH NGỮ ĐỐI TRONG TIẾNG VIỆT (có đối chiếu với tiếng Lào) ....... 31 2.1. Dẫn nhập ..................................................................................................... 31 2.2. Đặc điểm về số lượng của thành ngữ đối trong tiếng Việt ......................... 31 iii
- 2.3. Đặc điểm về nguồn gốc của thành ngữ đối tiếng Việt ............................... 32 2.4. Đặc điểm về cấu tạo của thành ngữ đối tiếng Việt ..................................... 34 2.4.1. Nhận xét chung ........................................................................................ 34 2.4.2. Đặc điểm chung về cấu tạo của thành ngữ đối ........................................ 36 2.4.3. Đặc điểm cấu tạo của các vế đối ............................................................. 39 2.4.4. Một số nét đáng chú ý về cấu tạo của thành ngữ đối trong tiếng Việt .... 49 2.5. Đối chiếu thành ngữ đối trong tiếng Việt và tiếng Lào về cấu tạo ............ 54 2.5.1. Nhận xét chung ........................................................................................ 54 2.5.2. Những nét tương đồng ............................................................................. 55 2.5.3. Những nét khác biệt ................................................................................. 59 2.6. Tiểu kết Chương 2 ...................................................................................... 60 Chương 3: THÀNH NGỮ ĐỐI TIẾNG VIỆT XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA, NGỮ DỤNG VÀ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HÓA (có đối chiếu với tiếng Lào) ........................................................................................................................... 61 3.1. Dẫn nhập ..................................................................................................... 61 3.2. Thành ngữ đối trong tiếng Việt xét về mặt ngữ nghĩa ............................... 61 3.2.1. Các kiểu quan hệ ngữ nghĩa trong thành ngữ đối .................................... 61 3.2.2. Hai lớp nghĩa của thành ngữ đối: nghĩa đen và nghĩa bóng .................... 65 3.2.3. Một số đặc điểm ngữ nghĩa khác của thành ngữ đối ............................... 71 3.3. Một số đặc điểm ngữ dụng của thành ngữ đối ........................................... 73 3.4. Đặc trưng văn hóa của người Việt thể hiện qua thành ngữ đối .................. 75 3.5. Đối chiếu thành ngữ đối trong tiếng Việt và tiếng Lào về mặt ngữ nghĩa ....... 84 3.5.1. Những nét tương đồng ............................................................................. 84 3.5.1. Những nét khác biệt ................................................................................. 85 3.6. Tiểu kết ....................................................................................................... 86 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 88 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 90 iv
- DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Các kiểu thành ngữ đối xét theo nguồn gốc .................................. 34 Bảng 2.2. Thành ngữ đối xét theo số tiếng .................................................... 35 Bảng 2.3. Đặc điểm cấu tạo của các vế trong thành ngữ đối 4 tiếng ............ 35 Bảng 2.4. Đặc điểm cấu tạo của các vế trong thành ngữ đối 6 tiếng ........... 35 Bảng 2.5. Đặc điểm cấu tạo của các vế trong thành ngữ đối 8 tiếng ............ 36 Bảng 3.1. Các thành ngữ đối Việt và Lào có sự giống nhau hoàn toàn ........ 84 Bảng 3.2. Các thành ngữ đối Việt và Lào có sự giống nhau cơ bản ............. 85 Bảng 3.3. Các thành ngữ đối Việt và Lào có sự khác biệt về cách lựa chọn hình ảnh mang tính biểu trưng ............................................. 85 v
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Thành ngữ là một bộ phận quan trọng trong hệ thống từ ngữ của mỗi dân tộc. Thành ngữ không chỉ là sự đúc kết sâu sắc kinh nghiệm dân gian về cuộc sống tinh thần, vật chất của một cộng đồng người nhất định mà còn cung cấp những hiểu biết thú vị về đặc trưng ngôn ngữ, văn hóa, tư duy của cộng đồng đó. Do có những nét đặc sắc về văn học, ngôn ngữ, văn hóa mà từ lâu, thành ngữ đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về thành ngữ tiếng Việt từ nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, riêng việc nghiên cứu thành ngữ đối tiếng Việt (có đối chiếu với tiếng Lào) hầu như còn ít được chú ý. Việc nghiên cứu thành ngữ đối trong tiếng Việt (có đối chiếu với tiếng Lào) có ý nghĩa quan trọng về lí luận và thực tiễn. Về lí luận, việc nghiên cứu đề tài này góp phần làm rõ đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng của thành ngữ đối trong tiếng Việt (có đối chiếu với tiếng Lào); qua đó, góp phần bổ sung một số khía cạnh lí thuyết về thành ngữ, thành ngữ đối trên cứ liệu đối chiếu các ngôn ngữ. Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu đề tài này cung cấp một tài liệu tham khảo hữu ích, cần thiết đối với việc nghiên cứu và dạy học về từ ngữ nói riêng, về ngôn ngữ nói chung. Với những lí do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài: Thành ngữ đối trong tiếng Việt (có đối chiếu với tiếng Lào). 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ đặc điểm của thành ngữ đối trong tiếng Việt, những nét tương đồng và khác biệt giữa thành ngữ đối trong 1
- tiếng Việt và thành ngữ đối trong tiếng Lào; qua đó, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc nghiên cứu, dạy học tiếng Việt, tiếng Lào với tư cách là bản ngữ và ngoại ngữ. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xác lập cơ sở lí luận của đề tài. - Thống kê, phân loại thành ngữ đối trong tiếng Việt và tiếng Lào. - Miêu tả làm rõ đặc điểm của thành ngữ đối trong tiếng Việt (có đối chiếu với tiếng Lào). 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thành ngữ đối trong tiếng Việt (có đối chiếu với tiếng Lào). 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là đặc điểm của thành ngữ đối trong tiếng Việt về các mặt: kết học, nghĩa học và dụng học (có đối chiếu với tiếng Lào). 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong đề tài là phương pháp miêu tả với các thủ pháp phù hợp như: thống kê, phân loại, phân tích ngữ pháp, ngữ nghĩa, mô hình hóa. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng phương pháp so sánh - đối chiếu (phương pháp đối chiếu) với tư cách là phương pháp bổ trợ. 5. Dự kiến đóng góp của đề tài - Về lí luận: Qua việc miêu tả làm rõ đặc điểm của thành ngữ đối trong tiếng Việt về các mặt kết học, nghĩa học và dụng học (có đối chiếu với tiếng Lào); đề tài góp phần bổ sung một số khía cạnh lí thuyết về thành ngữ đối trong tiếng Việt, tiếng Lào với tư cách là những ngôn ngữ cùng thuộc loại hình đơn lập. - Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc dạy học tiếng Việt, tiếng Lào với tư cách là bản ngữ và ngoại ngữ. 2
- 6. Cấu trúc của đề tài Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận Chương 2. Đặc điểm về nguồn gốc, số lượng và cấu tạo của thành ngữ đối Chương 3. Thành ngữ đối tiếng Việt xét về mặt ngữ nghĩa, ngữ dụng và nhìn từ góc độ văn hóa 3
- Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu về thành ngữ trong tiếng Việt Thành ngữ thường được hiểu là những cụm từ cố định có tính hoàn chỉnh, tính nhất thể về nghĩa, có tính gợi hình, gợi cảm, có chức năng định danh sự vật, hoạt động, tính chất. Được coi là “đội quân tinh nhuệ” của hệ thống từ ngữ, từ lâu, thành ngữ đã được quan tâm quan tâm nghiên cứu từ các góc độ, bình diện khác nhau. Qua các công trình nghiên cứu về thành ngữ tiếng Việt, có thể nhận thấy thành ngữ đã được nghiên cứu theo các khuynh hướng hoặc từ các góc độ, bình diện khác nhau. Các công trình nghiên cứu về thành ngữ trong tiếng Việt có thể chia thành ba loại chính: các công trình sưu tầm, giải nghĩa về thành ngữ; các công trình nghiên cứu có tính lí luận về thành ngữ; các công trình nghiên cứu việc sử dụng thành ngữ trong nói, viết. 1.1.1.1 Các công trình sưu tầm, giới thiệu, giải nghĩa về thành ngữ Thuộc loại này là công trình: “Thành ngữ tiếng Việt” của Nguyễn Lực, Lưu Văn Đang [27], “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” của Nguyễn Lân [20], “Từ điển thành ngữ Việt Nam” (do Nguyễn Như Ý chủ biên) [54], “Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt” (Nguyễn Như Ý chủ biên với sự tham gia của các tác giả: Hoàng Văn Hành, Lê Xuân Thại, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành) [55], “Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ” (do Hoàng Văn Hành chủ biên) ” [15]. Các công trình trên đây đã tiến hành sưu tầm, giới thiệu và giải nghĩa về thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt một cách khá công phu. Đây là các tài liệu quý về thành ngữ, tục ngữ Việt Nam mà bất kì ai muốn tìm hiểu về thành ngữ, tục ngữ cũng cần tham khảo. 4
- 1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu có tính chất lí luận về thành ngữ Thuộc loại công trình này là: 1) Các công trình chuyên khảo về thành ngữ Tiêu biểu cho loại này là chuyên luận “Thành ngữ học tiếng Việt” của Hoàng Văn Hành [16]. Với dung lượng gần 300 trang, đến nay, đây được coi là công trình nghiên cứu toàn diện, có hệ thống nhất về thành ngữ tiếng Việt. Trong công trình này, thành ngữ tiếng Việt đã được đề cập đến ở các mặt: nguồn gốc, đặc điểm, các kiểu loại. Điều đáng chú ý là ở công trình này, trên cơ sở phân chia, xác định hai kiểu thành ngữ là thành ngữ ẩn dụ hóa và thành ngữ so sánh, tác giả đã tiến hành phân tích, miêu tả cụ thể, chi tiết các kiểu thành ngữ này trong tiếng Việt. 2) Các giáo trình (trong đó có nội dung trình bày về thành ngữ) Thuộc loại này là các cuốn giáo trình “Phong cách học và đặc điểm của tu từ tiếng Việt” của Cù Đình Tú [50] “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt” của Đỗ Hữu Châu [5], “Từ vựng học tiếng Việt” của Nguyễn Thiện Giáp [12]. Trong các giáo trình trên đây, các tác giả đều dành một mục trình bày về thành ngữ (hoặc về ngữ cố định trong đó có thành ngữ); qua đó, làm rõ khái niệm, đặc điểm chung của thành ngữ tiếng Việt. 3) Các bài báo khoa học bàn về thành ngữ Thuộc các loại công trình này có thể kể đến các bài báo như: “Bước đầu tìm hiểu về sắc thái tu từ của thành ngữ tiếng Việt” của Nguyễn Văn Mệnh [29], “Ngữ nghĩa thành ngữ và tục ngữ - sự vận dụng” của Nguyễn Đức Dân [7], “Thành ngữ đối trong tiếng Việt” của Bùi Khắc Việt [53], “Thành ngữ Hán Việt: khái niệm và phân loại” của Nguyễn Thị Tân [42], [2005, ], “Về cơ sở hình thành thành ngữ tiếng Việt” của Đỗ Thị Thu Hương [19], “Giá trị biểu đạt của thành ngữ trong truyện ngắn đồng bằng Sông Cửu Long”của Nguyễn Thị Thùy Dương [9] “Đặc điểm vế so sánh trong thành ngữ so sánh tiếng Việt” của Hà Quang Năng [33]. 5
- Điểm qua nội dung của các công trình nghiên cứu có tính lí luận về thành ngữ kể trên đây, có thể nhận thấy thành ngữ tiếng Việt đã được đề cập, nhìn nhận ở các góc độ, bình diện khác nhau, từ những vấn đề chung đến những vấn đề cụ thể. Ở đây, chúng tôi chỉ nêu tóm tắt một số vấn đề chính đã được đề cập trong các công trình kể trên. a) Vấn đề xác định khái niệm thành ngữ, ranh giới giữa thành ngữ, tục ngữ và các đơn vị dễ nhầm lẫn Theo hướng này, Nguyễn Văn Mệnh đã có các bài viết “Về ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ” [30], “Vài suy nghĩ góp phần xác định khái niệm thành ngữ tiếng Việt” [31]. Trong bài viết thứ nhất, Nguyễn Văn Mệnh đã nêu ra sự khác biệt giữa thành ngữ và tục ngữ. Theo tác giả, “Thành ngữ giới thiệu một hình ảnh, một hiện tượng, một trạng thái, một tính, một thái độ”, còn tục ngữ thì khác hẳn, nó không dừng lại ở mức độ giới thiệu một hình ảnh, một hiện tượng như thành ngữ mà đi đến một nhận định cụ thể, một kết luận chắc chắn, một kinh nghiệm sâu sắc, một lời nói khuyên răn, một bài học về tư tưởng, đạo đức” [30, 13]. Ở bài viết thứ hai, Nguyễn Văn Mệnh đưa ra các tiêu chí nhằm xác định, nhận diện khái niệm thành ngữ, phân biệt nó với các đơn vị ngôn ngữ khác dễ nhầm lẫn. Cũng đi theo hướng trên đây, Cù Đình Tú có bài viết: “Góp ý về việc phân biệt thành ngữ với tục ngữ” [51]. Trong bài viết này, tác giả cho rằng thành ngữ, tục ngữ đều là các đơn vị ngôn ngữ nên để phân biệt thành ngữ với tục ngữ, cần dựa vào căn cứ ngôn ngữ học, trong đó, căn cứ quan trọng là kết cấu (hình thức cấu tạo), chức năng và sự vận dụng trong lời nói. Tác giả cho rằng sự khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ trước hết thể hiện ở mặt chức năng: thành ngữ có chức năng định danh (tương đương với chức năng của từ), còn tục ngữ có chức năng thông báo (tương đương với chức năng của câu). Phù hợp với sự khác nhau về chức năng, thành ngữ và tục ngữ cũng có sự khác nhau về kết cấu: thành ngữ thường có kết cấu một trung tâm (là cụm từ chính 6
- phụ hoặc tổ hợp đẳng kết của các cụm từ chính phụ), còn tục ngữ lại có kết cấu hai trung tâm (tương ứng với kết cấu chủ ngữ - vị ngữ). Về mặt vận dụng trong lời nói, thành ngữ thường được dùng làm bộ phận của câu, còn tục ngữ có khả năng độc lập tạo thành câu. Như vậy, có thể thấy về khái niệm thành ngữ, ý kiến của các tác giả không có sự thống nhất. Tuy nhiên, theo chúng tôi trong hai ý kiến trên đây, ý kiến của của Cù Đình Tú có nhiều điểm hợp lí hơn, rõ ràng và cụ thể hơn. Ý kiến này cũng là sự gợi ý, một chỗ dựa về lí thuyết cho chúng tôi khi xác định khái niệm thành ngữ ở mục Cơ sở lí luận. b) Vấn đề nghiên cứu thành ngữ về mặt ngữ nghĩa Đây là hướng nghiên cứu thu hút nhiều tác giả nhất. Việc nghiên cứu ngữ nghĩa của thành ngữ được thực hiện theo hai hướng: hướng nghiên cứu nhằm giải nghĩa thành ngữ và hướng nghiên cứu có tính lí thuyết về nghĩa của thành ngữ. Thuộc hướng thứ nhất là các từ điển thành ngữ đã giới thiệu ở mục 1.1.1.1.. Đây là hướng nghiên cứu thu hút khá nhiều tác giả. Điều này cũng dễ hiểu vì một trong những nét đặc sắc của thành ngữ là đặc điểm, giá trị ngữ nghĩa. Mặc dù nhiều thành ngữ nghe quen thuộc nhưng nghĩa của thành ngữ không phải dễ dàng được mọi người hiểu chính xác. Với lí do đó, nhiều tác giả đã dụng công biên soạn các từ điển thành ngữ nhằm giải thích làm rõ ý nghĩa của thành ngữ. Trong các công trình thuộc hướng thứ nhất nêu trên đây, đặc biệt đáng chú ý là công trình “Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt” (do Nguyễn Như Ý chủ biên với sự tham gia của các tác giả: Hoàng Văn Hành, Lê Xuân Thại, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành). Đây là công trình khoa học công phu, thu thập và giải nghĩa hầu hết những thành ngữ thông dụng trên sách báo và trong giao tiếp hằng ngày của người Việt. Các thành ngữ trong công trình này được giải thích ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, có hệ thống. Đặc biệt, các từ khó hiểu đều được giải nghĩa riêng. Nhiều ví dụ về cách dùng thành ngữ được dẫn nguyên văn từ các tác phẩm văn học. Việc tham khảo công trình 7
- này giúp người đọc, người nghiên cứu, kể cả người nước ngoài, hiểu rõ hơn, chính xác hơn nghĩa của các thành ngữ, nhất là các thành ngữ khó hiểu. Cũng thuộc số các từ điển về thành ngữ, cuốn “Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ” (Hoàng Văn Hành chủ biên) cũng là công trình thú vị, hấp dẫn. Khác với những cuốn từ điển thành ngữ khác, công trình này tập trung giải thích những thành ngữ, tục ngữ khó hiểu, dễ gây hiểu lầm ở người đọc, người nghe. Trong các công trình thuộc hướng thứ hai, đáng chú ý là cuốn “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt” đã kể trên đây của Đỗ Hữu Châu. Trong công trình này, tác giả đã nêu ra bốn đặc trưng ngữ nghĩa của ngữ cố định (trong đó có thành ngữ gồm: a) Tính biểu trưng: Các ngữ cố định đều là những bức tranh nho nhỏ về vật thực, việc thực, cụ thể được nâng lên để nói về cái phổ biến, khái quát, trừu tượng. Chúng là các ẩn dụ (múa rìu qua mắt thợ…) so sánh (thẳng như kẻ chỉ…) hay các hoán dụ (quần manh áo vá, một nắng hai sương…) [5, 82- 88, ]. b) Tính dân tộc: Tính chất này thể hiện ở nội dung của các ngữ cố định: Con mèo, con chuột, con chó, con ong, con kiến, con ruồi, ngôi chùa, pho tượng, ông bụt… cái khố, tấm áo, manh quần… con đỉa phải vôi, con rắn mất đầu…tất cả là những tài liệu đó mang đậm màu sắc của quê hương xứ sở Việt Nam [5, 83- 89]. c) Tính hình tượng và tính cụ thể: “Do có tính hình tượng nên thành ngữ là cụ thể. Do ý nghĩa của ngữ cố định thường vượt khỏi ý nghĩa trực tiếp của sự vật, hiện tượng nên chúng lại có giá trị phổ biến, khái quát ”. Chẳng hạn, chuột chạy cùng sào là thành ngữ vừa có tính cụ thể, hình tượng, lại đồng thời có tính trừu tượng, khái quát vì nó không chỉ biểu thị một sự việc cụ thể, quan sát được mà mang ý nghĩa khái quát là chỉ sự cùng đường [5, 82- 85]. d) Tính biểu thái: “Các ngữ cố định thường kèm theo thái độ, cảm xúc, sự đánh giá, có thể nói lên hoặc lòng kính trọng hoặc sự ái ngại, hoặc sự xót thương, sự không tán thành, lòng kinh bỉ, thái độ chê bai, phủ định …của chúng ta đối với con người, vật hay việc được nói tới ” [5, 86]. Nguyễn Thiện Giáp khi đề cập mặt ý nghĩa của thành ngữ, đã chỉ ra tính biểu cảm của thành ngữ. Tác giả cho rằng, bên cạnh nội dung trí tuệ, các thành 8
- ngữ bao giờ cũng kèm theo các sắc thái bình giá, cảm xúc nhất định, hoặc là kính trọng, tán thành, hoặc là chê bai, khinh rẻ, hoặc là ái ngại, xót thương. Chẳng hạn, thành ngữ “nói thánh, nói tướng” vừa diễn đạt khái niệm “ba hoa khoác lác”, vừa kèm thêm thái độ chê bai không tán thành, thành ngữ “thắt lưng buộc bụng” vừa diễn đạt khái niệm “tiết kiệm, dè xẻn”, vừa thể hiện cả thái độ tán thành…[12, 77]. Cù Đình Tú khi bàn về ý nghĩa của thành ngữ cũng chỉ ra “sắc thái biểu cảm và sắc thái trừu tượng, khái quát của thành ngữ tiếng Việt” [48a,150]. Những ý kiến trên đây của các tác giả về ý nghĩa của thành ngữ vừa là sự định hướng, vừa là sự gợi dẫn cho tác giả luận văn khi tìm hiểu thành ngữ về mặt ngữ nghĩa. c) Việc nghiên cứu thành ngữ về cấu tạo Theo hướng này, một số tác giả chú trọng phân tích chỉ ra đặc điểm cấu tạo của thành ngữ. Chẳng hạn, trong cuốn “Vấn đề cấu tạo từ trong tiếng Việt hiện đại” [21], Hồ Lê đã chỉ ra tính phức tạp về ngữ pháp của thành ngữ so với từ ghép: Thành ngữ thường miêu tả những hình ảnh, trạng thái phức tạp hơn từ ghép; do đó, cấu tạo và quan hệ ngữ pháp nội bộ cũng phức tạp hơn: thường do bốn từ trở nên cấu tạo thành và qua đó, có thể phân tích ra hai hay ba quan hệ ngữ pháp khác nhau. Ví dụ: trong thành ngữ “ếch ngồi đáy giếng” có một quan hệ là chủ vị (ếch ngồi), hai quan hệ chính phụ (ngồi đáy giếng và đáy giếng). Tình hình này không thể có ở từ ghép” [21, 100]. Đỗ Hữu Châu khi bàn về đặc điểm cấu tạo của ngữ cố định (trong đó có thành ngữ) cho rằng cần phân biệt “ngữ cố định có kết cấu câu và ngữ cố định có kết cấu cụm từ” [5, 87]. Ngữ cố định có kết cấu cụm từ được tác giả chia thành: ngữ cố định có kết cấu là cụm danh từ (cá mè một lứa) ngữ cố định có kết cấu là cụm tính từ (chậm như rùa, yếu như sên), ngữ cố định có kết cấu là cụm động từ (đếm cua trong lỗ, bắt cá hai tay). Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn “Từ vựng học tiếng Việt” cũng chỉ ra những đặc điểm riêng về cấu tạo của thành ngữ so với đơn vị mà ông gọi là ngữ 9
- định danh. Theo tác giả, về mặt cấu trúc cú pháp, thành ngữ khác với ngữ định danh ở chỗ: ở ngữ định danh hầu như ít gặp quan hệ tường thuật. Còn ở thành ngữ thì quan hệ này lại chiếm tới 7% (ví dụ: anh hùng không có đất dụng võ, bìm bịp bắt gà sống thiến) Ngoài ra, thành ngữ có cấu trúc đẳng lập cũng khác với ngữ định danh cùng kiểu cấu trúc cả về lượng và chất. Về mặt số lượng, thành ngữ có quan hệ dẳng lập chiếm tới 70% tổng số; còn ngữ định danh có quan hệ đẳng lập chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ so với số lượng các ngữ định danh có quan hệ chính phụ [12, 81 ]. Xem xét các kiểu thành ngữ xét về mặt cấu tạo, Nguyễn Thiện Giáp chia thành ngữ tiếng Việt thành hai loại: thành ngữ hợp kết và thành ngữ hòa kết. Đặc điểm của loại thành ngữ hợp kết là: - Do sự kết hợp của một thành tố biểu thị thuộc tính chung của đối tượng và các thành tố khác biểu thị thuộc tính riêng của đối tượng (ví dụ: rách như tổ đỉa) [12, 77 ]. - Nó cũng được hình thành nhờ sự kết hợp của hai thành tố biểu thị những mặt riêng của một đối tượng chung hơn cần diễn đạt (ví dụ: ông chẳng bà chuộc [12, 78]. Ở thành ngữ hòa kết, nghĩa của thành ngữ “được hình thành trên cơ sở của một ẩn dụ toàn bộ. Cơ chế cấu tạo cấu thành ngữ hòa kết giống như cơ chế cấu tạo của ngữ định danh hòa kết” [12, 78]. Thuộc về thành ngữ hòa kết là các thành ngữ kiểu như: chó ngáp phải ruồi, mèo mù vớ cá rán. Trong số các công trình đề cập đến đặc điểm cấu tạo của thành ngữ, Hoàng Văn Hành [16, 150] là tác giả đã có sự miêu tả sâu hơn cả. Ý kiến tác giả về các loại thành ngữ có thể nên tóm tắt như sau: Dựa vào phương thức cấu tạo thành ngữ, tác giả chia thành ngữ tiếng Việt thành hai loại chính: thành ngữ ẩn dụ hóa và thành ngữ so sánh. Theo tác giả, thành ngữ ẩn dụ hóa là loại thành ngữ được tạo ra theo phép ẩn dụ và có tính biểu trưng cao. Đây là loại thành ngữ phổ biến nhất trong tiếng Việt. Thuộc loại thành ngữ ẩn dụ hóa là các thành ngữ kiểu như “lá ngọc cành vàng” (chỉ tầng lớp thuộc dòng dõi quý 10
- phái, cao sang), “chuột sa chĩnh gạo” (chỉ sự may nắm rơi vào hoàn cảnh sung túc). Thành ngữ ẩn dụ hóa được tác giả chia thành hai kiểu chính: thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng (ví dụ:“bóc ngắn cắn dài”, “đầu voi đuôi chuột”) và thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng (ví dụ: “cá đối bằng đầu”, “anh hùng rơm”, “đếm cua trong lỗ”. Mỗi kiểu thành ngữ trên đây lại được chia thành những kiểu nhỏ hơn. Chẳng hạn, thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng được phân loại theo quan hệ nội bộ thành thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng đẳng kết (các vế có quan hệ tương đẳng với nhau như: đầu trâu mặt ngựa, lá mặt lá trái, một mất một còn) và thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng phi đẳng kết (các vế không có quan hệ tương đẳng như: kéo cày trả nợ, theo đóm ăn tàn). Thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng được phân loại tiếp theo cấu tạo ngữ pháp thành: thành ngữ ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng là ngữ (cụm từ chính phụ) như: bắt chạch đằng chuôi, cá đối bằng đầu và thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng có kết cấu là cụm chủ vị như: chuột chạy cùng sào, bụt chùa nhà không thiêng… Thành ngữ so sánh trong cách phân loại của Hoàng Văn Hành là loại thành ngữ mà ở dạng đầy đủ có cấu trúc gồm bốn thành tố A X Y B (ví dụ: phận bạc như vôi, chuyện nở như ngô rang). Thành ngữ so sánh có thể tồn tại ở dạng không đầy đủ, chẳng hạn, vắng A (dai như đỉa đói), vắng X (chuyện như pháo rang), vắng A X (như cơm bữa) Cách phân loại, miêu tả thành ngữ trên đây của Hoàng Văn Hành, đặc biệt, sự phân loại, miêu tả về thành ngữ ẩn dụ hóa đã phản ánh được những diện đối lập cơ bản trong phạm trù thành ngữ xét về phương diện cấu tạo. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là tác giả chưa chú ý đến những thành ngữ được tạo theo phép hoán dụ (ví dụ: chân lấm tay bùn, bữa rau bữa cháo, nhà rách vách nát, gạo chợ nước sông). d) Việc nghiên cứu thành ngữ về phong cách học (tu từ học) Theo hướng nghiên cứu thành ngữ về mặt phong cách (tu từ), Nguyễn Văn Mệnh có bài viết. “Bước đầu tìm hiểu sắc thái tu từ của thành ngữ tiếng 11
- Việt” [29]. Ở công trình này, tác giả đã chỉ ra sắc thái tu từ của thành ngữ tiếng Việt thể hiện ở chỗ thành ngữ mang nghĩa bóng và mang sắc thái tu từ nhất định (nhấn mạnh, khẳng định, ca ngợi, phủ định, phê phán…) nhờ đó, làm tăng tính biểu cảm, tính hấp dẫn cho sự diễn đạt. Cũng theo hướng nghiên cứu giá trị phong cách của thành ngữ. trong cuốn “Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt” [50, 50], Cù Đình Tú đã dành hẳn một mục bàn về màu sắc phong cách của thành ngữ tiếng Việt. Theo tác giả, thành ngữ tiếng Việt có khả năng được dùng rộng rãi trong nhiều phong cách [ 50,150]. Đó là “một pho sách về cuộc đời Việt Nam” [50, 150] vì “nếu tập hợp kho tàng thành ngữ của tiếng Việt lại, chúng ta sẽ có một tập đại thành về cuộc đời Việt Nam” [50, 150]. Theo giáo sư Cù Đình Tú, “có thể dùng thành ngữ làm công cụ diễn đạt về bất kì lĩnh vực nào của cuộc sống”. Từ góc độ phong cách học, Cù Đình Tú đã chia thành ngữ tiếng Việt thành: thành ngữ đa phong cách (ví dụ: sông cạn núi mòn, một lòng một dạ, nhường cơm sẻ áo), thành ngữ khẩu ngữ (đầu chày đít thớt, đầu cua tai nheo, rổ rá cạp lại, nồi tròn úp vung tròn, mắt nhắm mắt mở), thành ngữ gọt giũa (bách chiến bách thắng, đồng tâm hiệp lực, đồng sàng dị mộng, khẩu phật tâm xà, tống cựu nghênh tân). Những ý kiến trên đây của Cù Đình Tú về đặc điểm, giá trị phong cách của thành ngữ là những gợi ý rất bổ ích đối với chúng tôi khi triển khai nội dung nghiên cứu thành ngữ về mặt ngữ nghĩa và ngữ dụng. 1.1.1.3. Việc nghiên cứu về cách sử dụng thành ngữ trong tác phẩm văn chương Thuộc loại công trình này là những bài viết của các tác giả như Nguyễn Đức Dân “Ngữ nghĩa thành ngữ, tục ngữ và sự vận dụng” …[7], Cù Đình Tú: “Hồ Chủ Tịch dùng thành ngữ, tục ngữ” …[52], Võ Xuân Trang “Về một thành ngữ trong truyện Kiều” …[47], Mai Thị Nhung “Nghệ thuật sử dụng thành ngữ trong sáng tác của Tô Hoài” …[34], Nguyễn Thị Tân “Đặc điểm sử dụng thành ngữ gốc Hán trong một thể loại văn bản tiếng Việt …[42], Nguyễn Khắc Hùng “Thêm một vài nhận xét về việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong văn bản của Chủ Tịch Hồ Chi Minh” [18] . Ngoài các công trình vừa kể trên đây, 12
- cũng có thể xếp vào loại công trình nghiên cứu về cách sử dụng thành ngữ cuốn “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam trong hành chức (trên cứ liệu truyện ngắn và tiểu thuyết)” của Đỗ Thị Kim Liên [22]. Không có điều kiện lược thuật đầy đủ nội dung của các công trình nghiên cứu về cách sử dụng thành ngữ trong văn chương hay trong nói viết nói chung, ở đây, chúng tôi chỉ nêu một vài nhận xét khái quát về bài viết của GS Cù Đình Tú đề cập đến cách Hồ Chí Minh dùng thành ngữ, tục ngữ. Theo tác giả, trong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng thành ngữ, tục ngữ có bốn điểm đáng chú ý: Một là: lựa chọn, sử dụng nguyên văn những thành ngữ, tục ngữ có nội dung tích cực, phù hợp với mục đích diễn đạt. Hai là: sử dụng sáng tạo thành ngữ, tục ngữ bằng cách cải biến chúng (thêm bớt thay đổi yếu tố) cho phù hợp với nội dung, mục đích cần diễn đạt. Ba là: không dùng thành ngữ, tục ngữ có nội dung tiêu cực, lạc hậu, không phù hợp, không có ý nghĩa giáo dục. Bốn là: sáng tạo những cách nói mang tính thành ngữ (ví dụ: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”). Cách Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng thành ngữ, tục ngữ với những đặc điểm chỉ ra trên đây có thể coi là mẫu mục về quan điểm, cách sử dụng thành ngữ, tục ngữ. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu về thành ngữ đối Theo sự tìm hiểu của chúng tôi, đến nay, số công trình nghiên cứu về thành ngữ đối chưa nhiều. Tiêu biểu cho số này là bài báo của Bùi Khắc Việt “Về thành ngữ đối trong tiếng Việt” (in trong “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt ngữ nghĩa”, tập 1, NXB, Khoa học xã hội 1981) [53]. Trong bài viết này, tác giả đã có những phân tích sâu về thành ngữ đối trong tiếng Việt ở các mặt cấu trúc, ý nghĩa. Tuy nhiên, do khuôn khổ hạn chế của một bài viết, tác giả chưa có điều kiện nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống về thành ngữ đối trong tiếng Việt. Ngoài ra, năm 2003, Nguyễn Tô Chung cũng công bố trên tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống bài viết: Một số nhận xét thành ngữ đối bốn thành tố Nhật gốc Hán (qua so sánh với thành ngữ Việt). [6]. Mặc dù thành ngữ đối 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
147 p | 670 | 92
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ chat - Tiếng Việt và tiếng Anh
141 p | 668 | 73
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam bộ
240 p | 305 | 65
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ chỉ thực vật trong tiếng Việt (đối chiếu giữa các phương ngữ)
116 p | 232 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm của tiêu đề văn bản trong thể loại tin tức
192 p | 251 | 60
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
146 p | 152 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tiếp xúc ngôn ngữ Ê Đê - Việt ở tỉnh Đak Lăk trên bình diện từ vựng - ngữ nghĩa
155 p | 201 | 48
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngôn ngữ văn bản hành chính tiêng Việt trong lĩnh vực thương mại
152 p | 242 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri luận
92 p | 170 | 42
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Quán ngữ tình thái tiếng Việt
94 p | 169 | 41
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngữ nghĩa – Ngữ dụng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
98 p | 163 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
165 p | 167 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Cấu tạo hình thức và ngữ nghĩa của thuật ngữ thể thao tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
249 p | 205 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Lịch sự trong hành động cầu khiến tiếng Việt
148 p | 156 | 31
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong câu tiếng Việt
211 p | 159 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ án văn tiếng Việt
203 p | 119 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Màu sắc Nam bộ trong ngôn ngữ truyện ký Sơn Nam
113 p | 155 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Một số tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Tố Hữu
25 p | 124 | 17
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn