intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn hóa Việt Nam: Thế giới nhân vật trong truyện ngụ ngôn người Việt

Chia sẻ: Cỏ Xanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:221

200
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nhằm thực hiện các mục đích sau đây: Khảo sát và chỉ ra một cách có hệ thống thế giới nhân vật xuất hiện trong truyện ngụ ngôn của người Việt. Giúp người đọc hiểu thêm về đặc điểm thế giới nhân vật trong truyện ngụ ngôn, những cách thức xây dựng nhân vật và vai trò của nhân vật trong truyện ngụ ngôn người Việt.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn hóa Việt Nam: Thế giới nhân vật trong truyện ngụ ngôn người Việt

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Hồ Thị Thế THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGỤ NGÔN NGƯỜI VIỆT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Thành phố Hồ Chí Minh – 2020
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Hồ Thị Thế THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGỤ NGÔN NGƯỜI VIỆT Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP Thành phố Hồ Chí Minh – 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kì một công trình nào khác. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung khoa học của công trình này. Tác giả luận văn Hồ Thị Thế
  4. LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Điệp, người đã tận tình hướng dẫn, thường xuyên chỉ bảo, giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô đã nhiệt tình giảng dạy cho tôi trong suốt thời gian đào tạo vừa qua. Tôi xin cảm ơn quý thầy cô Khoa Ngữ văn, các thầy cô Phòng Sau đại học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã luôn ân cần, quan tâm và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi xin gởi lời cảm ơn tới cán bộ, công nhân viên Thư viện Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh; Thư viện tỉnh An Giang và Thư viện tỉnh Thanh Hóa đã nhiệt tình hỗ trợ tôi trong quá trình tìm kiếm nguồn tư liệu. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động viên, ủng hộ và tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 5 năm 2020 Tác giả Hồ Thị Thế
  5. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 Chương 1. ĐÔI NÉT VỀ TRUYỆN NGỤ NGÔN VÀ TRUYỆN NGỤ NGÔN NGƯỜI VIỆT ............................................................... 16 1.1. Truyện ngụ ngôn và truyện ngụ ngôn người Việt ................................. 16 1.1.1. Khái niệm truyện ngụ ngôn ............................................................. 16 1.1.2. Cơ sở xã hội của truyện ngụ ngôn ................................................... 18 1.1.3. Đặc điểm nội dung của truyện ngụ ngôn ........................................ 21 1.1.4. Đặc điểm nghệ thuật của truyện ngụ ngôn ...................................... 24 1.2. Truyện ngụ ngôn người Việt ................................................................. 25 1.2.1. Nội dung phong phú ........................................................................ 27 1.2.2. Nghệ thuật đặc sắc........................................................................... 33 1.3. Tình hình nguồn tư liệu tác phẩm được khảo sát .................................. 37 1.3.1. Số lượng tác phẩm được khảo sát. .................................................. 37 1.3.2. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình khảo sát ................... 39 1.3.3. Những kết quả thu được sau khảo sát ............................................. 41 Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 42 Chương 2. PHÂN LOẠI VÀ MIÊU TẢ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGỤ NGÔN NGƯỜI VIỆT ................................... 43 2.1. Nhân vật là con vật ................................................................................ 43 2.1.1. Những con vật thông minh .............................................................. 44 2.1.2. Những con vật ngu dốt .................................................................... 53 2.1.3 Những con vật tốt bụng .................................................................... 61 2.1.4. Những con vật xấu xa...................................................................... 62 2.1.5. Những con vật tình nghĩa ................................................................ 67
  6. 2.1.6. Những con vật bội ơn ...................................................................... 70 2.1.7. Những con vật có các đặc điểm khác .............................................. 72 2.2. Nhân vật là con người ........................................................................... 76 2.2.1. Những con người có phẩm chất tốt đẹp .......................................... 77 2.2.2. Những con người có tính cách xấu xa............................................. 83 2.2.3. Những con người có đặc điểm khác ................................................ 86 2.3. Các nhân vật khác.................................................................................. 88 Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 91 Chương 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT VÀ VAI TRÒ CỦA NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGỤ NGÔN NGƯỜI VIỆT ............................................................................ 92 3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật............................................................... 92 3.1.1. Xây dựng nhân vật thông qua việc tạo lập các mối quan hệ........... 92 3.1.2. Xây dựng nhân vật thông qua ngôn ngữ ....................................... 114 3.1.3. Xây dựng nhân vật thông qua hành động...................................... 123 3.1.4. Một số biện pháp nghệ thuật khác................................................. 125 3.2. Vai trò của nhân vật trong truyện ngụ ngôn người Việt ..................... 132 3.2.1. Nhân vật chi phối cách thức cấu tạo cốt truyện ............................ 132 3.2.2. Nhân vật thể hiện nội dung, ý nghĩa của truyện............................ 135 3.2.3. Nhân vật dẫn dắt, thúc đẩy diễn biến truyện ................................. 137 Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 141 KẾT LUẬN................................................................................................... 142 TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................... 144 PHỤ LỤC
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Văn học dân gian Việt Nam là một kho tàng phong phú với nhiều thể loại khác nhau. Trong khi các thể loại đã thực sự tìm được chỗ đứng trong lòng văn học dân tộc, khẳng định mình bằng những đặc trưng thì truyện ngụ ngôn dường như vẫn mang một số phận “lên thác, xuống ghềnh”, có giai đoạn được thừa nhận là một thể loại riêng biệt đối sánh với các thể loại khác, có khi nhiều nhà nghiên cứu lại dè chừng, băn khoăn mà đặt nó vào thể loại tự sự cổ tích, không thừa nhận đó là một thể loại tồn tại độc lập. Truyện ngụ ngôn có trong kho tàng văn học của rất nhiều dân tộc ở Việt Nam. Đó là những truyện thuộc truyện cổ dân tộc Giáy, Khơ Me – Nam Bộ, Nùng, Ê Đê, HMông, Mường… Thể loại truyện ngụ ngôn cũng khá phong phú với dạng phổ biến là văn xuôi, bên cạnh đó còn có dạng văn vần, gồm: truyện thơ ngụ ngôn và ca dao ngụ ngôn. Truyện ngụ ngôn vốn chứa đầy ẩn ý như chính tên gọi của nó, những bài học được gửi gắm một cách trực tiếp hay gián tiếp qua các câu chuyện đã khiến nó trở thành nguồn nuôi dưỡng tinh thần có giá trị lớn lao cho con người trong cách dạy làm người, lối ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ và hiểu biết về nhiều vấn đề trong xã hội. Để truyền tải được nội dung câu chuyện đến với người đọc, người nghe một cách thành công, truyện ngụ ngôn thông thường chú ý nhiều đến việc lựa chọn và xây dựng các loại nhân vật. Thế giới nhân vật trong truyện ngụ ngôn phong phú, đa dạng. Bên cạnh việc nghiên cứu về truyện ngụ ngôn nói chung thì các kiểu nhân vật trong truyện ngụ ngôn đã và đang trở thành một đề tài thu hút các nhà nghiên cứu văn học. Tùy mỗi phạm vi và mức độ nghiên cứu mà nhiều công trình có giá trị đã được khẳng định. Tuy nhiên, nhìn chung các đề tài thường tập trung vào nghiên cứu, khai thác một mảng, một kiểu nhân vật xuất hiện trong truyện ngụ ngôn hay chỉ thống kê đơn thuần các loại nhân vật; một vài công trình
  8. 2 nghiên cứu đã đề cập đến thế giới nhân vật trong truyện ngụ ngôn của nước ngoài nhưng thế giới nhân vật trong truyện ngụ ngôn Việt Nam nói chung và truyện ngụ ngôn người Việt nói riêng còn là vấn đề bỏ ngỏ. Từ những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài Thế giới nhân vật trong truyện ngụ ngôn người Việt với mong muốn đem lại cái nhìn vừa khái quát, vừa cụ thể về thế giới nhân vật, đặc điểm, cách thức xây dựng nhân vật và vai trò của nhân vật trong truyện ngụ ngôn người Việt. Bên cạnh đó, luận văn cũng góp phần đưa truyện ngụ ngôn người Việt đến gần hơn với người đọc, từ đó giúp họ thêm yêu truyện ngụ ngôn người Việt, người Việt và văn hóa Việt hơn. Như vậy, việc nghiên cứu đề tài Thế giới nhân vật trong truyện ngụ ngôn người Việt vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có giá trị thực tiễn. 2. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài nhằm thực hiện các mục đích sau đây: Thứ nhất, khảo sát và chỉ ra một cách có hệ thống thế giới nhân vật xuất hiện trong truyện ngụ ngôn của người Việt. Thứ hai, giúp người đọc hiểu thêm về đặc điểm thế giới nhân vật trong truyện ngụ ngôn, những cách thức xây dựng nhân vật và vai trò của nhân vật trong truyện ngụ ngôn người Việt. Thứ ba, qua đề tài, chúng tôi mong muốn giúp người đọc hiểu và yêu thêm về văn học dân gian người Việt, người Việt và văn hóa Việt. 3. Lịch sử vấn đề 3.1. Tình hình sưu tầm, biên soạn và nghiên cứu chung về truyện ngụ ngôn Việc sưu tầm, biên soạn truyện ngụ ngôn Việt Nam có thể chia làm hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945: Vào những năm 30 – 40 của thế kỉ XX, trên văn đàn nước ta xuất hiện một số công trình sưu tầm, biên soạn truyện ngụ ngôn có giá trị. Trước hết phải kể đến tập truyện
  9. 3 dày và có giá trị nhất là Truyện cổ nước Nam của Nguyễn Văn Ngọc. Tập truyện bao gồm các sáng tác là truyện cổ tích, truyện cười và nhiều truyện ngụ ngôn. Sách có 249 truyện, chia làm 2 quyển (quyển đầu xuất bản năm 1932, quyển sau xuất bản năm 1934). Theo Nguyễn Văn Ngọc trong Truyện cổ nước Nam (1990), ông nói rằng, công việc sưu tầm, biên soạn của mình cũng gặp không ít khó khăn vì “Những truyện chúng tôi nhặt nhạnh đây, hầu hết là còn ở trong tiếng nói hơn ở trong chữ viết, xưa nay chỉ mới được người kể cho tai nghe, chứ chưa mấy ai chịu nhặt nhạnh biên chép, ấn hành thành sách vở” (Nguyễn Văn Ngọc, 1990). Vì thế, có hiện tượng khác nhau ở cùng một truyện, có khi có người kể thế này, người kể thế khác “đây ngắt rút nửa chừng, đó dài thêm hai ba đoạn” (Nguyễn Văn Ngọc, 1990). Tác giả phải nghe kể từ nhiều nguời, tìm tòi, hỏi khắp, từ đó mà “đắn đo so sánh, suy xét, cân nhắc từng li từng tí” (Nguyễn Văn Ngọc, 1990) rồi cuối cùng mới “sửa sang, mà trau mài cho thành được câu chuyện có đầu có đuôi, có ý nghĩa, có kì thú, có văn vẻ” (Nguyễn Văn Ngọc, 1990). Bên cạnh đó, từ năm 1927 đến năm 1936, tên tuổi Nguyễn Văn Ngọc gắn liền với hai quyển Đông Tây ngụ ngôn. Trong đó, quyển trên in 1927 dày 157 trang, gồm 153 tác phẩm. Quyển dưới in 1936, dày 180 trang gồm 187 bài. Ông đã phóng tác truyện ngụ ngôn nước ngoài như Trung Quốc, Pháp… để giới thiệu với độc giả Việt Nam. Các truyện được soạn thành văn vần, theo nhiều thể khác nhau như lục bát, song thất lục bát, thể cổ phong, hành ngâm, tam thất... Giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám năm 1945: Giai đoạn này, truyện ngụ ngôn vẫn tiếp tục phát triển. Bên cạnh đó, nhiều tuyển tập mang tính hệ thống, quy mô lớn về truyện ngụ ngôn được xuất bản và giới thiệu rộng rãi đến với người đọc. Có thể kể đến: Năm 1972, trong cuốn Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập I, Văn học dân gian có giới thiệu 14 truyện ngụ ngôn bằng văn xuôi. Dưới mỗi truyện đều ghi
  10. 4 tên người kể. Bên cạnh đó, qua cuốn sách này, lần đầu tiên truyện ngụ ngôn được thừa nhận là một thể loại đồng đẳng với truyện thần thoại, truyện cổ tích, truyện cười. Năm 1979, cuốn sách Tiếng cười dân gian Việt Nam do Trương Chính, Phong Châu biên soạn đã dành một chương để thể hiện 21 truyện ngụ ngôn bằng văn xuôi và không ghi tên người kể chuyện. Năm 1986, lần đầu tiên truyện ngụ ngôn được giới thiệu riêng trong một quyển sách mang tên Truyện ngụ ngôn Việt Nam (151 trang) của hai soạn giả Minh Hạnh, Phan Hồng Sơn. Ở cuốn sách này, truyện ngụ ngôn xuất hiện ở hai dạng: truyện ngụ ngôn bằng văn vần (Trê Cóc; Lục súc tranh công…) và truyện ngụ ngôn bằng văn xuôi (Hai con Dê; Con chó chết đuối; Chôn vàng…). Năm 1999, Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, tập 3 của Nguyễn Cừ và Phan Trọng Thưởng được ra đời. Trong tuyển tập có 199 truyện ngụ ngôn văn xuôi (bao gồm cả một số ít truyện của các dân tộc ít người). Bên cạnh đó có 19 truyện ngụ ngôn văn vần, bao gồm cả những sáng tác là thơ ngụ ngôn của Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Văn Ngọc, Nam Hương; truyện thơ ngụ ngôn và một số bài ca dao ngụ ngôn. Tuyển tập được đánh giá là một công trình đồ sộ, có giá trị lớn trong việc sưu tầm, biên soạn truyện ngụ ngôn Việt Nam. Năm 2000, Những con vật biết nói (Truyện ngụ ngôn hiện đại) của Dương Văn Thoa, Nxb Văn hóa dân tộc đã được giới thiệu đến người đọc. Đây là công trình sưu tầm với 337 truyện thuộc truyện ngụ ngôn hiện đại. Các truyện đều không được ghi thông tin về tác giả, nguồn gốc xuất xứ. Năm 2003, trong cuốn Tổng tập văn học dân gian Việt Nam, tập 10 do Nguyễn Xuân Kính chủ biên đã thống kê được 209 truyện ngụ ngôn của người Việt. Trong đó có 177 truyện ngụ ngôn bằng văn xuôi, 32 truyện ngụ ngôn bằng văn vần. Ngoài ra, trong phần Phụ lục, tổng tập giới thiệu một số
  11. 5 truyện trong Thánh Tông di thảo (không có tên tác giả, không ghi năm biên soạn); một số tác phẩm trong Đông Tây ngụ ngôn của Nguyễn Văn Ngọc; một số tác phẩm trong Thơ ngụ ngôn của Nguyễn Trọng Thuật; một số tác phẩm trong Gương thế sự của Bùi Huy Cường. Với tính chất, quy mô của tổng tập, chúng tôi đánh giá đây là một công trình sưu tầm, biên soạn đồ sộ, công phu về truyện ngụ ngôn người Việt. Đặc biệt, trong tổng tập nhiều truyện có nhiều bản kể, nhóm tác giả giới thiệu một bản chính, phần khảo dị in kiểu chữ khác. Mỗi truyện đều có xuất xứ: in ở sách nào? Bên cạnh tên sách có số trang và có nhiều truyện để tên người kể. Điều này tạo nên sự hấp dẫn, lôi cuốn, giúp người đọc được tiếp cận thêm nhiều dị bản. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là công trình này dừng ở việc sưu tầm, biên soạn các truyện ngụ ngôn người Việt có từ giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, còn việc sưu tầm, biên soạn các truyện ngụ ngôn người Việt từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay chưa có thêm tài liệu nào được công bố. Đó cũng là khó khăn khi chúng tôi tiến hành tìm nguồn tư liệu về tác phẩm để nghiên cứu đề tài này. (Năm 2008, tác giả tách các truyện trong tập 10 thành 2 quyển, những quyển này nằm trong bộ Tinh tuyển văn học dân gian người Việt. Trong đó, tác giả lược bỏ phần dị bản của các tác phẩm có nhiều bản kể và in trong cuốn sách có độ dày phù hợp để phục vụ đông đảo người đọc). Năm 2012, cuốn Từ điển Type truyện dân gian Việt Nam do Nguyễn Thị Huế chủ biên ra đời. Công trình đã tập hợp và trình bày các type truyện xếp theo từng thể loại khác nhau. Type truyện ngụ ngôn do Nguyễn Huy Bỉnh đảm nhiệm đã tập hợp được 169 truyện, bên cạnh còn có các type truyện khác như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích... Ở mỗi truyện đều có ghi thông tin truyện được kể thuộc dân tộc nào. Những truyện có chung cốt truyện sẽ được tác giả tập hợp thành một nhóm. Tuy nhiên, các truyện ngụ ngôn trong từ điển này chủ yếu được lấy từ cuốn Tổng tập Văn học dân gian Việt Nam, tập 10 do
  12. 6 Nguyễn Xuân Kính chủ biên. Ngoài ra, có số ít truyện thuộc các dân tộc thiểu số đã được tác giả tập hợp từ các công trình của người đi trước. Năm 2015, cuốn Văn học dân gian Bến Tre (Tuyển chọn từ tài liệu sưu tầm điền dã) do Nguyễn Ngọc Quang chủ biên đã dành một phần để thể hiện 14 truyện ngụ ngôn ở dạng văn xuôi và văn vần. Mỗi truyện đều được cung cấp thông tin về họ và tên, địa chỉ và năm sinh của người kể. Năm 2016, cuốn Văn học dân gian An Giang (Tuyển chọn từ tài liệu sưu tầm và điền dã) do Nguyễn Ngọc Quang chủ biên đã tập hợp được 35 truyện ngụ ngôn Việt Nam được lưu truyền tại các địa phương của tỉnh An Giang. Trong sách này, tác giả đã dựa vào nội dung mà phân chia thành 3 nhóm, gồm nhóm truyện có nội dung triết lí về thế giới quan, nhân sinh quan về xã hội; nhóm truyện có nội dung răn dạy luân lý, lối sống, cách đối nhân xử thế ở đời và nhóm truyện thể hiện ý chí đấu tranh, chống áp bức, bóc lột, đòi quyền sống, quyền bình đẳng. Mỗi truyện đều có thông tin về họ tên, năm sinh, quê quán, dân tộc (nếu là người thuộc dân tộc thiểu số) của người kể. Như vậy, việc sưu tầm, biên soạn truyện ngụ ngôn là một hành trình khó khăn, vất vả từ những ngày đầu tiên đặt nền móng cho đến nay. Tuy nhiên, nhìn vào những thành quả đã đạt được, chúng ta tự hào về thể loại truyện ngụ ngôn của dân tộc bởi sự phong phú về số lượng tác phẩm của nó. Song song với quá trình biên soạn là thực tế nghiên cứu, phân tích truyện ngụ ngôn. Năm 1927, trong lời tựa cuốn “Đông Tây ngụ ngôn”, Nguyễn Văn Ngọc đã dành 26 trang bàn về các nội dung của thể ngụ ngôn. Đầu tiên, tác giả đã đưa ra khái niệm có thể xem là chính xác về truyện ngụ ngôn. Sau đó, khi nói về thế giới nhân vật xuất hiện trong truyện ngụ ngôn, Nguyễn Văn Ngọc cho rằng “bao nhiêu những cái “khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán”, Ngụ - ngôn đều mượn được cả. Ngụ - ngôn thực là một “tấn kịch thiên hình vạn trạng”, thiên biến vạn hóa vậy” (Nguyễn Văn Ngọc, 1927).
  13. 7 Bên cạnh đó, tác giả cũng trình bày về nguồn gốc của truyện ngụ ngôn. Trong đó, ông nhấn mạnh, phương Đông là cái nôi ra đời của truyện ngụ ngôn bởi: Người Đông Phương sở dĩ mà có ngụ ngôn sớm, là vì người Đông Phương văn minh sớm, mà trong sự văn minh tất phải lấy Văn – chương làm đầu. Người Đông Phương thường hay ưa chơi cây cối loài vật, chẳng những coi muôn loài chúng sinh cũng như mình, lắm khi vu hoặc lại còn kính thờ nên Thần, nên Thánh nữa. Người Đông Phương lại có tính cẩu thả thích mơ tưởng những sự hoang đường, lắm khi mượn những truyện về ngoài thơn thớt nói cười, mà bên trong thực ngụ những ý thâm trầm sâu sắc. Người Đông Phương lại còn hay chịu cái quyền quân chủ áp chế, đã quen thân phận phải làm tôi đòi, ngôn luận không được tự do, nên khi có ý nghĩ riêng thường không dám nói thẳng, phải tìm đường nói cạnh, nói xa, nói bâng quơ, nói bóng gió, nói châm chọc… (Nguyễn Văn Ngọc, 1927). Đồng thời, trong bài viết này, Nguyễn Văn Ngọc cũng dành cho ngụ ngôn một sự đánh giá trân trọng. Năm 1927, Nguyễn Trọng Thuật cũng đề cập đến ngụ ngôn Việt Nam trong bài viết “Khảo về lối văn ngụ ngôn” đăng trên Tạp chí Nam phong, số 716. Trong bài viết này, tác giả đã “nêu ý kiến bàn luận có giá trị về nguồn gốc, tính chất, tác dụng của truyện ngụ ngôn” (Nguyễn Minh Hạnh, 1991). Đồng thời, Nguyễn Trọng Thuật cũng có cuốn Thơ ngụ ngôn (1928) là tập hợp các sáng tác thơ ngụ ngôn của ông và đã từng được đăng trên nhiều tờ báo như Tri Tân, Nam Phong… Năm 1962, truyện ngụ ngôn được đưa vào giảng dạy tại một số trường Đại học với vai trò là một thể loại văn học dân gian, đồng đẳng với các thể loại khác như truyện cổ tích, truyện cười, vè… Sau một thời gian có vẻ “lắng
  14. 8 xuống” khi không thấy xuất hiện các công trình sưu tầm, biên soạn hay nghiên cứu về truyện ngụ ngôn thì việc đưa văn học dân gian vào giảng dạy tại các trường Đại học ở giai đoạn này trở đi là “tiếng chuông” báo hiệu cho một thời kì được quan tâm, chú trọng hơn của truyện ngụ ngôn. Từ 1990 đến nay, trong cuốn Văn học dân gian dày 277 trang do Lê Chí Quế chủ biên (đã được xuất bản và tái bản nhiều lần) đều không phân tích truyện ngụ ngôn với tư cách là một thể loại độc lập. Trong khi các tác giả dành cả chương 2 để nói về các thể loại tự sự dân gian như thần thoại, truyền thuyết, sử thi anh hùng, truyện cổ tích, truyện cười… nhưng không dành trang nào để viết về truyện ngụ ngôn. Bắt đầu từ năm 1980 trở đi, Phạm Minh Hạnh đã có nhiều bài viết về truyện ngụ ngôn được đăng trên Tạp chí Văn hóa dân gian. Đặc biệt, năm 1991 tác giả Minh Hạnh đã bảo vệ thành công luận án phó Tiến sĩ khoa học Ngữ Văn với đề tài Tìm hiểu thể loại ngụ ngôn ở Việt Nam. Đóng góp của luận án là đã hệ thống hóa các công trình nghiên cứu về ngụ ngôn Việt Nam từ xưa đến đầu những năm 1990 của thế kỉ XX. Bên cạnh đó, luận án đã đưa ra những nét đặc trưng chung của truyện ngụ ngôn và những nét đặc trưng riêng của truyện ngụ ngôn Việt Nam. Đặc biệt, luận án còn khẳng định sự tồn tại, phát triển cũng như vai trò, tác dụng của truyện ngụ ngôn trong xã hội mới. Năm 1998, Trương Chính cho xuất bản cuốn sách Bình giải ngụ ngôn Việt Nam. Cuốn sách tập hợp 181 truyện ngụ ngôn Việt Nam (gồm ngụ ngôn văn xuôi và ca dao ngụ ngôn), không ghi xuất xứ truyện và thông tin người kể chuyện. Sau mỗi truyện và bài ca dao ngụ ngôn, tác giả sẽ đưa ra lời bình giải. Năm 2003, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2 – 2003; tr 72 -77 có bài nghiên cứu với nhan đề “Nhận diện thể loại truyện ngụ ngôn” của Nguyễn Xuân Kính. Bài viết có nội dung: làm rõ sự riêng biệt của thể loại ngụ ngôn và chỗ giao giữa thể loại này với một số thể loại khác như truyện cổ tích,
  15. 9 truyện cười…; cho thấy “truyện ngụ ngôn là một phức thể” bao gồm cả văn xuôi và văn vần. Bên cạnh đó, bài viết đề cập về dung lượng, về các loại nhân vật và nội dung ý nghĩa của truyện ngụ ngôn. Ở phần cuối, bài viết nhấn mạnh về mục đích chính của truyện ngụ ngôn là đạt đến lời quy châm. Dù nó tồn tại ở dạng văn vần hay văn xuôi, kể chuyện loài vật hay kể chuyện con người, dù bộc lộ tư tưởng trực tiếp hay gián tiếp… thì cuối cùng lời ngụ ý của truyện vẫn là thể hiện một quan niệm triết lí hay đạo đức, một kinh nghiệm sống đã được thế hệ đi trước đúc kết và truyền lại. Năm 2005, trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam do Đinh Gia Khánh chủ biên, tác giả đã phân tích văn học dân gian theo thể loại độc lập. Giáo trình được tái bản lần thứ 9, có bổ sung, điều chỉnh trên cơ sở các cuốn giáo trình Văn học dân gian (tập 1 và tập 2) của tác giả Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, in vào những năm 1972 – 1977 và cuốn Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam của Võ Quang Nhơn in năm 1983. Đây là một trong những tài liệu có đóng góp quan trọng đối với việc dạy và học tập văn học dân gian ở các trường đại học trong nhiều năm và ở đây, “truyện ngụ ngôn được phân tích có hệ thống, với tư cách là một thể loại văn học dân gian” (Nguyễn Xuân Kính, Nguyễn Đức Diệu, Kiều Thu Hoạch, Trần Đức Ngôn và Lê Chí Quế, 2003). Tính hệ thống của truyện ngụ ngôn được Đinh Gia Khánh trình bày trong 13 trang với đầy đủ các yếu tố: định nghĩa, nguồn gốc, ảnh hưởng và các đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của truyện ngụ ngôn Việt Nam. Năm 2005, trong cuốn Góc nhìn cấu trúc về truyện ngụ ngôn dân gian Việt Nam, tác giả Triều Nguyên đã mang lại cho truyện dân gian Việt Nam một cái nhìn mới mẻ, khách quan hơn. Qua việc khảo sát 243 truyện ngụ ngôn Việt Nam dạng văn xuôi, cuốn sách được chia làm 4 phần khoa học, hợp lí, một lần nữa góp phần khẳng định ngụ ngôn là một thể loại hoàn toàn biệt lập, đầy đủ và hệ thống như các thể loại khác của văn học dân gian Việt Nam. Đặc
  16. 10 biệt, tác giả đã nghiên cứu theo hướng cấu trúc của nội dung văn bản nên “tạo được tính nghiêm ngặt, tránh được hiện tượng chủ quan, cảm tính như thường hay bắt gặp trong nghiên cứu lĩnh vực thuộc ngành khoa học xã hội và nhân văn” (Triều Nguyên, 2005). Bên cạnh đó, các mô hình cấu trúc này được thiết lập có phần dựa trên đặc điểm thể loại và thi pháp của truyện ngụ ngôn. Vì thế nên, khi tìm đến với chuyên luận của tác giả, chúng tôi vừa được tiếp cận một hệ thống mô hình cấu trúc truyện ngụ ngôn vừa nhận biết thêm về đặc điểm thể loại truyện ngụ ngôn. Trong phần đặc điểm thể loại, tác giả trình bày khá rõ ràng chi tiết về các vấn đề: Đặc điểm truyện ngụ ngôn với kết cấu truyện, nhân vật truyện và ý nghĩa truyện. Phần cuối, tác giả đưa ra một số so sánh truyện ngụ ngôn dân gian Việt Nam dạng văn xuôi với các dạng còn lại, với truyện ngụ ngôn Trung Quốc và một số nhà sáng tác ngụ ngôn nước ngoài như: Êdốp, La Fông ten, Lep Tônxtôi, sau đó là một số nhận xét và kếu luận chung. Năm 2012, trong sách “Phân tích tác phẩm văn học dân gian trong nhà trường”, Bùi Mạnh Nhị đã trình bày khái quát về khái niệm và đưa ra nhận định chung về truyện ngụ ngôn. Sau đó, tác giả đã tập trung phân tích một số truyện ngụ ngôn được đưa vào giảng dạy trong nhà trường (Ếch ngồi đáy giếng; Đeo nhạc cho Mèo; Thầy bói xem voi). Nhìn chung, các công trình sưu tầm, biên soạn trên là những thành tựu đã đạt được và có giá trị lớn đối với kho tàng văn học dân gian của dân tộc. Tuy nhiên, các tác giả chưa tập trung cho việc nghiên cứu, tìm hiểu sâu về các loại nhân vật trong thể loại truyện ngụ ngôn này. 3.2. Tình hình nghiên cứu các loại nhân vật trong truyện ngụ ngôn Vào những năm 1990 của thế kỉ XX trở đi đã xuất hiện nhiều bài viết có liên quan đến nhân vật trong truyện ngụ ngôn. Có thể kể đến với những cái tên tiêu biểu như Minh Hạnh, Triều Nguyên, Đặng Quốc Minh Dương qua một số công trình nghiên cứu về nhân vật trong truyện ngụ ngôn.
  17. 11 Năm 2005, trong cuốn “Góc nhìn cấu trúc về truyện ngụ ngôn dân gian Việt Nam”, Triều Nguyên đã chỉ ra 5 đặc điểm cơ bản và đặt nhân vật trong hai mô hình cấu trúc đơn tuyến và song tuyến để nghiên cứu. Theo mô hình cấu trúc, nhân vật đơn tuyến gồm nhân vật đơn tuyến là động vật; nhân vật đơn tuyến là người và nhân vật đơn tuyến là vật hay là người trước sự vật, hiện tượng; nhân vật song tuyến gồm nhân vật song tuyến là động vật; nhân vật song tuyến là người; nhân vật song tuyến là vật – người và nhân vật song tuyến là vật hay người trước sự vật, hiện tượng. Cách làm này đã giúp người đọc dễ nắm bắt khi tìm hiểu về nhân vật trong truyện ngụ ngôn dân gian Việt Nam. Song nó chỉ dừng lại ở phương diện cấu trúc, điều mà tác giả cho rằng “cho nhìn thấy bộ xương” mà tước mất phần nội dung, da thịt, cái đẹp, điều mà đôi khi chúng cần được “mờ hóa” để lung linh, huyền ảo hơn. Từ năm 2006 đến năm 2014, tác giả Đặng Quốc Minh Dương đã có nhiều bài viết về kiểu truyện con vật tinh ranh trong văn học dân gian nói chung. Năm 2006, bài viết “Tìm hiểu hệ thống nhân vật trong kiểu truyện “con thỏ tinh ranh” của các dân tộc Việt Nam, tr. 87 – 93 đăng trên “Tạp chí Khoa học xã hội – Viện Khoa học Xã hội. Năm 2008 bài viết “Cốt truyện của kiểu truyện con thỏ tinh ranh trong truyện cổ Việt Nam” đăng trên Tạp chí Khoa học xã hội – Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, tr. 56 – 61. Năm 2012 bài viết “Mô – típ “mẹo dây thừng” trong kiểu truyện con vật thông minh”, Tạp chí Khoa học trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh, tr.44 – 54. Năm 2013, trên Tạp chí Nguồn sáng Dân gian – Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam là bài viết “Kiểu truyện con vật tinh ranh – những nẻo đường tiếp cận”, tr. 11 – 15. Năm 2013, bài viết “Nhân vật trong kiểu truyện con thỏ tinh ranh của
  18. 12 Campuchia”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), tr.86-88. Năm 2014, “Motif xử kiện trong kiểu truyện con vật tinh ranh”, Tạp chí khoa học Văn hóa và Du lịch, tr. 94 – 99. Năm 2014, “Type truyện phân chia hoa lợi trong kiểu truyện con vật tinh ranh”, Tạp chí Khoa học Đại học Văn Hiến, tr. 55 – 58. Đặc biệt, năm 2014, Luận án Tiến sĩ Văn học của Đặng Quốc Minh Dương với đề tài “Kiểu truyện con vật tinh ranh trong truyện dân gian Việt Nam và thế giới”, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam- Học viện Khoa học xã hội đã giúp người đọc có cái nhìn cơ bản, đa diện về kiểu truyện con vật tinh ranh của Việt Nam và thế giới. Kết quả của luận án tạo tiền đề để các nhà khoa học Việt Nam và thế giới tìm hiểu và nghiên cứu sâu hơn về truyện loài vật nói chung. Đồng thời, các công trình nghiên cứu của tác giả còn có đóng góp đáng kể trong việc nghiên cứu, tìm hiểu chuyên sâu về kiểu truyện con vật tinh ranh trong truyện dân gian Việt Nam nói chung và là cơ sở để chúng tôi tiếp tục triển khai đề tài ở phạm vi thu gọn hơn, dành riêng cho thế giới nhân vật trong truyện ngụ ngôn bằng văn xuôi của người Việt. Năm 2019, khóa luận tốt nghiệp Đại học với đề tài “Thế giới nhân vật trong truyện ngụ ngôn ở chương trình Tiếng việt Tiểu học” của tác giả Nguyễn Thị Giang trường Đại học Quảng Bình đã tập trung nghiên cứu các loại nhân vật, nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngụ ngôn được giới thiệu trong chương trình Tiểu học theo hướng tiếp cận phù hợp với đối tượng là học sinh Tiểu học. Khóa luận nói về thế giới nhân vật trong truyện ngụ ngôn, đó là hướng tiếp cận gần với đề tài của chúng tôi. Tuy nhiên, điểm khác là khóa luận chỉ sử dụng nguồn tác phẩm lấy trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học, không phải truyện ngụ ngôn bằng văn xuôi của người Việt. Vì thế việc nghiên cứu về thế giới nhân vật trong truyện ngụ ngôn người Việt của chúng tôi vẫn là cần thiết.
  19. 13 Tiếp nối những công trình nghiên cứu trên, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu đề tài này nhằm tập trung sâu hơn vào hệ thống thế giới nhân vật xuất hiện trong truyện ngụ ngôn người Việt. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Nhân vật trong các truyện ngụ ngôn bằng văn xuôi của người Việt là đối tượng nghiên cứu của đề tài. Mặc dù chúng tôi đã cố gắng rất nhiều trong việc tìm kiếm các công trình sưu tầm, biên soạn về truyện ngụ ngôn của người Việt song vì bản thân các truyện đã trải qua nhiều lần tập hợp, được kể lại khác nhau nên việc tìm kiếm đầy đủ là việc làm không hề đơn giản. Dựa vào khả năng và mục đích nghiên cứu, chúng tôi chỉ sử dụng các truyện ngụ ngôn bằng văn xuôi của người Việt tập hợp trong một số nguồn đáng tin cậy làm đối tượng nghiên cứu, bao gồm: 1. 177 truyện của người Việt trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 trong cuốn Tổng tập Văn học Dân gian người Việt, tập 10, Truyện ngụ ngôn, do tác giả Nguyễn Xuân Kính (chủ biên), Nxb Khoa học Xã Hội. Đề tài không sử dụng nguồn tư liệu truyện ngụ ngôn bằng văn vần; một số truyện trong Thánh Tông di thảo; Một số tác phẩm trong Đông Tây ngụ ngôn; một số tác phẩm trong thơ ngụ ngôn; Một số tác phẩm trong Gương thế sự ca dao ngụ ngôn được đề cập trong các cuốn sách này. 2. Luận văn còn sử dụng 16/243 truyện ngụ ngôn trong cuốn Góc nhìn cấu trúc về truyện ngụ ngôn Việt Nam của tác giả Triều Nguyên, Nxb Thuận Hóa. 3. Luận văn cũng sử dụng 9/14 truyện ngụ ngôn trong cuốn Văn học dân gian Bến Tre (Tuyển chọn từ tài liệu sưu tầm điền dã) do Nguyễn Ngọc Quang (chủ biên), Nxb Văn hóa dân tộc 4. Luận văn sử dụng 13/35 truyện ngụ ngôn trong cuốn Văn học dân gian An Giang (Tuyển chọn từ tài liệu sưu tầm điền dã) do Nguyễn Ngọc Quang (chủ biên), Nxb Văn hóa dân tộc.
  20. 14 Vậy, tổng số có 217 truyện thuộc thể loại ngụ ngôn văn xuôi người Việt được chúng tôi sử dụng để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này. 5. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu hiệu quả đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau đây: 5.1. Phương pháp thống kê – phân loại Phương pháp nhằm mục đích thống kê số liệu các nhân vật có chung một hoặc vài đặc điểm trong 217 truyện được sử dụng để khảo sát trong đề tài và sau đó phân loại cụ thể để xếp chúng theo từng loại nhân vật. 5.2 Phương pháp phân tích – tổng hợp: Phương pháp nhằm phân tích để làm rõ ràng, cụ thể về nhân vật qua các đặc điểm tính cách, hành động và sau đó rút ra khái quát chung cho mỗi nội dung. 5.3. Phương pháp so sánh Sử dụng phương pháp này góp phần thấy được sự tương đồng, khác biệt của truyện ngụ ngôn người Việt so với truyện ngụ ngôn dân gian Việt Nam nói chung. 6. Đóng góp mới của luận văn Luận văn nhằm đem lại cái nhìn cụ thể, hệ thống về thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngụ ngôn bằng văn xuôi của người Việt. Bên cạnh đó, luận văn góp phần lan tỏa giá trị tinh thần của con người Việt, văn hóa của người Việt đến với người đọc. Ngoài ra, chúng tôi giới thiệu 217 truyện ngụ ngôn văn xuôi của người Việt mà chúng tôi sưu tầm được bằng hình thức tóm tắt ở phần phụ lục 1; bảng thống kê các loại nhân vật trong 217 truyện ngụ ngôn người Việt ở phụ lục 2 và bảng thống kê các loại nhân vật theo đặc điểm, phẩm chất, tính cách từ phụ lục 3 đến phụ lục 13.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2