Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang
lượt xem 13
download
Việc nghiên cứu biểu tượng văn hóa dân tộc Mông trong dân ca Mông ở Hà Giang nhằm tìm hiểu nội dung, ý nghĩa và chức năng của hệ thống biểu tượng trong dân ca Mông với việc thể hiện bản sắc văn hóa cộng đồng dân tộc Mông. Từ đó, góp thêm tiếng nói vào công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa dân tộc Mông nói riêng. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TĂNG THANH PHƯƠNG BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG DÂN CA MÔNG HÀ GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2018
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TĂNG THANH PHƯƠNG BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG DÂN CA MÔNG HÀ GIANG Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Ngọc Anh THÁI NGUYÊN - 2018
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và nội dung này chưa từng được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào trước đó. Thái Nguyên, tháng 5 năm 2018 Tác giả luận văn Tăng Thanh Phương i
- LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị Ngọc Anh - người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình hoàn thành luận văn này. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cán bộ, giảng viên khoa Ngữ Văn, phòng Đào tạo trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên đã chỉ bảo tận tình và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn. Em xin chân thành cảm ơn những ý kiến nhận xét, đánh giá, góp ý quý báu của Hội đồng khoa học giúp em hoàn thiện hơn luận văn. Thái Nguyên, tháng 5 năm 2018 Tác giả luận văn Tăng Thanh Phương ii
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................... 7 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 7 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 8 6. Đóng góp của đề tài ........................................................................................ 9 7. Cấu trúc luận văn............................................................................................ 9 NỘI DUNG..................................................................................................... 10 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN CA MÔNG VÀ BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG VĂN HỌC........................................ 10 1.1. Vài nét khái quát về dân ca Mông ở Hà Giang ........................................ 10 1.2. Biểu tượng văn hóa trong tác phẩm văn học............................................ 15 1.2.1. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học .................................................. 15 1.2.2. Biểu tượng và biểu tượng văn hóa trong văn học ................................. 19 Chương 2: NHỮNG BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG DÂN CA MÔNG HÀ GIANG ...................................................................................................... 25 2.1. Biểu tượng thiên nhiên trong cảm quan văn hóa Mông ........................... 26 2.1.1. Biểu tượng trời ...................................................................................... 26 2.1.2. Biểu tượng núi ....................................................................................... 31 2.1.3. Biểu tượng nước .................................................................................... 35 2.1.4. Biểu tượng đá ........................................................................................ 40 2.2. Biểu tượng về con người trong văn hóa Mông ........................................ 45 2.2.1. Biểu tượng về người cha ....................................................................... 45 2.2.2. Biểu tượng về người mẹ ........................................................................ 50 iii
- 2.2.3. Biểu tượng về đrâu Mông ..................................................................... 54 2.2.4. Biểu tượng về gầu Mông ....................................................................... 58 Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG DÂN CA MÔNG HÀ GIANG ...................................................... 64 3.1. Ngôn ngữ .................................................................................................. 64 3.1.1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh ........................................................................ 64 3.1.2. Ngôn ngữ giàu nhịp điệu ....................................................................... 66 3.1.3. Ngôn ngữ giàu cảm xúc ........................................................................ 69 3.2. Quan niệm nghệ thuật của tác giả dân gian Mông ................................... 72 3.2.1. Quan niệm về thiên nhiên ..................................................................... 72 3.2.2. Quan niệm về con người ....................................................................... 75 KẾT LUẬN .................................................................................................... 80 CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ................................... 82 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 83 iv
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Văn học dân tộc thiểu số nói chung là một bộ phận quan trọng tạo nên nét vẽ hoàn chỉnh cho bức tranh văn học Việt Nam. Trong đó, bộ phận dân ca của đồng bào dân tộc thiểu số được xem là một trong những nét phác họa cơ bản giúp ta hình dung được đời sống vật chất, tinh thần cũng như lịch sử phát triển của cộng đồng dân tộc đó từ thời điểm khai sinh cho đến ngày nay. Nguồn dân ca đóng vai trò như một trung tâm lưu giữ và bảo tồn những giá trị văn hóa quý giá cho mỗi dân tộc với đặc trưng thể loại là hình thành và tồn tại trong tổng thể văn hóa dân gian. Hiểu dân ca cũng có nghĩa là hiểu tâm tư, tình cảm, phong tục, tín ngưỡng, ngôn ngữ... của dân tộc đó. Đặc biệt trong một địa phương có cộng đồng người dân tộc thiểu số đa dạng như Hà Giang thì vấn đề nghiên cứu dân ca của các dân tộc ở đây lại càng cần được chú trọng hơn. 1.2. Nghiên cứu biểu tượng văn hóa nhằm giải mã các thành tố văn hóa được hình thành trong đời sống con người đã và đang là một chủ đề thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu trong một vài thập kỷ gần đây. Biểu tượng là loại mã văn hóa mà nếu muốn hiểu về một nền văn học, các nhà nghiên cứu không thể không quan tâm. Việc hiểu ý nghĩa của các biểu tượng trong văn học mỗi dân tộc chính là quá trình đi vào khám phá đặc tính văn hóa của cộng đồng dân tộc đó được thể hiện thông qua ngôn ngữ biểu tượng. Biểu tượng là một kênh thông tin cho phép con người ở những thời đại khác nhau, những nền văn minh khác nhau, những vùng văn hóa khác nhau có thể giao tiếp với nhau. Việc nghiên cứu văn học từ góc độ văn hóa cho thấy một hướng đi triển vọng trong việc tiếp cận tác phẩm bên cạnh những yếu tố thi pháp truyền thống. Cách tiếp cận văn học từ văn hóa giúp phát hiện thêm những chiều kích của tác phẩm, đẩy tư tưởng tác phẩm lên thành những vấn đề văn hóa chứ không chỉ dừng lại ở mức văn học. 1
- 1.3. Trong các địa phương có người dân tộc Mông sinh sống, Hà Giang là nơi có số lượng cộng đồng dân tộc thiểu số này đông hơn cả chiếm 1/3 số người Mông của cả nước. Có thể nói văn hóa của cộng đồng người Mông chi phối phần lớn văn hóa Hà Giang nói chung. Văn học dân tộc Mông có vị trí quan trọng gần như chủ chốt với khối lượng tác phẩm tuy chưa nhiều nhưng khá phong phú và đa dạng từ thơ, dân ca đến tục ngữ, câu đố, truyện cổ dân gian... Nếu thiếu đi kho tàng văn học dân tộc Mông thì bức tranh văn học dân tộc thiểu số ở Hà Giang sẽ có khoảng trống rất lớn. Không chỉ có giá trị nội dung mà giá trị nghệ thuật của nhóm văn học dân tộc Mông cũng rất cần được quan tâm và lý giải. Với đặc thù như vậy, việc khai thác hệ thống biểu tượng trong dân ca của người Mông tại đây không chỉ có ý nghĩa về mặt lưu giữ văn hóa dân tộc mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy đời sống văn hóa dân tộc Mông cũng như việc truyền bá di sản văn học của cộng đồng dân tộc giữ vị trí chủ đạo tại mảnh đất địa đầu tổ quốc. 1.4. Lựa chọn đề tài Biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang, chúng tôi mong muốn làm dày thêm hướng đi trong việc khám phá dân ca Mông ở Hà Giang nói riêng và khám phá văn học dân gian Mông nói chung. Tạo tiền đề xác lập vị trí xứng đáng của văn học dân gian Mông trong công tác giảng dạy văn học tại nhà trường phổ thông, thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động giáo dục trong nhà trường gắn với văn học bản địa. Hiểu biểu tượng của một cộng đồng dân tộc từ dân ca cũng là một phương thức góp phần phát triển văn hóa thông qua những giá trị bản sắc được mở ra từ văn học. 2. Lịch sử vấn đề Văn học dân gian Mông không phải là chủ đề mới lạ trong hướng tiếp cận nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số nói chung. Thế nhưng khó có thể khẳng định mảnh đất màu mỡ này đã không còn một khoảng trống nào để tiếp tục cày xới. Mỗi bước tiến của khoa học nghiên cứu văn học sẽ đi kèm 2
- theo đó là những hệ thống lý thuyết nghiên cứu mới, đây là chìa khóa mở ra những cách cửa tiếp theo để giải mã những tác phẩm văn học mà chúng ta tưởng chừng như đã hiểu hết về nó. Dân ca Mông ở Hà Giang là một đối tượng như vậy. Từ những năm 60 của thế kỉ XX trở lại đây, các công trình sưu tầm, nghiên cứu về thơ văn dân tộc Mông dần xuất hiện. Dấu mốc đầu tiên phải kể đến là cuốn Dân ca Mèo [58] xuất bản năm 1967 được giới thiệu bởi nhà nghiên cứu, sưu tầm Doãn Thanh do nhà xuất bản Văn học ấn hành. Các di sản về dân ca Mông lần lượt được giới thiệu trong các công trình sưu tầm sau đó như: Chỉ vì quá yêu (Hùng Đình Quý, Nxb Văn hóa dân tộc, 1998) [48]; Không thương nhau sẽ khổ (Hờ A Di, Nxb Văn hóa dân tộc, 1999) [9]… Bên cạnh đó, văn học dân gian Mông cũng xuất hiện trong những công trình mang tính chất tập hợp và giới thiệu văn học dân tộc thiểu số nước nhà như: Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam 1945 – 1985 (Nxb Văn hóa – 1981) [34]; Thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỉ XX (Nxb Văn hóa dân tộc, 1985) [35]… Riêng mảnh đất Hà Giang, công trình sưu tầm của nhà thơ, nhà sưu tầm văn học dân gian Hùng Đình Quý với tập thơ Chỉ vì quá yêu [48] và ba tập Dân ca Mông ở Hà Giang [45-47] đã đặt những viên gạch đầu tiên cho diện mạo thơ ca dân tộc Mông ở Hà Giang nói riêng và nền văn học dân gian Hà Giang nói chung. Nối tiếp sau đó là các công trình sưu tầm khác về văn học dân gian Mông Hà Giang như: Những bài khèn của người Mông ở Hà Giang (Hùng Đình Quý, Nxb Khoa học Xã hội) [49]; tập truyện cổ dân tộc Mông Hà Giang Cháng Sí Páo mồ côi [60] (nhóm tác giả Hạng Thị Vân Thanh, Dương Thị Phương, Giàng Thị Sến, Hội VHNT tỉnh Hà Giang)… đã làm cho diện mạo văn học dân gian Mông ở Hà Giang dần rõ nét hơn. Cùng với sự tìm tòi của các nhà sưu tầm, các nhà nghiên cứu cũng đã bắt tay tạo thêm một mảnh ghép giúp thơ ca dân tộc Mông hiện lên hoàn 3
- chỉnh nhất. Có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu về dân ca Mông nói chung như Thơ ca dân gian H’Mông (2003) [17] của Hùng Thị Hà. Đề tài nghiên cứu khoa học của Đỗ Ngọc Hoa Diễn xướng dân ca Mông Hà Giang (2003). Dân ca giao duyên và lễ hội Gầu tào của dân tộc Mông của tác giả Nguyễn Văn Tiệp (2003), Khảo sát nghi lễ cúng ma dân tộc Mông của tác giả Hoàng Thị Thủy (2004). Tiếng hát về tình yêu đôi lứa trong dân ca Mông Hà Giang của Vũ Hồng Cường (2010). Luận văn thạc sĩ Tính nữ và nữ quyền trong dân ca Mông (2013) của Nguyễn Thị Phương Hoa. Các công trình, bài báo khoa học khác như: Tình yêu trong thơ ca dân gian Mông [25] của tác giả Hùng Thị Hiền, Không gian và thời gian nghệ thuật trong thơ ca dân gian Mông [19], Câu dân ca trên cao nguyên đá [20]... của tác giả Hùng Thị Hà.... Trong các công trình, đề tài, bài viết kể trên, các tác giả đã tập trung khảo sát dân ca Mông về nội dung biểu hiện, hình thức diễn xướng và một số yếu tố thi pháp. Các tác giả có nhắc đến biểu tượng trong dân ca Mông nhưng mới chỉ là gợi dẫn mà chưa đi vào phân tích ý nghĩa cụ thể từng biểu tượng cũng như vị trí của những biểu tượng đó trong nền văn hóa dân tộc Mông. Một trong những công trình nghiên cứu tập trung vào biểu tượng trong dân ca Mông là luận văn Giải mã biểu tượng lanh trong dân ca Hmông của tác giả Đặng Thị Oanh (2006) [42]. Tác giả đi vào khảo sát biểu tượng lanh trong dân ca Mông từ cơ sở hình thành biểu tượng lanh trong đời sống văn hóa. Biểu tượng trong dân ca Mông cũng được nhắc đến trong luận án của tác giả Nguyễn Kiến Thọ Thơ ca dân tộc Hmông - từ truyền thống đến hiện đại (2012) [64]. Tác giả đã đề cập đến biểu tượng trong sự vận động của tiến trình thơ ca dân tộc Mông. Tác giả đưa ra những biểu tượng mang tính truyền thống vẫn thường xuyên xuất hiện trong thơ ca dân gian và những biểu tượng mới phát sinh về cuộc sống và con người dân tộc Mông trong giai đoạn lịch sử. Từ đó, tác 4
- giả đi đến kết luận thế giới biểu tượng là sợi dây gắn kết giữa truyền thống và hiện đại trong thơ ca dân tộc Mông. Nghiên cứu biểu tượng trong văn học dân gian Mông từ góc nhìn văn hóa cũng có thêm những bước tiến mới với sự xuất hiện ngày càng phong phú và đa dạng nhiều công trình, bài viết. Các tác giả thể hiện sự quan tâm và cho thấy sự cần thiết của việc nghiên cứu biểu tượng trong lĩnh vực văn học dân gian này. Luận văn thạc sĩ của Trương Thị Thùy Anh Nghiên cứu biểu tượng khèn trong dân ca Mông từ văn hóa đến văn học dân gian (2014) [1] tập trung phân tích biểu tượng khèn và giải mã một số hướng nghĩa tiêu biểu của biểu tượng khèn từ văn hóa đến văn học dân gian. Dưới góc nhìn văn hóa, tác giả đã đưa ra một số hướng nghĩa cơ bản của biểu tượng khèn trong dân ca Mông: biểu tượng vật thiêng trong nghi lễ tang ma, biểu tượng tính nam, dấu hiệu phân biệt thế giới con người, biểu trưng cho thân phận con người, biểu trưng cho hai trạng thái trong tình yêu. Luận văn đã khẳng định được giá trị của nghiên cứu biểu tượng dưới góc nhìn văn hóa. Đây là sự gợi mở hết sức quý giá cho các công trình nghiên cứu về biểu tượng trong dân ca Mông sau đó. Hướng nghiên cứu tiếp cận văn học dân gian Mông từ góc nhìn văn hóa được đào sâu hơn qua luận án tiến sĩ Thơ ca dân gian Mông từ góc nhìn văn hóa (2015) [18] của tác giả Hùng Thị Hà. Tác giả công trình đã khảo sát thơ ca dân gian Mông về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật từ góc nhìn văn hóa. Trong quá trình phân tích, tác giả có đề cập đến một số biểu tượng phổ biến trong thơ ca dân gian Mông như biểu tượng cây lanh, biểu tượng cây khèn, biểu tượng con đường, biểu tượng nước, biểu tượng hoa, biểu tượng con số, biểu tượng bồ giáo, thắt lưng, xà cạp, khăn đội đầu, biểu tượng lá ngón, cuộn dây, biểu tượng chiếc ô, biểu tượng con ngựa... Tuy nhiên hệ thống biểu tượng tác giả chỉ ra mới chỉ được nghiên cứu và xem xét như là một trong các yếu tố của phương diện cấu trúc nghệ thuật trong thơ ca dân gian Mông chứ chưa phải là đối tượng nghiên cứu chính từ góc nhìn văn hóa. 5
- Tiến sĩ Trần Hữu Sơn trong bài viết: Cây lanh – Biểu tượng trong văn hóa dân gian H’Mông đã nhận định “Văn hóa dân gian tộc người Mông giàu bản sắc, xuất hiện nhiều hệ thống biểu tượng đặc thù như biểu tượng về hệ thống cây (có các biểu tượng cây tre, cây lanh, cây thuốc phiện, cây cỏ tranh, ngải cứu, cây ngô, cây kê, cây quả bầu…) biểu tượng về hệ thống loài vật (con gà, con trâu, con ngựa, con lợn, con hổ, con chó…) hoặc biểu tượng về đồ vật ví dụ cây khèn, cái ô, tù và , cái giường …. Các biểu tượng trên có tần số xuất hiện nhiều trong nghi lễ, tín ngưỡng, phong tục tập quán và văn học dân gian…” [51]. Từ đây có thể điểm qua một số công trình bài viết khác về biểu tượng trong văn học dân gian Mông như: Bùi Xuân Tiệp với Bước đầu giải mã một số biểu tượng trong lễ hội Gầu Tào và dân ca giao duyên dân tộc Mông [55] đã giải mã biểu tượng lanh trong lễ hội Gầu Tào và tập trung sâu hơn vào mảng biểu tượng trong dân ca giao duyên. Trần Duy Hưng với công trình Biểu tượng trong dân ca nghi lễ tang ma của người Mông ở Hà Giang [28] cũng đã khai thác hệ thống biểu tượng ở mảng dân ca nghi lễ. Tác giả Hùng Thị Hà với bài viết Biểu tượng cây lanh trong thơ ca dân gian Mông khẳng định giá trị biểu tượng lanh trong văn hóa Mông từ dân ca [16]. Từ những tìm hiểu về lịch sử nghiên cứu dân ca Mông nói chung và biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông nói riêng, chúng tôi nhận thấy trong các công trình nghiên cứu về dân ca Mông, các tác giả đều khẳng định về sự có mặt của những biểu tượng và bước đầu đã có những kiến giải về ý nghĩa của những biểu tượng đó. Tuy nhiên, tác giả những công trình nghiên cứu trên mới chỉ tập trung vào một số biểu tượng như biểu tượng khèn, biểu tượng lanh mà chưa chú ý tới một hệ thống các biểu tượng phong phú khác trong dân ca Mông. Đồng thời, các tác giả thường nghiên cứu biểu tượng như một đơn vị riêng lẻ mà chưa đặt các biểu tượng trong hệ thống các biểu tượng cùng loại để xem xét, đánh giá ý nghĩa biểu tượng trong đời sống văn hóa. Đặc biệt chưa có 6
- công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về hệ thống biểu tượng văn hóa dân tộc Mông trong dân ca Mông Hà Giang. Tuy vậy, những đề tài, bài viết kể trên là nguồn tư liệu vô cùng quý giá và trở thành những công trình gợi dẫn cho chúng tôi lựa chọn Biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang làm đề tài luận văn của mình. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống biểu tượng văn hóa dân tộc Mông trong dân ca Mông Hà Giang. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu chủ yếu của đề tài là ba tập Dân ca Mông Hà Giang do nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Hùng Đình Quý sưu tầm và xuất bản: Hùng Đình Quý, (1995), Dân ca Mông Hà Giang, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Hà Giang (tập 1,2,3). Ngoài ra, trong quá trình triển khai các vấn đề của đề tài, chúng tôi còn sử dụng các công trình sưu tầm và nghiên cứu khác về dân ca Mông như cuốn Dân ca H’Mông, (1984), Doãn Thanh, Hoàng Thao, Chế Lan Viên, Nxb Văn học, Hà Nội; Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam 1945 - 1985, (1981), Nxb Văn hóa dân tộc; Thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỉ XX, (1985), Nxb Văn hóa dân tộc. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu biểu tượng văn hóa dân tộc Mông trong dân ca Mông ở Hà Giang nhằm tìm hiểu nội dung, ý nghĩa và chức năng của hệ thống biểu tượng trong dân ca Mông với việc thể hiện bản sắc văn hóa cộng đồng dân tộc Mông. Từ đó, góp thêm tiếng nói vào công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa dân tộc Mông nói riêng. 7
- 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn những vấn đề có liên quan đến đề tài. - Phân tích nội dung, ý nghĩa, giá trị nghệ thuật của các biểu tượng tiêu biểu trong dân ca Mông Hà Giang. Đồng thời, đưa ra những nhận định, đánh giá về vai trò của hệ thống biểu tượng với việc khẳng định giá trị văn hóa người Mông Hà Giang. 5. Phương pháp nghiên cứu Ở đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích và tổng hợp: Đề tài sử dụng nhằm phân tích các tài liệu lý luận về biểu tượng, về lý thuyết bảo tồn và phát huy, phân tích các khía cạnh để làm rõ các nội dung nghiên cứu. Từ đó tổng hợp các vấn đề nghiên cứu để đưa ra đánh giá, kết luận về đối tượng nghiên cứu. - Phương pháp phân loại và hệ thống hóa: phương pháp này được sử dụng để thống kê tần số xuất hiện các biểu tượng cũng như các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài để có cái nhìn tổng quát về vấn đề nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu so sánh: phương pháp này chúng tôi sử dụng để so sánh diện mạo dân ca Mông với các dân tộc khác, đối chiếu hệ thống biểu tượng trong văn hóa Mông với văn hóa các dân tộc khác để tìm ra nét riêng bản sắc trong dân ca Mông Hà Giang - Phương pháp điền dã văn học: phương pháp này hỗ trợ trong quá trình tìm hiểu thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị dân ca Mông nói riêng và giá trị văn học cổ truyền Mông ở Hà Giang nói chung. - Phương pháp điều tra, khảo sát: điều tra, khảo sát bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu về các vấn đề liên quan đến đề tài, đi sâu vào mục đích nghiên cứu, gắn với thực tế tại địa bàn nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành: nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa cần nhìn nhận dưới quan điểm liên ngành để có cái nhìn toàn diện, sâu 8
- sắc. Có sự kết hợp với các ngành khoa học khác như: Lịch sử, Địa lí, Dân tộc học, Nhân chủng học, Văn hóa học... - Phương pháp nghiên cứu hệ thống: đặt biểu tượng trong mối vận động, tác động qua lại trong hệ thống để khẳng định giá trị của biểu tượng. - Phương pháp kí hiệu học: mối biểu tượng là một loại kí hiệu đặc biệt, phương pháp kí hiệu học sẽ làm rõ hơn mối quan hệ giữa cái biểu đạt cái được biểu đạt qua ngôn ngữ biểu tượng. 6. Đóng góp của đề tài - Luận văn Biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang là công trình đầu tiên nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về biểu tượng trong dân ca Mông Hà Giang từ góc nhìn văn hóa, với mục tiêu làm rõ những nét bản sắc của cộng đồng dân tộc Mông Hà Giang qua dân ca nói riêng, cũng như chỉ ra vị trí, vai trò của nét bản sắc này trong cộng đồng các dân tộc sinh sống tại Hà Giang nói chung. - Trên cơ sở phân tích ý nghĩa của hệ thống biểu tượng trong dân ca Mông, chỉ ra được sự cần thiết của việc đưa văn học dân gian Mông vào giảng dạy tại nhà trường, nhất là với học sinh người Mông. Đây chính là môi trường bảo tồn và phát huy văn hóa Mông một cách trọn vẹn nhất. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm ba chương Chương 1: Những vấn đề chung về dân ca Mông và biểu tượng văn hóa trong văn học Chương 2: Những biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang Chương 3: Nghệ thuật xây dựng biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang 9
- NỘI DUNG Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN CA MÔNG VÀ BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG VĂN HỌC 1.1. Vài nét khái quát về dân ca Mông ở Hà Giang Cao nguyên đá Hà Giang là vùng đất cư trú của nhiều tộc người anh em các dân tộc thiểu số như Mông, Tày, Lô Lô, Dao, Giấy, Nùng, Pu Péo... Tuy nhiên, tộc người chiếm ưu thế hơn cả là dân tộc Mông, những cư dân để lại dấu ấn đậm nét nhất trong đời sống vật chất và tinh thần tại vùng đất này. Vấn đề tộc danh của đồng bào Mông đã được đặt ra từ trước những năm 1945. Tuy nhiên cách gọi tên và phiên âm trong Tiếng Việt hơn nửa thế kỉ qua của cộng đồng dân tộc này không có sự thống nhất. Trước đây người Hán gọi người Mông là Miêu Tử hay Miêu Tộc, rồi sau đó Miêu trở thành tên tộc người. Có thời gian, các cộng đồng ở phía Bắc Việt Nam gọi họ là người Mèo. Một số văn bản và công trình nghiên cứu khác về tộc người sử dụng cách viết H’Mông. Tại Hội nghị cốt cán năm 1978 đã chính thức gọi tên dân tộc này là dân tộc Mông. Hội Đồng Dân tộc của Quốc Hội (khoá X) đã có công văn số: 09-CV/HĐDT ngày 04/12/2001 về việc đề nghị đọc đúng tên và khái niệm về dân tộc, công văn nêu rõ: “Tên gọi dân tộc Mông, nếu viết bằng chữ phổ thông là ngôn ngữ chính thức của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì viết là dân tộc Mông” [5]. Với văn bản mang tính pháp quy đã ban hành, tên gọi dân tộc Mông được coi là tộc danh chính thức. Tuy nhiên, chúng tôi xin giữ nguyên cách viết về tên gọi dân tộc Mông trong các công trình trước đó của các nhà nghiên cứu khi trích dẫn nguồn tư liệu trong đề tài. Dân ca là những sáng tác có từ lâu đời. Các tác giả Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa về dân ca như sau:“Một loại hình sáng tác dân gian mang tính chất tổng hợp bao gồm lời nhạc, động tác, điệu bộ kết hợp với nhau trong 10
- diễn xướng” [14;108]. Dân ca nói chung là những bài hát sinh ra từ trong lòng nhân dân và có đời sống ngay giữa cộng đồng nhân dân đó. Với đặc trưng như vậy, dân ca gắn liền với mọi sinh hoạt của đời sống và thể hiện nếp cảm, nếp nghĩ của cộng đồng sáng tạo ra nó. Hầu hết các dân tộc và các địa phương đều có những làn điệu dân ca cho riêng mình. Sự xuất hiện của những tác phẩm dân ca của các dân tộc ít nhiều có sự khác nhau. Tuy nhiên tựu chung lại, mỗi bài dân ca thường có nguồn gốc từ những điều kiện chủ yếu như phong tục sinh hoạt, nghi lễ, điều kiện tự nhiên xã hội, hoạt động vui chơi, lao động sản xuất. Mỗi dân tộc cư trú trên những vùng miền, những khu vực địa lý khác nhau sẽ tạo dựng những phong tục, lối sống, phương thức lao động để tồn tại, ngôn ngữ giao tiếp cho dân tộc mình. Cũng như vậy, quá trình ra đời các làn điệu dân ca mang dấu ấn thời gian, không gian, phong tục, ngữ âm của từng dân tộc. Dân tộc Mông sở hữu một kho tàng văn học nghệ thuật dân gian tương đối phong phú bao gồm: truyện cổ tích, truyện thơ, tục ngữ, câu đố, dân ca, thần thoại.... Các tác phẩm văn học dân gian ấy phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan và cuộc sống lao động, đấu tranh của người Mông. Nhiều tác phẩm văn học dân gian Mông truyền từ đời này sang đời khác thực sự là những tác phẩm văn học có giá trị cao. Nền văn học dân gian của dân tộc Mông phản ánh chính cuộc sống của họ và phản ánh năng lực của con người trước thiên nhiên khắc nghiệt. Nếu như truyện dân gian Mông tập trung đề cập đến mặt trái xã hội, bênh vực lẽ phải, tràn đầy tính giáo dục và đạo đức nhân văn cao cả. Bộ phận tục ngữ và câu đố với những nội dung phong phú thể hiện mối quan hệ xã hội giữa người với người và giữa con người với thiên nhiên thì các tác phẩm dân ca Mông có sức phản ánh mọi mặt của đời sống người Mông. Dân ca Mông là một trong những di sản tinh thần độc đáo của nền văn học dân tộc, là bộ phận tiêu biểu trong văn hóa dân tộc Mông chứa đựng nhiều giá trị 11
- nghệ thuật đặc sắc. Đặc biệt phần dân ca về nghi lễ phong tục phản ánh những quan niệm về tín ngưỡng có chiều sâu nhân bản của đồng bào. Dân ca Mông có thể coi là người anh cả trong không gian văn học dân tộc Mông bởi sự phong phú về số lượng tác phẩm cũng như giá trị biểu đạt. Khi điều tra về vị trí của dân ca Mông so với các thể loại văn học dân gian khác của người Mông, kết quả khảo sát tại Hà Giang cho thấy hơn 70% người dân lựa chọn dân ca. Điều này khẳng định trong tâm thức của người dân nơi đây, nhắc đến dân tộc Mông thì dân ca luôn là lựa chọn đầu tiên trong không gian văn học của tộc người này. Dân ca còn là sự tích hợp của nhiều thể loại văn học dân gian khác như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ, tục ngữ, câu đố… Không khó để tìm thấy ở dân ca Mông sự lồng ghép trong lời ca những yếu tố văn học kể trên. Ngược lại, muốn hiểu tường tận dân ca Mông cũng phải cần đến sự trợ lực của các thể loại văn học khác. Rất nhiều nhà nghiên cứu như Chế Lan Viên, Nguyễn Mạnh Tiến, Doãn Thanh, Trần Hữu Sơn, Hồng Thao... đã nhận định dân ca là thể loại nền tảng mà những mảnh vỡ từ nó có thể cấu thành nên các thể loại văn học dân gian khác như truyện thơ, thần thoại... Tất cả những điều này khẳng định một lần nữa vị trí của dân ca Mông trong không gian văn học của người Mông. Theo các tài liệu lịch sử, tài liệu dân tộc học, người Mông đến Việt Nam vào khoảng cách đây 300 – 500 năm. Khi mới đặt những bước chân đầu tiên vào Việt Nam, họ mang theo vốn dân ca Mông từ Trung Quốc. Phải đến một thời gian sau đó họ mới bắt đầu sáng tác những bài dân ca mới. Các bài dân ca Mông lúc này phản ánh một bộ mặt văn hóa mới được người Mông kiến tạo trên mảnh đất Việt Nam. Đó là quá trình những sáng tác dân ca được phát triển thành từ những chất liệu đầy màu sắc của cuộc sống. Theo các nhà nghiên cứu, dân ca Mông do các nghệ nhân sáng tác tại miền núi phía Bắc nước ta dần dần qua quá trình truyền miệng, qua thời gian, qua sự sáng tạo 12
- của nhiều người mới thành bài ca hoàn chỉnh. Những người Mông đầu tiên đến miền đất mới đã sáng tác vài điệu dân ca mô tả cuộc sống mới, kể chuyện phong cảnh thiên nhiên. Những bài dân ca mới được bồi đắp dần qua dấu ấn tinh thần người Mông, đi từ ý tưởng chưa hoàn chỉnh thành những bài hát được lưu truyền trong dân gian. Dân ca Mông cứ như vậy xuất hiện trên miền đất mới ở phía Bắc Tổ quốc Việt Nam. Từ những năm 60 của thế kỉ XX, dân ca Mông được sưu tầm và truyền bá với vai trò là các tác phẩm văn học qua việc xuất bản và giới thiệu trong các tuyển tập sách chung về văn học dân gian và xuất bản tuyển tập dân ca Mông nói riêng. Tập Dân ca Mèo [58] của Doãn Thanh là công trình sưu tầm tập hợp được số lượng các bài dân ca được coi là hoàn chỉnh nhất. Khi cuốn sách được tái bản năm 1984 với tên gọi Dân ca H’mông [59] đã được thêm hai bài trong đó có bài Tiếng hát mồ côi được Lê Trung Vũ sưu tầm ở Mèo Vạc – Hà Giang. Như vậy, dân ca Mông Hà Giang đã bắt đầu được sưu tầm và giới thiêu từ thời điểm đó. Tiếp nối sau đó từ năm 1995 đến năm 2003, nhà thơ Hùng Đình Quý đã đi khắp những bản làn Mông ở Hà Giang và ghi lại những bài dân ca từ trí nhớ các nghệ nhân còn lưu giữ được bằng cả tiếng Mông và tiếng Việt. Nhà thơ đã tập hợp những bài dân ca sưu tầm được và công bố trong tuyển tập ba tập Dân ca Mông Hà Giang [45-47] do Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Hà Giang xuất bản từ năm 1995 - 2003. Đây là công trình khẳng định giá trị dân ca Mông trong kho tàng văn học dân gian Mông Hà Giang từ số lượng tác phẩm cho đến nội dung và nghệ thuật. Nếu như với các dân tộc vùng đất Tây Nguyên, sử thi luôn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong kho tàng văn hóa thì với dân tộc Mông vị trí đó thuộc về dân ca. Với lịch sử buộc phải di chuyển triền miên thì hình thức truyền khẩu và lưu giữ trong trí nhớ đã giúp dân ca trở thành bộ phận giữ được số lượng phong phú và toàn diện nhất về mọi mặt. Số lượng dân ca 13
- Mông được sưu tầm tuy chưa thể nói là đã đầy đủ nhưng dựa trên những tuyển tập mà các nhà nghiên cứu sưu tầm được, chúng ta có cơ sở để nhận định về một nền văn hóa Mông được hình thành và liên tục bồi đắp theo những bước chân của người Mông. Dân ca được lựa chọn bởi nó gắn liền với mọi hoạt động của người Mông. Từ ngày thường cho đến dịp lễ hội, từ khi người Mông sinh ra cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay, từ những lần làm quen hò hẹn cho đến ngày đôi nam nữ về một nhà, tất cả đều có sự hiện diện của dân ca. Dân ca còn giúp người Mông nói lên bao tiếng lòng mà họ không biết tâm sự cùng ai. Tiếng hát tình yêu, tiếng hát cưới xin, tiếng hát mồ côi, tiếng hát làm dâu, tiếng hát đám ma – Tang ca chính là những minh chứng rõ nhất cho điều này. Chính điều đó khiến dân ca trở thành thể loại nổi trội nhất trong kho tàng văn học dân gian Mông và rộng hơn là cả kho tàng văn hóa Mông. Quá trình khám phá dân ca Mông là quá trình tiếp xúc với chính văn hóa Mông qua dấu ấn tinh thần của người Mông. Những câu từ tưởng như hình thành từ vô thức lại phản ánh rất đậm nét những dấu vết hằn lại từ bao thế hệ để rồi cứ thế xếp chồng lên cho bề dày văn hóa dân tộc. Người Mông là tộc người yêu ca hát, họ bỏ vào trong lời hát của mình mọi gia vị cuộc đời mà họ nếm trải. Từng lời dân ca là từng mảnh ghép tinh túy nhất mà người Mông đã cô đúc lại và gắn vào bức tranh văn hóa chung của các dân tộc Việt Nam. Khi khẳng định dân ca có vai trò quan trọng nhất trong kho tàng văn học và cả văn hóa dân gian của người Mông. Đồng nghĩa với việc chúng ta hoàn toàn có cơ sở để bóc tách được từ đó những yếu tố thuộc về bản chất sâu sắc của tộc người. Đời sống của người Mông không bao giờ thiếu tiếng hát, già, trẻ, gái, trai người Mông sinh ra đều làm bạn với tiếng hát cho đến cuối đời. Dân ca trở thành ngôn ngữ chung của cả cộng đồng. Từ hai người Mông xa lạ qua một cuộc hát đối đáp hay chỉ người này nghe người kia hát mà họ có thể nhận ra nhau, hiểu nhau thì chắc hẳn yếu tố văn hóa 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
147 p | 667 | 92
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ chat - Tiếng Việt và tiếng Anh
141 p | 667 | 73
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam bộ
240 p | 303 | 65
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ chỉ thực vật trong tiếng Việt (đối chiếu giữa các phương ngữ)
116 p | 229 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm của tiêu đề văn bản trong thể loại tin tức
192 p | 248 | 60
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
146 p | 152 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tiếp xúc ngôn ngữ Ê Đê - Việt ở tỉnh Đak Lăk trên bình diện từ vựng - ngữ nghĩa
155 p | 201 | 48
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngôn ngữ văn bản hành chính tiêng Việt trong lĩnh vực thương mại
152 p | 238 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri luận
92 p | 170 | 42
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Quán ngữ tình thái tiếng Việt
94 p | 168 | 41
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngữ nghĩa – Ngữ dụng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
98 p | 163 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
165 p | 166 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Cấu tạo hình thức và ngữ nghĩa của thuật ngữ thể thao tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
249 p | 205 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Lịch sự trong hành động cầu khiến tiếng Việt
148 p | 155 | 31
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong câu tiếng Việt
211 p | 155 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ án văn tiếng Việt
203 p | 119 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Màu sắc Nam bộ trong ngôn ngữ truyện ký Sơn Nam
113 p | 155 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Một số tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Tố Hữu
25 p | 122 | 17
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn